Sách “Cõi thiêng Yên Tử’ do ông Thi Sảnh (tức Thanh Sỹ giám đốc Sở Văn hóa Thể Thao và Du lịch kiêm chủ tịch Hội khoa học lịch sử tỉnh Quảng Ninh xuất bản trước năm 2000, hiện vẫn có giá trị lưu hành) và Giáo sư Hà Văn Tấn là tác giả. Sách dầy 40 trang cỡ 12-21 cm . Phần ông Thi Sảnh viết hai bài từ trang 20 đến trang 38.
Thứ Hai, 24 tháng 11, 2025
THỰC HƯ CHUYỆN 100 CUNG NỮ TỰ TỬ CHẾT THEO VUA TRẦN?
Sách “Cõi thiêng Yên Tử’ do ông Thi Sảnh (tức Thanh Sỹ giám đốc Sở Văn hóa Thể Thao và Du lịch kiêm chủ tịch Hội khoa học lịch sử tỉnh Quảng Ninh xuất bản trước năm 2000, hiện vẫn có giá trị lưu hành) và Giáo sư Hà Văn Tấn là tác giả. Sách dầy 40 trang cỡ 12-21 cm . Phần ông Thi Sảnh viết hai bài từ trang 20 đến trang 38.
Thứ Ba, 6 tháng 12, 2022
PHÂN BIỆT TRƯỜNG ĐẠI HỌC VỚI ĐẠI HỌC LÀ THẤT SÁCH!
PGS.TS Nguyễn Hồng Cổn
Báo Lao động. Thứ hai, 05/12/2022 21:53 (GMT+7)
Những giờ qua, dư luận đặc biệt quan tâm và không ít băn khoăn với ý nghĩa, sự khác nhau giữa “Đại học” và “Trường Đại học” nhân sự kiện Trường Đại học Bách khoa Hà Nội được chuyển lên thành Đại học Bách khoa Hà Nội.
Vậy các nước trên thế giới tổ chức mô hình giáo dục đại học ra sao? Có phân biệt "Đại học" với "Trường Đại học" như Việt Nam hay không?
Báo Lao Động trân trọng giới thiệu bài viết của PGS-TS Nguyễn Hồng Cổn - nguyên Trưởng khoa Ngôn ngữ học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, để làm sáng tỏ vấn đề này.
Chủ Nhật, 18 tháng 9, 2022
TIẾN SĨ HÁN HỌC NGUYỄN THỊ DUỆ LÀ MỘT SẢN PHẨM HƯ CẤU
từng công tác tại Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Hải Dương:
Tôi là Nguyễn Cảnh Thụy từng công tác tại Sở GDĐT Hải Dương rất tâm đắc với bài viết của nhà văn Đặng Văn Sinh- coi đây là vấn đề học thuật còn bỏ ngỏ cần được đưa ra bàn thảo để đi đến kết luận thật khách quan, khoa học.
Về việc Sở GDĐT cho in cuốn lịch sử địa phương đưa vào giảng dạy trong các trường phổ thông tôi có ý kiến như sau: Trước khi đưa in cuốn sách này, tôi đã có ý kiến phản đối chi tiết ghi trong cuốn sách nói bà Nguyễn Thị Duệ là tiến sĩ với lý do: các tài liệu chính sử cũng như văn bia vinh danh các tiến sĩ nho học không có ở đâu ghi tên bà Nguyễn Thị Duệ. Nếu đưa vào chưa chưa có căn cứ thì sẽ gây hậu quả lớn, làm cho các thế hệ học sinh hiểu sai về lịch sử. Nhưng ý kiến của tôi không được chấp nhận và cuốn sách vẫn được in như dự kiến. Tư liệu lịch sử thì dựa vào cuốn Cuốn “Tiến sĩ Nho học tỉnh Hải Dương” do ông Tăng Bá Hoành (Giám đốc Bảo tàng Hải Dương) biên soạn và phát hành năm 1999.
Thứ Năm, 15 tháng 9, 2022
VỀ ĐÔI CÂU ĐỐI NỔI TIẾNG Ở ĐỀN KIẾP BẠC
VỀ ĐÔI CÂU ĐỐI NỔI TIẾNG Ở ĐỀN KIẾP BẠC
Lời dẫn của Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện: Đây là đôi câu đối rất nổi tiếng, trước hết vì nó rất hay mà lại rất ngắn. Tác giả của đôi câu đối là Tam nguyên Thám hoa Vũ Phạm Hàm là một người hay chữ bậc nhất hồi đầu thế kỷ XX. Nổi tiếng nữa là vì có một dị bản khác là "thung thanh" gây ra cuộc tranh cãi liên miên trên khắp các mặt báo trong hơn nửa thế kỷ qua. Vậy "thu thanh"(Tiếng mùa thu, cũng là tiếng binh đao) hay là "thung thanh"(Tiếng đóng cọc).
萬 劫 有 山皆 劍 氣
六 頭 無 水不 秋 聲
Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm khí,
Lục Đầu vô thủy bất thu thanh
Dịch nghĩa:
Vạn Kiếp có ngọn núi nào thì đều vương hơi kiếm
Lục Đầu không con nước nào không vang tiếng đao binh.
*************
Xin giới thiệu bài Tổng thuật rất hay, rất đầy đủ và khách quan của Nguyễn Hồng Lam:
MỘT CHỮ, NỬA THẾ KỶ TRANH CÃI
Thứ Năm, 24/05/2012, 08:00
Trong tâm thức người Việt, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đã trở thành bậc hiển thánh, được lập đền thờ nhiều nơi. Sớm nhất phải kế đến đền Kiếp Bạc ở xã Vạn Kiếp, nay là xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, Hải Dương, nơi gắn liền với chiến thắng Bạch Đằng giang lừng lẫy. Đền được xây dựng từ năm 1300, ngay sau khi Trần Hưng Đạo tạ thế.
Đến những năm đầu thế kỷ XX, hai bên cổng đền có khắc thêm đôi câu đối:
萬 劫 有 山皆 劍 氣
六 頭 無 水不 秋聲
Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm khí,
Lục Đầu vô thủy bất thu thanh
Dịch nghĩa:
Vạn Kiếp có ngọn núi nào thì đều vương hơi gươm kiếm
Lục Đầu không con nước nào không vang tiếng đao binh
Đôi câu đối này cũng đồng thời được khắc trước đền thờ Trần Hưng Đạo tại số 36, đường Võ Thị Sáu, Q.I, TP Hồ Chí Minh. Tác giả của đôi câu đối là Tam nguyên Vũ Phạm Hàm, đậu Thám Hoa nhưng thực chất là Thủ khoa (Đình Nguyên), giành học vị đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ khoa thi Đình đời vua Thành Thái năm thứ tư (năm 1892, khoa thi này không lấy Trạng Nguyên và Bảng Nhãn). Đỗ đồng khoa, xếp danh liền sau Vũ Phạm Hàm là Nguyễn Thượng Hiền, đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) và Chu Mạnh Trinh đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân.
Từ khi ra đời đến nay, đôi câu đối của bậc đại khoa vẫn được đánh giá là "ngắn gọn, cô đọng, nhưng đã thể hiện được khí phách oai hùng của những trận chiến chống quân Nguyên xâm lược, còn vang vọng mãi đến tận hôm nay làm cho chúng ta thêm tự hào và phấn chấn".
Thế nhưng, trong hơn nửa thế kỷ, kéo dài cho đến tận hôm nay, chữ "thu thanh" trong vế đối thứ hai vẫn là nguyên nhân cho nhiều cuộc tranh cãi chưa có hồi kết.
Vào những năm 60 của thế kỷ XX, nhà văn Lãng Nhân Phùng Tất Đắc đã đề nghị đổi chữ "thu thanh" thành "trang thanh" (tiếng đóng cọc), nhằm đối "chỉnh hơn" với chữ "kiếm khí" (hơi gươm kiếm) của vế thứ nhất. Chữ "trang thanh", về mặt nghĩa còn dụng ý nhắc lại dư âm trận chiến đóng cọc gỗ tiêu diệt đạo đại thủy binh Nguyên Mông trên sông Bạch Đằng của Hưng Đạo Đại Vương. Tiếp đó, trong bài viết đăng trên tạp chí Hán Nôm số 1 năm 1987, nhà nghiên cứu Nguyễn Quảng Tuân cũng dè dặt hoài nghi chữ "thu thanh" và đưa ra đề nghị "đính chính" bằng chữ "thung thanh", cũng có nghĩa là "âm vang cây cọc". Ông cho rằng đôi câu đối, khi được khắc lên cổng đền đã bị ghi nhầm chữ "thung" ra chữ "thu". Lập luận chính của Nguyễn Quảng Tuân là: "Chữ "kiếm" đối với chữ "thung" chỉnh hơn là với chữ "thu", vì "kiếm" và "thung" đều là vật "cụ thể", còn "thu" chỉ là "trừu tượng" mà thôi". Ngoài ra, về âm đọc, chữ này được đọc bằng hai âm, đọc "thung" thì có nghĩa là đánh đập, đọc là "chang" thì có có nghĩa là cái cọc. Do đó, trong bài viết, Nguyễn Quảng Tuân đề xuất chọn cách đọc thành "chang thanh", sửa đôi câu đối thành:
Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm khí,
Lục Đầu vô thủy bất chang thanh
Bức xúc và gay gắt hơn, giữa năm 1995, trên tờ Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, nhà nghiên cứu Hoàng Hữu Xứng đã thẳng thắn đề nghị "đục bỏ đôi câu đối của Vũ Phạm Hàm trên cổng đền Kiếp Bạc, ngõ hầu tránh được một sai lầm đáng tiếc". Lập luận mà ông đưa ra là "đoán rằng Thám Hoa Vũ Phạm Hàm thì không sai, nhưng khi đọc cho thợ ngõa đắp chữ lên cổng đền, người thợ có thể đã nghe sai". Chữ dùng đúng, theo ông chỉ là một trong hai, hoặc là "thung thanh", hoặc là "trang thanh", đều hàm nghĩa "âm vang cọc gỗ". Do gần giống về mặt âm, có thể người thợ đắp chữ đã nghe nhầm nên đắp chữ "trang", hoặc chữ "thung" thành chữ "thu", vừa không chỉnh đối, vừa rất… lạc nghĩa. Lập luận "nghe nhầm" này, trước đó đã được đưa ra bởi một bậc thức giả khác là Giản Chi. Ông cho rằng: "Nếu là "thu thanh" thì sông nào chẳng có "tiếng thu" khi gặp gió lớn sóng to. Nếu là "thung thanh" thì chỉ có sông Bạch Đằng (Lục Đầu) mới có tiếng đóng cọc mà thôi" (chỉ sự kiện Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán năm 939 và Trần Hưng Đạo đại phá Nguyên Mông năm 1288). Vả chăng, hai chữ "thung thanh" cũng không hoàn toàn do những người có ý kiến bài xích chữ "thu thanh" sau này tự nghĩ ra. Nó đã đã được tìm thấy trong bài văn tế bằng chữ Hán vẫn thường đọc ở các đền thờ Trần Hưng Đạo vào ngày 20 tháng 8 Âm lịch hằng năm:
Sinh tiền bất hủ chi tâm, giang thung thu ngật,
Tử hậu lẫm như chi khí, hạp kiếm lôi minh.
Dịch nghĩa:
Khi còn sống, trái tim bất hủ, cọc giữa dòng sừng sững dưới trời thu.
Lúc đã mất rồi, lẫm liệt khí thiêng, kiếm trong tráp khua vang như sấm dậy.
Nhưng ý kiến chọn chữ "trang", chữ "thung" thay cho chữ "thu" lại được rất nhiều người ủng hộ, trong đó có học giả An Chi với bài trả lời, giải thích cho độc giả in trên Tạp chí Kiến thức thức ngày nay vào cùng năm 1995, được in lại trong sách "Chuyện Đông chuyện Tây" tái bản nhiều lần.
Xem ra, phái ủng hộ "thung thanh" (hoặc "trang thanh") và "chê" chữ "thu thanh", hơn nửa thế kỷ qua quy tụ toàn những bậc thức giả tên tuổi lẫy lừng. Trong khi đó, phái cương quyết giữ lại chữ "thu thanh", tuy cũng quy tụ không ít tên tuổi, song tiếng nói bảo vệ và phản bác đều có vẻ yếu ớt, mơ hồ và ít thuyết phục hơn. Những phát biểu này thường đơn lẻ và chỉ dừng lại ở mức "bàn", chưa thật sự đưa ra được nhiều lập luận thuyết phục một cách có hệ thống. PGS - TS Nguyễn Minh Tường (Viện Sử học) đánh giá rằng nếu dùng chữ "thung thanh" thay cho chữ "thu thanh" thì đó "không còn là chữ nghĩa của bậc đại khoa" như cụ Thám hoa Vũ Phạm Hàm nữa. Tác giả Nguyễn Khắc Bảo, trong Thông báo Hán Nôm năm 1998 cho rằng từ "thu thanh" trong câu đối thì "thu" là mùa thu, với nghĩa hàm súc là để chỉ chiến tranh và đau thương tang tóc. Hiểu theo nghĩa này, "thu thanh" có thể hiểu là "tiếng đau thương, tang tóc", hoặc "tiếng binh đao" đối với "hơi gươm kiếm" ở vế trên tỏ ra khá chuẩn cả về chữ lẫn nghĩa.
Thực tế, chữ "thu thanh" hiểu theo nghĩa này cũng đã từng được nhiều người sử dụng. Tuy nhiên, khá hiếm hoi, dường như chúng tôi thấy chỉ có hai người, nhà Hán học Tảo Trang Vũ Tuân Sán trong bài "Lại bàn về "thu thanh" hay "trang thanh" (Tạp chí Hán Nôm số 2/13-1992) và PGS Sử học Tạ Ngọc trong bài "Kiếm khí - Thu thanh" trên Tuần báo Văn nghệ số 387 ra ngày 17-9-2000 là có đề cập thẳng vấn đề cốt lõi: "Tiếng thu là tiếng gió tây làm rụng lá vàng, ý nghĩa đặc biệt của nó được ghi ở bài phú nổi tiếng: "Thu thanh phú" (Phú tiếng thu) của Âu Dương Tu đời Tống".
Năm 1995, trong bài "Trao đổi với nhà nghiên cứu Hoàng Hữu Xứng" đăng trên Báo Văn nghệ, chúng tôi cũng đã đề cập đến và giải thích khá kỹ lưỡng điển cố "thu thanh" rút từ "Thu thanh phú" của Âu Dương Tu (1007-1072).
Chúng tôi cho rằng, dù sắc bén đến mấy, tác giả Hoàng Hữu Xứng (người gay gắt và bức xúc hơn cả) vẫn chưa chính xác khi dùng chữ "đoán rằng" trong một lập luận nghiên cứu. Việc "nghe nhầm", hiểu sai ý Vũ Phạm Hàm của người thợ ngõa mà dẫn đến đắp sai đôi câu đối, theo chúng tôi hoàn toàn không có khả năng xảy ra. Bởi lẽ, rất có thể, người thợ không nhất thiết phải biết chữ. Họ chỉ việc ngõa chữ theo văn bản đã được Vũ Phạm Hàm hay bậc túc nho văn hay chữ đẹp nào đó viết chữ sẵn, không cần biết mình đang khắc, ngõa chữ gì. Mặt khác, nôm na thì công trình nào cũng phải có nghiệm thu. Nếu người thợ khắc, ngõa chữ có nghe nhầm chữ "thung" thành chữ "thu" thì hẳn sau đó, khi nghiệm thu, sai sót này đã được phát hiện và sửa chữa. Sai sót đó không có lý do để tồn tại thêm hơn 100 năm. Như vậy, nếu chữ "thu thanh" đã tồn tại trên đôi câu đối trước đền Kiếp Bạc, trước án thờ đền Trần Hưng Đạo ở TP Hồ Chí Minh, thì đích thực đó là chữ của Thám hoa Vũ Phạm Hàm với đầy đủ sự chính xác của nó.
Trong phần đầu bài "Thu thanh phú", Âu Dương Tu mô tả:
"Dị tai! Sơ tích lịch dĩ tiêu táp, hốt bôn đằng nhi phanh vi; như ba đào dạ kinh, phong vũ sậu chí; kỳ xúc ư vật dã, thung thung tranh tranh, kim thiết giai minh; hựu như phó địch chi binh, hàm mai tật tẩu, bất văn hiệu lệnh, đãn văn nhân mã chi hành thanh".
Trần Trọng San dịch:
"Lạ thay! Lúc đầu rì rầm, vi vu, rồi chợt sầm sập, mạnh mẽ, như sóng nước kinh động ban đêm, gió mưa thổi đến thình lình, chạm vào vật leng keng, loảng xoảng, tiếng vàng, tiếng sắt kêu vang, lại như đoàn quân tiến đến hàng ngũ địch, ngậm tăm chạy mau, không nghe thấy hiệu lệnh, chỉ nghe thấy tiếng người, ngựa đi".
Nghe những âm thanh đó, Âu Dương Tu chợt hiểu ra: "Dư viết: "Y hy! Bi tai! Thử thu thanh dã, hồ vi hồ lai tai! Tôi (Âu Dương Tu) nói rằng: "Than ôi! Thương thay! Đó là tiếng thu, sao lại vọng đến đây". Ở đoạn giữa bài Phú, Âu Dương Tu giải thích: "Phù thu, hình quan dã, ư thì vi âm; hựu binh tượng dã, ư hành vi kim. Thị vị thiên địa chi nghĩa khí, thường dĩ túc sát nhi vi tâm". Trần Trọng San dịch: "Thu là hình quan, nói về bốn mùa là âm; lại là binh tượng, nói về năm hành là kim. Đó là cái nghĩa khí của trời đất, thường lấy sự giết hại làm lòng".
Chúng tôi nghĩ rằng, vậy là đã rõ, chữ "thu thanh" không chỉ hiểu đơn thuần là "tiếng mùa thu", nhẹ và lạc nghĩa rất xa so với "hơi gươm kiếm". Trong cách luận của Âu Dương Tu thì "thu binh thỉ dã" (mùa thu tức là mùa binh vậy), chữ "thu thanh" điển cố rút từ "Thu thanh phú" cần được hiểu là "tiếng đao binh", đối rất sát với chữ "kiếm khí" (hơi gươm kiếm). Với một bậc đại khoa như Vũ Phạm Hàm, việc sử dụng nhuần nhuyễn một điển cố như chữ "thu thanh", hẳn nhiên không phải là quá khó, cũng không hề là việc xa lạ.
"Hơi gươm kiếm" đối với "tiếng đao binh", chữ nghĩa quá tuyệt vời. Một đôi câu đối đã tồn tại hơn trăm năm, đã góp phần tạo thêm một nét cảm thức dân tộc, thiết nghĩ không nhất thiết phải tốn giấy mực tranh luận, lại càng không nên vì sự suy diễn, phỏng đoán mà thay đổi hay đục bỏ. Đó cũng là cách "ngõ hầu tránh một sai lầm đáng tiếc" cho hậu thế vậy!
Nguyễn Hồng Lam
Hai tấm hình do người Pháp chụp cổng đền Kiếp Bạc đầu thế kỷ XX:
Thứ Tư, 25 tháng 5, 2022
KIẾN NGHỊ THU HỒI MỘT DANH HIỆU DI SẢN VĂN HÓA QUỐC GIA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
CÔNG NHẬN DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ QUỐC GIA
ĐỐI VỚI “LỄ GIỖ BÀ THỨ PHI HOÀNG PHI YẾN
Ở HUYỆN CÔN ĐẢO, BÀ RỊA-VŨNG TÀU”
- Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam,
- Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch,
- Hội đồng Di sản Văn hóa Quốc gia,
- Cục Di sản Văn hóa - Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch,
- Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam,
- Hội Khoa học Lịch sử Thừa thiên Huế,
- Hội Khoa học Lịch sử Bà Rịa - Vũng Tàu,
- UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu,
- UBND huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu,
- Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam,
- Tổng cục Du lịch Việt Nam,
- Các cơ quan báo chí trung ương và các địa phương,
- Bà con Nguyễn Phúc tộc trong và ngoài nước,…
Thứ Sáu, 29 tháng 4, 2022
TOÀN VĂN BÀI TỔNG KẾT TỌA ĐÀM CỦA PGS.TS ĐỖ BANG
(Báo cáo Tổng kết Tọa đàm [1])
1. Tình hình hội thảo
Nhận thức được Sử học luôn gắn với hồ sơ di tích và phát huy giá trị di sản nên hôm nay, tại thành phố Huế, Hội đồng Nguyễn Phúc tộc Việt Nam tổ chức tọa đàm khoa học để đánh giá độ chính xác, tình khách quan khoa học của việc công nhận d i tích An Sơn miếu và Di sản lễ giỗ bà Phi Yến tại Côn Đảo có liên quan đến vua Gia Long, người sáng lập vương triều Nguyễn vào đầu thế kỷ XIX.
Tham dự tọa đàm khoa học là các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa, văn học ở thành phố Huế, thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, các tỉnh Sóc Trăng, Đồng Tháp. Do dịch bệnh Covid và thời gian cấp bách nên chỉ có 16 tham luận kịp thời để in trong tập Kỷ yếu và 8 tác giả có mặt tại hội trường của phủ Tùng Thiện Vương, 91 Phan Đình Phùng, thành phố Huế.
Thứ Hai, 5 tháng 10, 2020
NHIỀU NHÀ KHOA HỌC PHẢN BÁC VỀ BÃI CỌC CAO QUỲ - HẢI PHÒNG

Nhiều ý kiến trái chiều về bãi cọc Cao Quỳ
Thanh Niên
05:30 - 04/10/2020
Nhiều ý kiến trái chiều về bãi cọc Cao Quỳ ở H.Thủy Nguyên, TP.Hải Phòng trong Hội nghị thông báo những phát hiện mới về khảo cổ học lần thứ 55 (29 - 30.9) là một trong những sự kiện văn hóa nổi bật trên Thanh Niên Online tuần qua.
Mẫu xét nghiệm do người dân đưa lên không đáng tin
Chia sẻ tại Hội nghị thông báo những phát hiện mới về khảo cổ học lần thứ 55, PGS - TS Nguyễn Quang Miên, Trưởng phòng C14 (Viện Khảo cổ học), cho biết đến giờ đơn vị mới có kết quả một mẫu xét nghiệm để xác định niên đại cọc gỗ ở Cao Quỳ bằng phương pháp đồng vị carbon C14. Trong số này, có 1 mẫu do một trưởng thôn tại địa phương mang lên.
Thứ Sáu, 2 tháng 10, 2020
TIN MỚI: LẠI THỔI "BÃI CỌC CAO QUỲ" ĐỂ HỢP LÝ HÓA DỰ ÁN 427 TỶ
Bãi cọc cổ tại Hải Phòng:
Cần thêm những nghiên cứu đa ngành, liên ngành
VOV
Thứ sáu, 17:03, 02/10/2020
VOV.VN - Bước đầu, các nhà khảo cổ học nhận định, Di
tích bãi cọc Cao Quỳ có thể là một thế trận địa có niên đại vào cuối thế
kỷ 13, nhiều khả năng liên quan đến trận chiến chống quân Nguyên năm
1288 của quân dân nhà Trần.
Kết quả khai quật tại bãi cọc Cao Quỳ (xã Liên Khê, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng) là một trong những nghiên cứu có giá trị, đáng chú ý nhất của lĩnh vực khảo cổ học trong năm qua; mở ra những hướng nghiên cứu mới về lịch sử dân tộc.
Thứ Bảy, 26 tháng 9, 2020
BÁO TUỔI TRẺ ĐÃ "GỠ" BÀI GIẢI MÃ SAI TRUYỆN KIỀU
TUỔI TRẺ ĐÃ "GỠ" BÀI GIẢI MÃ SAI TRUYỆN KIỀU
PGS.TS Đoàn Lê Giang
Status đề nghị gỡ bài "Thử giải mã lại Truyện Kiều" của nhóm ông Lê Nghị trên trang FB của tôi (19/9/2020) được sự quan tâm mạnh mẽ của độc giả - nhất là giới nghiên cứu, giảng dạy văn hóa, ngữ văn. Trong vòng mấy ngày số Like lên đến hơn 450 lượt và Chia sẻ 140 lượt. Có những ý kiến gay gắt phê phán việc “nghiên cứu” làm loạn Truyện Kiều mà đỉnh điểm là phản ứng giận dữ của nhà nghiên cứu Hán Nôm Nguyễn Xuân Diện: "Một kẻ cuồng ngôn đang làm rối loạn Truyện Kiều" . Sau đó sáng 22/9 bài được Google đưa lên trang tin của mình.
Chủ Nhật, 20 tháng 9, 2020
MỘT KẺ CUỒNG NGÔN ĐANG MUỐN LÀM RỐI LOẠN TRUYỆN KIỀU
ĐỀ
NGHỊ BÁO TUỔI TRẺ THEO GƯƠNG GOOGLE GỠ BÀI "THỬ "GIẢI MÃ" LẠI TRUYỆN
KIỀU" RA KHỎI TRANG ONLINE ĐỂ TRÁNH LÀM HẠI HỌC THUẬT NƯỚC NHÀ!
PGS.TS Đoàn Lê Giang
Facebooker Lê Nghị đã đưa ra một quan điểm giật gân: Không phải Truyện Kiều của Nguyễn Du sáng tạo lại từ "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân, mà ngược lại "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân được sáng tác từ Truyện Kiều. Tức Truyện Kiều có trước, Kim Vân Kiều truyện có sau.
Ý kiến này được ông Lê Nghị đã đưa lên Facebook cách đây một năm. Để khỏi làm nhiễu thông tin tôi đã viết 3 status để vạch rõ cái vô lý của lập luận đó, trong đó có việc tôi trưng ra bản chụp quyển "Thông tục Kim Kiều truyện" là bản dịch "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân ra tiếng Nhật xuất bản năm 1763 - trước khi Nguyễn Du (1765-1820) sinh 2 năm.
Thứ Hai, 13 tháng 1, 2020
VỤ ĐỒNG TÂM: 10 ĐIỂM TRANH LUẬN VỚI ÔNG LƯƠNG LÊ MINH
10 điểm tranh luận với post của Lương Lê Minh
Nguyễn Anh Tuấn
12-1-2020
Gần hai ngày nay tôi lắng lòng mình, thắp một nén tâm hương cho cụ Kình và những người nằm xuống trong biến cố Đồng Tâm.
Thứ Năm, 26 tháng 12, 2019
XIN HỎI ÔNG NGUYỄN GIA ĐỐI, VIỆN TRƯỞNG VIỆN KHẢO CỔ HỌC
Trong bài báo 'Kết Luận Về Bãi Cọc Cao Quỳ: Cần Cẩn Trọng' (Thiên Điểu) đăng trên Tuổi Trẻ Online, ngày 24/12/2019, Quyền Viện trưởng Viện Khảo cổ học Việt Nam TS Nguyễn Gia Đối vẫn khẳng định đó là những cọc gỗ liên quan chặt chẽ đến trận chiến thắng quân Nguyên Mông, năm 1288, sau khi chúng tôi đặt câu hỏi liệu các nhà khảo cổ học đưa ra kết luận có tính khẳng định như vậy có quá sớm hay không.
Xin trích ý kiến của ông Nguyễn Gia Đối: "Sử học còn nhiều quan điểm chưa thống nhất về cuộc chiến chống quân Nguyên của nhà Trần, nhưng sự hiện diện của bãi cọc cùng kết quả giám định niên đại phóng xạ tuyệt đối khiến viện tin tưởng bãi cọc liên quan chặt chẽ đến trận thắng quân Nguyên Mông lần 3 năm 1288". (hết trích)
VIỆN TRƯỞNG VIỆN KHẢO CỔ HỌC ĐÃ CHÍNH THỨC LÊN TIẾNG
Tuổi trẻ
24/12/2019 09:20 GMT+7
TTO - Sau thông tin phát lộ bãi cọc dự đoán liên quan đến cuộc chiến trên sông Bạch Đằng của nhà Trần năm 1288 (Tuổi Trẻ 22-12), một số nhà nghiên cứu lên tiếng cho rằng cần phải rất bình tĩnh và cẩn trọng trong các kết luận về lịch sử.
Viện Khảo cổ học Việt Nam và UBND TP Hải Phòng vừa tổ chức hội nghị báo cáo kết quả khai quật bãi cọc Cao Quỳ với kết quả dự đoán "có thể liên quan đến cuộc chiến trên sông Bạch Đằng của nhà Trần năm 1288".
Thứ Tư, 27 tháng 11, 2019
NHỮNG KẺ KIẾN NGHỊ ĐÃ DÙNG TÀI LIỆU GIẢ ĐỂ VU KHỐNG
Nhã Hoàng
Những kẻ kiến nghị không đặt tên đường để tri ân các giáo sỹ đã sáng tạo ra chữ quốc ngữ là vì một chứng cứ giả tạo đăng trong cuốn:Lịch sử Việt Nam, tập 1, do Ủy ban KHXH Việt Nam xuất bản tại Hà nội năm 1971, trang 304:
“Đây là một vị trí cần được chiếm lấy và chiếm được vị trí này thì thương gia Âu châu sẽ tìm được một nguồn lợi nhuận và tài nguyên phong phú”
Câu trích này được nhét vào mồm của Alexandre de Rhodes.
Loại chứng cứ giả tạo này trong sách lịch sử Việt Nam hiện nay thì đầy rẫy. Trong đó có... à mà thôi...
Thứ Hai, 19 tháng 8, 2019
Xã luận: ĐỪNG LẬP LỜ, ĐÁNH LẬN CON ĐEN
Mạc Văn Trang
18-8-2019
Tạp chí Lý luận Chính trị, 25 Tháng 3/ 2019, có bài “Mô hình chủ nghĩa xã hội dân chủ ở Bắc Âu hiện nay và những gợi mở, tham chiếu cho Việt Nam”. Tiêu đề bài báo trên “đánh lận con đen” giữa “Việt Nam Xã hội chủ nghĩa” và “Xã hội dân chủ Bắc Âu”; sự lập lờ đó có thể khiến nhiều người hiểu lầm, Việt Nam đang đi theo mô hình Bắc Âu? Sự thật là Việt Nam chả có gì giống mấy nước Bắc Âu cả! Tôi xin nói rõ mấy điều cụ thể.
Thứ Ba, 30 tháng 7, 2019
KHI LỊCH SỬ ĐƯỢC GIẢI MÃ BẰNG... ĐOÁN MÒ
(Nhân đọc cuốn “Việt Nam thế kỷ X: những mảnh vỡ lịch sử” của Trần Trọng Dương,
NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2019)
Phạm Hoàng Mạnh Hà
Thứ tư, 17 Tháng 7 2019 10:17
PHẢN BIỆN SÁCH “VIỆT NAM THẾ KỶ X - NHỮNG MẢNH VỠ LỊCH SỬ”
Phạm Trung Đà:
“VIỆT NAM THẾ KỶ X – NHỮNG MẢNH VỠ LỊCH SỬ”
CỦA TIẾN SĨ TRẦN TRỌNG DƯƠNG
Sách do Nhà xuất bản Đại học Sư phạm ấn hành năm 2019.
Bài 1: THẤY GÌ TỪ 1 CUỐN SÁCH SỬ ĐÃ NHẮC ĐẾN WIKIPEDIA:
“VIỆT NAM THẾ KỶ X – NHỮNG MẢNH VỠ LỊCH SỬ”?
Lịch sử Việt Nam thế kỷ 10 vốn thiếu rất nhiều sử liệu và nhiều vấn đề vẫn là câu đố cho giới nghiên cứu nói riêng cũng như những người muốn tìm hiểu nói chung. Cũng chính vì thiếu thông tin, thiếu tài liệu, việc “giải mã” các sự kiện, các nhân vật, mối quan hệ của họ với các nhân vật khác cũng như tuổi tác… giai đoạn này đã trở thành chủ đề rất thú vị. Từ nhiều năm qua, mới có một tác giả dám “động chạm” vào khu vực mà không nhiều người muốn xông vào. “Việt Nam thế kỷ X – những mảnh vỡ lịch sử” của TS. Trần Trọng Dương do NXB Đại học Sư phạm xuất bản năm 2019 là một cuốn sách như vậy.
Thứ Hai, 18 tháng 2, 2019
17.2: SUY TƯ VỀ PHÁT NGÔN CỦA GS SỬ HỌC PHẠM HỒNG TUNG
Ngày 17 tháng 2 năm 1979 là mốc thời gian giặc bành trướng Trung Quốc khởi đầu cuộc xâm lược các tỉnh biên giới phía Bắc của Việt Nam. Chúng đã huy động số lượng binh lính, vũ khí rất lớn để đồng loạt tấn công trên toàn tuyến biên giới phía Bắc nước ta, tàn phá xóm làng và giết trên ba vạn chiến sĩ, nhân dân ta một cách vô cùng tàn bạo. Điều hiển nhiên này ai là người Việt Nam yêu nước đều căm phẫn, hiểu rõ. Vậy mà lại có người sợ giặc, tình nguyện làm tôi tớ cho giặc, ngăn cản biểu tình phản đối giặc, ngăn cản tưởng niệm chiến sĩ ta hy sinh trong cuộc kháng chiến chống giặc xâm lược Trung Quốc.
Chủ Nhật, 17 tháng 2, 2019
GIÁO SƯ PHẠM HỒNG TUNG ĐÃ THIẾU VĂN HÓA PHẢN BIỆN
Nguyễn Hồng Phúc
Việt Nam Thời báo
VNTB- “Sau khi Vietnam.net [*] đăng bài trả lời phỏng vấn của tôi, có một số người không hiểu rõ hoặc cố tình không hiểu chủ ý của tôi nên đã có những thắc mắc. Nhân đó, một số kẻ lưu manh như Nguyễn Như Phong, An Chi, Ngô Nguyệt Hữu đã kích động để nhiều người a dua, có những phát ngôn thiếu văn hóa”.
Giáo sư Sử học Phạm Hồng Tung, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội), Chủ biên chương trình Lịch sử trong chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, đã viết như trên trong phần mở đầu của một bài viết rất dài đăng trên tài khoản facebook của ông: https://www.facebook.com/tuky.pham.18/posts/371451366981891
Thứ Ba, 12 tháng 2, 2019
"ĐƯỜNG THI QUỐC ÂM CỔ BẢN" - MỘT CÔNG TRÌNH BIÊN KHẢO NGHIÊM TÚC, CÓ GIÁ TRỊ HỌC THUẬT...
MỘT CÔNG TRÌNH BIÊN KHẢO NGHIÊM TÚC,
CÓ GIÁ TRỊ HỌC THUẬT...
Đặng Văn Sinh


















