Hiển thị các bài đăng có nhãn Gia Long. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Gia Long. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 29 tháng 10, 2025

NGUYỄN TÂY SƠN VÀ NGUYỄN GIA LONG NGÔI ĐỀN THỐNG NHẤT - Phần 2


Bài của Trung Hoang


Nguyễn Ánh bước vào lịch sử ở chính khúc quanh đó. Ông không phải là người mở đường, ông là người gom đường. Ông không cần đánh một trận Ngọc Hồi–Đống Đa, vì khi ông tới hồi quyết định, ngoại xâm trực diện đã bị đẩy lùi; nhưng ông phải đánh một thứ chiến tranh dài hơi: tiêu hao, liên kết, kiểm soát cửa biển và đồng bằng, từng bước siết lại trung độ miền Trung, rồi khép cung với Bắc Hà. Quan trọng hơn những chiến dịch là việc ông dựng nổi một bộ khung để quốc gia có thể vận hành sau tiếng súng: luật lệ được pháp điển hóa thành Hoàng Việt luật lệ năm 1815, đo đạc địa bạ để biến lãnh thổ từ ý niệm thành sổ sách, chuẩn hóa đơn vị hành chính để một mệnh lệnh trung ương có đường đi tới thôn ấp, củng cố thủy quân và thực thi chủ quyền ngoài khơi để biên giới không chỉ là đường núi mà còn là chuỗi đảo.
 
Khi Gia Long lên ngôi năm 1802, đó không phải động tác “phục quốc” của một triều vong, mà là hành vi lập quốc theo nghĩa nghiêm ngặt: hợp nhất một dải đất Bắc – Nam vào một khuôn quản trị chung, đem một danh xưng pháp lý mới đặt lên một thực thể chính trị có khả năng tự vận hành trong hòa bình tương đối. Không ai có quyền ăn mày hiện tại để kết án quá khứ; cũng như không ai có quyền rút sạch bi kịch con người khỏi bức tranh kiến lập nhà nước. Lịch sử đòi ta giữ đồng thời hai mệnh đề: công trình thống nhất – pháp điển – hành chính là sự thật, và cái giá nhân đạo phải trả trong chuyển tiếp quyền lực cũng là sự thật. Cả hai phải được ghi nhớ, để ký ức tập thể vừa có xương sống của luật – chế – cương vực, vừa có mạch máu của nỗi đau – lòng trắc ẩn.

Lịch sử, nếu chỉ bị chẻ vụn thành những mảnh ghép rời rạc để phục vụ cho nhu cầu bênh – chống, sẽ đánh mất chính linh hồn của nó: dòng chuyển động âm thầm nhưng bền bỉ của một cộng đồng đi tìm hình hài quốc gia. Cái nhìn trưởng thành về quá khứ không bắt đầu từ câu hỏi ai đúng ai sai, mà bắt đầu từ một kỷ luật tư duy: đặt các biến cố vào đúng quỹ đạo của thời đại đã sinh ra chúng; nhìn con người trong giới hạn và nhiệm vụ của khoảnh khắc họ buộc phải đảm nhận; hiểu rằng ý chí và thể chế vốn không cùng xảy ra trong một ngày.

Vì vậy, cách đọc trưởng thành không phải là chọn phe giữa Tây Sơn và Gia Long, mà là nhận ra nguyên lý vận động: một dân tộc đi tới quốc gia thường qua hai pha kế tiếp và đối nghịch – pha thanh lọc, phá thế cũ; pha kiến lập, định hình mới. Tây Sơn gánh phận việc thứ nhất, Gia Long gánh phận việc thứ hai. Đánh giá họ trên cùng một thước đo là bất công với cả hai; nhìn họ như hai nhịp của cùng một tiến trình thì công bằng tự xuất hiện.
 
Chúng ta hãy tự hỏi: Nếu Tây Sơn thất bại trước 1789, độc lập có thể giữ không?; nếu Gia Long thất bại sau 1802, thống nhất có thể thực hiện không? Không. Chắc chắn không.

Lịch sử, rốt cuộc, đã chọn đường ít tệ nhất cho bài toán thống nhất: lửa đến trước, hình đến sau. Lửa làm nóng, hình giữ ấm. Một quốc gia đứng được không phải nhờ mỗi chiến công rực rỡ, mà nhờ khả năng biến ký ức chiến công ấy thành luật, thành tổ chức, thành biên giới có thể đo vẽ và bảo vệ. Từ dải phù sa sông Hồng đến cực Nam Cà Mau, từ bờ biển Thuận An đến vòng san hô Hoàng Sa, sự tồn tại dài lâu không đến từ một bậc anh hùng, mà đến từ chuỗi vai lịch sử đã dám làm phần việc của mình trong giới hạn của thời đại.

Nhận thức trưởng thành vì thế không bám lấy khuynh hướng, không mượn lịch sử để đánh nhau bằng ngôn từ; nó học cách đứng thẳng trước cả hai tượng đài, để nói hai câu đơn giản mà khó: cảm ơn ngọn lửa đã trả lại ý chí tự chủ; cảm ơn hình khối đã cho ý chí ấy một thân thể để ở lâu trong thời gian. Chúng ta không cần tha thứ để hòa giải; chúng ta cần hiểu để không lặp lại chu kỳ phân liệt dưới những nhãn mới. Khi một cộng đồng đủ sức xây một đền thờ chung cho hai người từng đối đao mà cùng làm nên quốc gia, cộng đồng ấy đã bước ra khỏi ám ảnh tự thương tổn và bước vào tuổi trưởng thành của ký ức. Lịch sử, đến cuối cùng, không phải là bản cáo trạng hay bản tán dương; lịch sử là biên bản của một hành trình, nơi những mũi dao chém vào gỗ không nhằm hủy hoại tấm gỗ, mà để khắc lên đó một dáng hình có thể nhận ra từ xa là chính chúng ta.

Còn một khía cạnh vô cùng hệ trọng khác: Trong bối cảnh vẽ ra ở trên, việc nhiều người vẫn cho rằng, vẫn bám lấy một sự định kiến rằng Nguyễn Ánh là kẻ bán nước, liệu có phải là một cái nhìn đúng?
Tôi sẽ nói thẳng, theo cách điềm đạm của sử học, không dựa vào cảm xúc và cũng không dựa vào những khẩu hiệu đã làm nghẹt thở nhận thức lịch sử nhiều thập kỷ qua: muốn gọi một ai là “kẻ bán nước” thì phải chỉ ra được cả động cơ lẫn hành vi thực tế dẫn đến sự đánh đổi chủ quyền để đổi lấy lợi ích riêng, cùng với hệ quả pháp lý – lãnh thổ đã được đương sự tự nguyện ký thác cho ngoại bang; nếu không chỉ ra được những điều ấy, mọi cáo buộc đều không đứng vững. Trần Ích Tắc là một ví dụ cổ điển của mô hình ấy: giữa thế kỷ XIII, ông ta rời bỏ cộng đồng chính trị của mình, cầu viện Nguyên Mông để mưu đồ địa vị cá nhân, sẵn sàng chấp nhận vị thế phụ thuộc của đất nước dưới ách ngoại bang; ở đây có cả động cơ tư lợi, có cả hành vi quy thuận, có cả hệ quả tinh thần và chính trị rõ rệt.
 
Đặt Nguyễn Ánh cạnh mô hình đó để gán cùng một nhãn là một sự nhầm lẫn căn bản về bản chất lịch sử, bởi ở Nguyễn Ánh không hề có cấu phần cốt lõi nào của hành vi “bán nước”: ông không mưu cầu một ngôi vị dưới bóng cường quyền ngoại bang, ông không ký thác chủ quyền lãnh thổ cho ai, và sau khi giành được chính quyền ông đã làm điều ngược lại với logic “cầu vinh” — ông dành gần trọn một thập kỷ kế tiếp để củng cố một nhà nước tập quyền, pháp điển hóa luật lệ, đo đạc lãnh thổ, xác lập chủ quyền biển đảo và chốt lại một khung vận hành có thể đứng được bằng chính nó.

Nếu lần vào mạch thời gian, sẽ thấy cái gọi là “bán nước” bị thực tế tự nó phủ nhận. Từ sau những biến cố 1777 ở Gia Định, cho đến khi chiếm lại Phú Xuân 1801 và tiến ra Thăng Long 1802, Nguyễn Ánh sống một đời chính trị liên tục hai mươi bốn, hai mươi lăm năm trong chiến tranh – thất bại – tích lũy – quay lại, với một chiến lược dài hơi hiếm gặp ở khu vực: xây dựng và hiện đại hóa thủy quân, tổ chức hậu cần đường sông và đường biển, kiểm soát những cửa vào – đồng bằng – lưu vực, tiến dần từ Nam ra Bắc theo một trật tự quân sự – địa lý chặt chẽ.
 
Một kẻ “cầu vinh” sẽ không có đủ độ dai dẳng của thời gian để theo đuổi đến cùng một dự án chính trị mệt mỏi như thế, lại càng không có nhu cầu đổ vốn sinh lực vào những hạ tầng nhà nước khô khan như pháp điển, địa bạ, đơn vị hành chính và mạng lưới cai trị.
 
Người ta có thể phản đối sự lựa chọn đồng minh của ông trong những năm tháng kiệt quệ, nhưng không thể vì thế mà đánh tráo động cơ. Vay mượn công nghệ và nhân lực quân sự phương Tây, kể cả dựa vào trung gian của Pigneau de Béhaine và những giao ước từng được soạn thảo, là cách thức phổ biến của chính trị châu Á cuối thế kỷ XVIII; bản thân những sắp đặt ấy cũng chưa bao giờ chuyển hóa thành một chế độ nhượng địa hay bảo hộ theo nghĩa pháp lý. Khi đã nắm được chính quyền, ông không thiết lập quan hệ lệ thuộc; trái lại, ông xác lập quan hệ bang giao trên nền tảng chủ quyền, ông di lý quốc hiệu và thiết chế ngoại giao để nhà nước mới xuất hiện trong trật tự khu vực như một chủ thể độc lập, và ông triển khai nhất quán các công việc nội trị mà một người “đi tìm bóng che” không đời nào thấy cần: ban hành Hoàng Việt luật lệ năm 1815 như một khuôn pháp lý thống nhất, chỉ đạo đo đạc và lập địa bạ để biến lãnh thổ từ ý niệm thành sổ sách, chuẩn hóa đơn vị hành chính theo trật tự trung ương – địa phương để mệnh lệnh có đường đi đến xã thôn, củng cố thủy quân và thực thi chủ quyền ngoài khơi với những mốc thực chứng từ 1816 ở Hoàng Sa rồi liên tục dưới các đời sau.
 
Những dữ kiện đó, xét đến cùng, đều đi theo hướng ngược với động cơ “bán nước”: chúng không làm suy giảm mà làm dày lên năng lực chủ quyền của nhà nước.

Vấn đề hay bị đánh tráo ở đây là sự hiện diện của người Pháp trong những bước ngoặt đầu đời Nguyễn Ánh bị xem như nguyên nhân trực tiếp của cuộc thuộc địa hóa nhiều chục năm sau, rồi từ đó quay ngược để quy kết “bán nước”. Cách lập luận ấy không đứng vững về quy luật quốc tế lẫn chuỗi thời gian: chế độ thuộc địa thế kỷ XIX là kết quả của một kết cấu quyền lực toàn cầu đang vươn tay vào châu Á gần như mọi ngõ ngách, bất kể nơi đó có hay không những giao hảo ban đầu; không thể lấy một mối quan hệ mua sắm – huấn luyện – cố vấn trong bối cảnh nội chiến để quy chiếu sang một cơ chế xâm lược – sáp nhập nhiều thập kỷ sau rồi khép lại bằng bản án đạo đức cho một cá nhân. Lịch sử đòi hỏi sự công bằng tối thiểu: phân biệt những tầng nguyên nhân khác nhau, rạch ròi giữa hành vi chiến thuật để sinh tồn của một lực lượng nội bộ với những quyết định cưỡng đoạt của một đế quốc trong một thời đại đã khác.

Cũng cần thừa nhận một cách chín chắn rằng: sự hậu đãi hay vị thế của một số giáo sĩ hoặc nhóm người phương Tây dưới thời Gia Long có thể làm nhiều người hôm nay bất an khi đọc lại, và việc sử dụng nhân lực – khí giới ngoại quốc trong nội chiến dễ tạo ra cảm giác “mời giặc về nhà”. Nhưng ở bình diện cấu trúc, không có biểu hiện nào cho thấy nhà nước do Gia Long dựng lên là một nhà nước chấp nhận vị thế phụ thuộc: ông không nhượng lãnh thổ, không ký kết một chế độ bảo hộ, không đặt quân đội dưới quyền điều khiển ngoại quốc, không biến ngoại thương thành đặc quyền độc chiếm của một cường quốc; trái lại, ông ưu tiên những công việc cần thiết để bảo tồn sự độc lập thực tế của một quốc gia vừa mới hợp nhất.

Đem những chi tiết ấy đặt cạnh mô hình Trần Ích Tắc sẽ thấy hai quỹ đạo đạo đức – chính trị hoàn toàn khác nhau: bên kia là quy thuận để được phong, bên này là cầu viện để có thể tự đứng; bên kia là lựa chọn chủ quyền ngoại bang làm khung cho bản thân, bên này là sử dụng nguồn lực bên ngoài để hoàn tất một dự án nội sinh.

Sau rốt, một tiêu chuẩn giản dị mà nghiêm ngặt có thể dùng để thử độ vững của mọi cáo buộc: hãy hỏi “sau khi đạt được mục tiêu, người đó đã để lại cái gì cho năng lực chủ quyền của nhà nước?”; nếu câu trả lời là một nhà nước nhỏ đi, tước bỏ dần những năng lực bản thể, thì lời buộc tội mới có cơ sở; nếu câu trả lời là một nhà nước lớn hơn, chặt hơn, có luật, có sổ, có biên giới thực thi và một bộ máy vận hành ổn định, thì cáo buộc ấy tự nó tan. Trường hợp Nguyễn Ánh, nhìn vào 1802–1815 và những hệ quả trực tiếp của giai đoạn ấy, câu trả lời đã rõ. Có thể không đồng ý với mọi lựa chọn cụ thể, có thể phê bình cái giá nhân đạo của chuyển giao quyền lực, có thể tiếc nuối những cơ hội canh tân bị bỏ lỡ ở các đời sau, nhưng không thể chụp lên ông chiếc mũ “bán nước” mà không bóp méo ngôn ngữ đến mức phản sự thật.

Nhận thức lịch sử trưởng thành không phải là làm sạch một nhân vật để yêu mến cho yên lòng, mà là trả họ về đúng hình hài trong tiến trình: Nguyễn Huệ giải phóng quốc gia khỏi thế phân liệt và khỏi họa ngoại xâm gần kề; Nguyễn Ánh hoàn tất công việc lập quốc theo nghĩa nghiêm cẩn của nhà nước – lãnh thổ – pháp luật.

 Nếu ai đó có ý tưởng hay hình dung một đền thờ chung dành cho cả hai, tôi sẽ nhiệt thành ủng hộ. Đền thờ đó sẽ đó không có lời xin lỗi nào dành cho quá khứ và cũng không có lời ca tụng nào dành cho hiện tại; ở đó chỉ có sự công bằng tối thiểu của trí tuệ. Đền thờ đó là để học hỏi với khát vọng trưởng thành - là để đứng trước Nguyễn Huệ để nhớ rằng tự chủ là điều kiện tồn tại, đứng trước Gia Long để hiểu rằng thể chế là điều kiện kéo dài. Và ở giữa hai pho tượng ấy, những lời kết tội “bán nước” rơi khỏi vai lịch sử một cách tự nhiên, không phải vì chúng ta cố gắng bào chữa, mà vì chính chuỗi hành động – kết quả của một đời chính trị hai mươi mấy năm đã phủ nhận chúng.

PHỦ NHẬN HOÀN TOÀN.

By Trung Hoang

NGUYỄN TÂY SƠN VÀ NGUYỄN GIA LONG NGÔI ĐỀN THỐNG NHẤT



Một bài viết hay. Rất đáng đọc để suy ngẫm

Bài của Trung Hoang

Bài viết này không tìm cách ca tụng hay kết tội, mà trả mỗi nhân vật lịch sử về đúng phần việc mà thời đại giao phó. Nó nhìn lịch sử Việt Nam cận đại như một tiến trình liên tục: từ nhu cầu mở đất, đến phân liệt quyền lực, rồi đến hai pha kế tiếp của thống nhất quốc gia.
 
Nguyễn Huệ được đặt vào đúng vị trí lịch sử của ông: người duy nhất trong khoảnh khắc phân rã có thể khôi phục năng lực tự chủ và cứu quốc gia khỏi nguy cơ ngoại thuộc.
 
Nguyễn Ánh được xét bằng tiêu chuẩn cấu trúc nhà nước: người hoàn tất hình hài quốc gia thống nhất với thể chế, biên giới và bộ máy vận hành bền vững. Bài viết bác bỏ định kiến “bán nước” bằng các tiêu chuẩn lịch sử nghiêm ngặt về động cơ, hành vi và hệ quả chủ quyền. Không đặt hai nhân vật vào thế đối lập, bài viết chỉ ra rằng họ là hai nhịp liên tiếp của cùng một tiến trình dựng nước: giải nguy và kiến lập. Từ đó, ý tưởng về một ngôi đền thống nhất xuất hiện như biểu tượng của nhận thức trưởng thành: thay vì chọn phe, ta học cách nhìn quốc gia trong chiều dài của nó. Đây không phải là hòa giải quá khứ, mà là học cách không lặp lại chia rẽ trong tương lai.


Lịch sử Việt Nam không bắt đầu từ một lãnh thổ như ta đang biết, mà từ một vùng lòng chảo hẹp của đồng bằng sông Hồng và dải đất Thanh – Nghệ. Không gian ấy, trong nhiều thế kỷ, là giới hạn tự nhiên của một cộng đồng nông nghiệp trồng lúa nước, nơi sức chứa của đất đai, mật độ dân cư và kỹ thuật sản xuất quy định hình dạng của nhà nước và biên độ của quyền lực. Các triều đại Lý và Trần giữ được sự độc lập trong phạm vi ấy, nhưng quốc gia khi đó vẫn còn dựa chủ yếu vào năng lực phòng thủ hơn là mở rộng. Chỉ đến khi nhu cầu sinh tồn vượt quá khả năng nuôi chứa của vùng đất cũ, dòng người Việt mới dịch chuyển dần về phương Nam.

Những thế kỷ Nam tiến không diễn ra trong tiếng trống trận trước hết, mà trong nhịp cày ruộng, lập làng, bám sông mà đi. Trên thực tế, Nam tiến là một sự trưởng thành về tư duy lập quốc. Vấn đề thực sự bắt đầu từ thời Lê, khi năng lực tích lũy vật chất, dân số và tổ chức hành chính bắt đầu chạm vào giới hạn của một không gian đã cạn. Khi chiếc chậu nước đầy, dù không ai muốn, nó cũng sẽ tràn. Nam tiến không phải là tham vọng, mà là hệ luận tự nhiên của một dân tộc lúa nước cần đất mà gieo lúa. Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa không chỉ là một lựa chọn chính trị, mà là sự chuyển dịch của mạch sống cộng đồng. Những làng người Việt không tiến vào phương Nam bằng đạo quân, mà bằng những đường cày, những mái nhà tranh, những nhịp trống đình, những tán tre. Họ bám lấy dòng sông như mạch dẫn. Và dải đất phương Nam dần dần biến thành quê hương mới không phải bằng sức ép, mà bằng sức sống.
Thêm vào đó, kể cả cuộc Nam tiến kia đã giúp lãnh thổ mở rộng dần, nhưng khái niệm quốc gia thống nhất chưa được định hình. Khi họ Nguyễn ở Đàng Trong xây dựng được một trung tâm quyền lực thứ hai song song với Bắc Hà, đất nước bước vào trạng thái hai cực đồng thời tồn tại mà không chia sẻ một trục chính danh chung. Trong hơn hai trăm năm, Đại Việt là một cơ thể có hai nhịp tim, vận hành được nhưng không bền vững.

Cuối thế kỷ XVIII, cả hai nhánh quyền lực ấy suy yếu. Triều Lê – Trịnh ở Thăng Long không còn khả năng tự điều chỉnh, cấu trúc cai trị bị chia cắt vào các nhóm lợi ích, ý thức về một trung tâm chính trị chung đã suy tàn. Ở phía Nam, họ Nguyễn sau nhiều năm nội chiến cũng không còn đủ lực để vừa phòng thủ vừa cải tổ. Quốc gia khi đó không phải chỉ bị tổn thương về lãnh thổ, mà bị tổn thương sâu hơn ở mức độ tinh thần: không còn điểm hội tụ cho trí tưởng tượng về Tổ quốc. Đó là bối cảnh mà sự kiện quân Thanh can thiệp xảy đến — không như một biến cố độc lập, mà như bước cuối cùng của một chuỗi rạn nứt kéo dài. Không có một chủ thể chính trị nào trong hệ thống cũ đủ sức tổ chức phản ứng tương xứng.


Để cẩn trọng hơn ở thời điểm này của bài viết, nhất là để tránh sự tán tụng vô cớ, trước hết cần trở về tình thế cuối thập niên 1780 với đôi mắt lạnh của sử học: trật tự Lê–Trịnh ở Bắc Hà chỉ còn là vỏ nghi lễ, quyền uy đã vỡ vụn vào các mối kết cấu thân hữu và lợi ích cục bộ, hệ chỉ huy quân sự rệu rã, tài chính kiệt quệ, và quan trọng hơn cả là trí tưởng tượng chính trị chung về “Trung tâm Đại Việt” đã suy tàn đến mức không còn khả năng huy động tinh thần phòng thủ, trong khi ở Đàng Trong, họ Nguyễn sau nhiều chu kỳ binh đao cũng hao hụt nội lực, khiến tổng thể quốc gia vận hành như một cơ thể có hai hệ tuần hoàn vừa cạnh tranh vừa cản trở nhau, không nơi nào đủ chính danh và năng lực để nhận trách nhiệm tối hậu khi ngoại bang can dự.

Trong điều kiện ấy, sự kiện quân Thanh tiến vào Thăng Long cuối năm 1788 không chỉ là thêm một biến cố ngoại giao–quân sự, mà là phép thử giới hạn cuối cùng đối với năng lực tự chủ, bởi vì không còn một cơ chế ra quyết định nào ở Bắc Hà đủ tốc độ, đủ kỷ luật, đủ thẩm quyền để gom lại những nguồn lực rời rạc thành một phản ứng chiến lược hữu hiệu. Chính tại điểm khủng hoảng ấy, Nguyễn Huệ bước vào với một dạng quyền lực mà phần còn lại của vũ đài nội trị không thể tái tạo: quyền lực của sự hợp nhất tức thời giữa kỹ năng tổ chức, thẩm quyền chính trị và trực giác chiến lược, cho phép ông rút ngắn một chuỗi thao tác—tập hợp, cơ động, đánh vào điểm quyết định, kết thúc chiến dịch—trong khoảng thời gian quá ngắn đối với một đối thủ hành chính cồng kềnh và một lực lượng xâm lược đang dựa vào ưu thế quân số và cảm giác “vào như đi dạo”.

Ở đây điều quan trọng không nằm ở con số tuyệt đối do các nguồn sử ghi chép, vốn dao động từ hàng chục vạn đến “hai mươi chín vạn”, mà ở chỗ, với một quốc gia bị phân chia, thiếu trung tâm chính danh, thiếu đường lối chỉ huy thống nhất, không một cá nhân hay tập đoàn quyền lực nào ngoài Nguyễn Huệ đủ sức chuyển hóa sự phòng vệ bản năng của cộng đồng thành một hành động quân sự quy mô nhà nước có mục tiêu chính trị rõ ràng, và chính sự chuyển hóa ấy làm nên giá trị lịch sử của ông: ông không sáng tạo “ý chí dân tộc” từ hư vô, ông phục hồi và đưa nó trở lại bình diện hữu hiệu của quyền lực.

Nhưng ở bình diện cấu trúc, cần nói cho hết rằng năng lực giải cứu quốc gia trong tình thế khẩn cấp không đương nhiên chuyển thành năng lực kiến lập nhà nước trong hòa bình; để một thực thể chính trị đứng vững lâu dài, người ta cần thời gian để pháp điển hóa trật tự, cần một bộ máy quan liêu đủ bền để bảo đảm tính liên tục, cần đo đạc và ghi sổ để biến lãnh thổ từ ý niệm thành đối tượng quản trị, cần thiết kế mối quan hệ giữa trung ương và địa phương sao cho mệnh lệnh có đường đi đến tận làng xã, và cần làm tất cả những điều chậm, nặng, khô ấy trong một khoảng lặng hậu chiến mà lịch sử của Tây Sơn không ban cho.

Nguyễn Huệ qua đời năm 1792 khi công việc chuyển hóa “khí thế chiến thắng” thành “cấu trúc vận hành” mới chỉ manh nha, triều chính chưa kịp định hình cơ chế kế vị có khả năng tái sản xuất thẩm quyền chính trị mà cá nhân ông biểu trưng, tài chính chưa kịp phục hồi sau những năm tổng động viên, và vì thế, không phải do khuyết thiếu cá nhân, mà do giới hạn của thời gian và điều kiện, ông không thể là người hoàn tất pha “định quốc an bang” theo nghĩa nghiêm ngặt của một nhà nước có thể duy trì chính mình qua nhiều thế hệ.


Chính tại ranh giới này, sự đối chiếu giữa họ mới có ý nghĩa: Nguyễn Huệ là chủ thể duy nhất của thời đoạn ấy có thể đưa quốc gia ra khỏi bờ vực mất chủ quyền trong bối cảnh phân liệt; Gia Long là chủ thể của thời đoạn kế tiếp có thể biến thắng quả của độc lập thành một hình thể nhà nước thống nhất và vận hành được; hai phần việc đó khác bản chất, không thể đánh giá bằng cùng một thước, và chính vì khác bản chất nên không thể thay thế nhau, nhưng đặt cạnh nhau thì chúng khớp vào một tiến trình: nếu thiếu Nguyễn Huệ, không có điểm xuất phát cho công cuộc hợp nhất; nếu thiếu Gia Long, không có cấu trúc để hợp nhất khỏi rã ra ngay sau chiến thắng.

Nói Nguyễn Huệ là “anh hùng dân tộc”, do đó, đương nhiên không phải là lời tán tụng rỗng, mà là cách ngắn gọn nhất để chỉ vào sự kiện độc nhất: trong một khoảnh khắc mà toàn bộ hệ thống chính trị lưỡng phân đã mất khả năng tự vệ, ông duy nhất có thể tái lập năng lực tự chủ ở cấp độ quốc gia và chặn đứng nguy cơ ngoại thuộc; nói ông là “một ngôi sao băng” không phải để làm đẹp chữ, mà để nhắc người đọc về mối tương quan giữa cường độ và thời lượng trong lịch sử: cường độ hành động của ông đạt mức quyết định đối với số phận quốc gia, nhưng thời lượng mà lịch sử còn lại cho ông không đủ để đi nốt phần đường từ “giải nguy” tới “kiến lập”; và chính vì vậy, việc đặt ông ngang tầm về vai trò lịch sử với Gia Long là để tạo nên một bức tranh hài hoà, một bài học hoàn hảo cần hơn bao giờ hết cho hậu thế.

(Còn tiếp)

Thứ Sáu, 28 tháng 4, 2023

MỘT CUỐN SÁCH RẤT HAY VỪA XUẤT BẢN!!!


MỘT CUỐN SÁCH RẤT HAY VỪA XUẤT BẢN!!!
 
Tôi vừa được hai tác giả Phan Đăng Thanh (Tiến sĩ Sử học, Thạc sĩ Luật học) và Trương Thị Hòa (Thạc sĩ Sử học, Thạc sĩ Luật học) gửi tặng cuốn sách mà ông bà vừa xuất bản tại NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh. 
 
Đây là cuốn sách mà tôi chờ đợi từ lâu. Đây là lần đầu tiên, hai bộ luật quan trọng trong lịch sử nước nhà được phân tích và đánh giá dưới góc nhìn mới mẻ: Góc nhìn về Nhân quyền thể hiện trong các bộ luật xưa. Vì thế đây là một sự bất ngờ!

Chủ Nhật, 30 tháng 10, 2022

CHỈ ĐIỀU CHỈNH CÁI TÊN THÌ SỬA LÀM GÌ THƯA ÔNG BỘ TRƯỞNG!


CHỈ ĐIỀU CHỈNH CÁI TÊN THÌ SỬA LÀM GÌ THƯA ÔNG BỘ TRƯỞNG!

Ngày 28/10/2022, Bộ trưởng Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng đã ký quyết định này. Quyết định trên không được thông báo tới Hội đồng Nguyễn Phước/Phúc tộc Việt Nam.

Sở dĩ đích thân Ông Bộ trưởng phải ký cái quyết định này là vì hôm 4/4/2022 ông ký cái quyết định công nhận “Lễ giỗ bà thứ phi Hoàng Phi Yến” là Di sản Văn hoá phi vật thể cấp Quốc gia. 

Hồ sơ cái gọi là “Lễ giỗ Bà Thứ phi Hoàng Phi Yến” dựa trên một vở tuồng sáng tác hồi đầu thế kỷ trước, sau đó vào năm 1958 người ta dựng đền thờ bà Yến này. 

Người ta đã dựng đứng rằng:

Thứ Hai, 27 tháng 6, 2022

BỘ VĂN HÓA ĐÃ "ĐÁP TRẢ" KIẾN NGHỊ CỦA NGUYỄN PHƯỚC TỘC

CÔNG VĂN phúc đáp của BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH
gửi đến HỘI ĐỒNG NGUYỄN PHÚC TỘC VIỆT NAM
(về việc giải quyết kiến nghị của Hội đồng Nguyễn Phước tộc Việt Nam với lễ giỗ Bà Thứ phi Hoàng Phi Yến)

Tễu Blog bình luận nhanh:KIỂU PHÚC ĐÁP CỦA BỘ VĂN HÓA

Cuối cùng thì Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch đã phải có công văn kiểu như để hồi đáp Kiến nghị của Nguyễn Phước Tộc và các nhà khoa học Về lễ giỗ Bà Thứ phi Hoàng Phi Yến ở Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Hình ảnh 4 trang Công văn và ảnh bì thư dưới đây là Bộ gửi cho Hội đồng Nguyễn Phước tộc. Qua đó ta thấy rõ:

1- Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch thực là rất xem khinh và không thèm Kính gửi Hội đồng Nguyễn Phước tộc, mà nó chỉ gửi cho bản copy cái công văn Bộ đã gửi UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch nhẽ nên đổi tên là Bộ Vô Văn hóa thì mới xứng!

UBND tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu không có kiến nghị gì thì Bộ gửi, còn Hội đồng Nguyễn Phước tộc có kiến nghị thì bộ không Kính gửi.

2- Phong bì nơi gửi là Cục Di sản Văn hoá, chứ không phải của Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch gửi. Họ chỉ để cơ quan cấp thấp gửi, trong khi Hội đồng Nguyễn Phước tộc ghi rõ gửi Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng.

Văn bản bên trong bì thư do Thứ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch Hoàng Đạo Cương ký, tức là nếu gửi thì Phong bì không được phép viết thêm chữ "Cục Di sản Văn hóa". Kiến nghị của Nguyễn Phước tộc cũng gửi Cục Di sản, và Cục cũng có thể gửi công văn hồi đáp, và dùng phong bì của Bộ ghi thêm chữ Cục Di sản Văn hoá, nhưng bên trong phải là văn bản do Bà Cục chưởng Cục Di sản Văn hoá ký.

Có nhẽ bà Lê Thị Thu Hiền, Cục trưởng Cục Di sản văn hóa đi ngang phòng Thứ trưởng nhặt được văn thư này, thấy hay hay nên copy gửi cho Hội đồng Nguyễn Phước tộc.

Thứ trưởng Hoàng Đạo Cương là con trai Ông Hoàng Đạo Kính (GS.TS, Kiến trúc sư), cháu nội Cụ Hoàng Đạo Thuý. Cũng con dòng cháu giống chứ đâu phải nòi du thủ du thực trong giang hồ, sao ứng xử kém thế!

Đọc cái công văn này thì thấy rõ sự lươn lẹo!

Thứ Tư, 1 tháng 6, 2022

ĐỀ XUẤT ĐẶT TÊN ĐƯỜNG GIA LONG Ở HUẾ

 
Theo các nhà nghiên cứu văn hóa - lịch sử ở Huế, công trạng của vua Gia Long trong lịch sử cần được nhìn nhận một cách khách quan - Ảnh: NHẬT LINH

Đề xuất đặt tên đường Gia Long ở Huế 

Tuổi trẻ
01/06/2022 09:39 GMT+7

TTO - Ngày 31-5, Hội đồng trị sự Nguyễn Phước tộc (con cháu vua Gia Long) ở Huế đã tổ chức tọa đàm khoa học "Công lao và những đóng góp quan trọng của vua Gia Long" nhân kỷ niệm 220 năm ngày vị vua đầu tiên của nhà Nguyễn lên ngôi hoàng đế.

Nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử ở trong và ngoài nước gửi tham luận tham gia đóng góp ý kiến.

Tại tọa đàm, PGS.TS Nguyễn Phước Bửu Nam - chủ tịch Hội đồng trị sự Nguyễn Phước tộc - cho rằng cần có sự nhìn nhận một cách khách quan về những cống hiến của vua Gia Long trong dòng chảy lịch sử Việt Nam hiện nay và đề xuất việc đặt tên đường Gia Long ở TP Huế.

Xung quanh đề xuất này, theo nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Xuân Hoa, nguyên giám đốc Sở Văn hóa - thông tin tỉnh Thừa Thiên Huế, tên vua Gia Long xứng đáng được dùng để đặt cho tên của một con đường chính bề thế nằm trong hệ thống kinh thành Huế.

"Tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay đã có chủ trương về việc đặt tên đường mang tên Gia Long, nhưng vấn đề hiện nay theo tôi được biết là vẫn chưa tìm được một vị trí đường nào phù hợp" - ông Hoa trao đổi với Tuổi Trẻ bên lề tọa đàm.

Ông Phan Thanh Hải, giám đốc Sở Văn hóa - thể thao tỉnh Thừa Thiên Huế, cho biết với 18 năm ở ngôi hoàng đế, vua Gia Long đã có những đóng góp to lớn cho lịch sử phát triển của đất nước và dân tộc, đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia hùng mạnh trong khu vực lúc bấy giờ.

Thứ Ba, 31 tháng 5, 2022

CHÍNH PHỦ CHỈ ĐẠO XEM XÉT KIẾN NGHỊ CỦA NGUYỄN PHƯỚC TỘC


Sự tích Hoàng Phi Yến “bôi nhọ vua Gia Long”:
Chính phủ chỉ đạo xem xét kiến nghị của Nguyễn Phước tộc


Trần Hòe
Dân Việt -
Thứ hai, ngày 30/05/2022

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam giao Bộ VHTTDL và Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia xem xét, xử lý kiến nghị của Hội đồng trị sự Nguyễn Phước tộc về việc rút Lễ giỗ bà Thứ phi Hoàng Phi Yến khỏi danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

“Bôi nhọ vua Gia Long”: Nguyễn Phước tộc phản bác quan điểm của Cục Di sản

PGS.TS Đỗ Bang: “Sự tích Hoàng Phi Yến là xuyên tạc lịch sử, nhằm bôi nhọ vua Gia Long”

Kiến nghị trả lại trong sạch cho vua Gia Long trước nghi án “bỏ vợ, giết con”


Liên quan đến việc Hội đồng trị sự Nguyễn Phước tộc Việt Nam (con cháu vua Gia Long) và các nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử kiến nghị rút Lễ giỗ bà Thứ phi Hoàng Phi Yến khỏi danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, ngày 30/5, Hội đồng trị sự Nguyễn Phước tộc Việt Nam cho biết, Văn phòng Chính phủ vừa có văn bản chỉ đạo các cơ quan liên quan xem xét, xử lý nội dung kiến nghị này.

Thứ Tư, 25 tháng 5, 2022

KIẾN NGHỊ THU HỒI MỘT DANH HIỆU DI SẢN VĂN HÓA QUỐC GIA



CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

TP. Huế, ngày 26 tháng 4 năm 2022

KIẾN NGHỊ THU HỒI QUYẾT ĐỊNH
CÔNG NHẬN DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ QUỐC GIA
ĐỐI VỚI “LỄ GIỖ BÀ THỨ PHI HOÀNG PHI YẾN
Ở HUYỆN CÔN ĐẢO, BÀ RỊA-VŨNG TÀU”


Kính gửi:

- Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam,
- Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch,
- Hội đồng Di sản Văn hóa Quốc gia,
- Cục Di sản Văn hóa - Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch,
- Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam,
- Hội Khoa học Lịch sử Thừa thiên Huế,
- Hội Khoa học Lịch sử Bà Rịa - Vũng Tàu,
- UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu,
- UBND huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu,
- Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam,
- Tổng cục Du lịch Việt Nam,
- Các cơ quan báo chí trung ương và các địa phương,
- Bà con Nguyễn Phúc tộc trong và ngoài nước,…

Thứ Tư, 11 tháng 5, 2022

NÓI TOẠC RA: BÀ PHI YẾN LÀ CHUYỆN BỊA CỦA TÙ NHÂN CÔN ĐẢO!


TRUYỀN THUYẾT VỀ BÀ PHI YẾN LÀ HƯ CẤU SÁNG TẠO CỦA CÁC TÙ NHÂN CÔN ĐẢO VÀ NGHI VẤN RĂM-CẢI

Trần Viết Ngạc
Nhà nghiên cứu lịch sử

Lê thị Răm hay Đặng thị Răm

Mấy hôm nay Nguyễn phước tộc và một số nhà nghiên cứu lên tiếng phản đối việc Bộ Văn hoá công nhận lễ rước Bà Phi Yến ở Côn đảo là di sản văn hoá phi vật thể.

Tôi cũng muốn góp vài ý kiện về sự kiện này.

1. Chuyện Nguyễn phúc Ánh trên đường bôn tẩu có ghé Côn đảo không thì Maybon và nhiều nhà nghiên cứu đã chứng minh là không có.

Không phải bàn cãi thêm.

Thứ Sáu, 29 tháng 4, 2022

TOÀN VĂN BÀI TỔNG KẾT TỌA ĐÀM CỦA PGS.TS ĐỖ BANG


THÀNH TỰU NGHIÊN CỨU VỀ AN SƠN MIẾU VÀ BÀ PHI YẾN Ở CÔN ĐẢO: TỪ TRUYỀN THUYẾT ĐẾN HỒ SƠ DI SẢN, VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM

(Báo cáo Tổng kết Tọa đàm [1])

PGS.TS Đỗ Bang*

1. Tình hình hội thảo

Nhận thức được Sử học luôn gắn với hồ sơ di tích và phát huy giá trị di sản nên hôm nay, tại thành phố Huế, Hội đồng Nguyễn Phúc tộc Việt Nam tổ chức tọa đàm khoa học để đánh giá độ chính xác, tình khách quan khoa học của việc công nhận d i tích An Sơn miếu và Di sản lễ giỗ bà Phi Yến tại Côn Đảo có liên quan đến vua Gia Long, người sáng lập vương triều Nguyễn vào đầu thế kỷ XIX.

Tham dự tọa đàm khoa học là các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa, văn học ở thành phố Huế, thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, các tỉnh Sóc Trăng, Đồng Tháp. Do dịch bệnh Covid và thời gian cấp bách nên chỉ có 16 tham luận kịp thời để in trong tập Kỷ yếu và 8 tác giả có mặt tại hội trường của phủ Tùng Thiện Vương, 91 Phan Đình Phùng, thành phố Huế.

Thứ Năm, 28 tháng 4, 2022

PGS.TS ĐỖ BANG TỔNG KẾT TỌA ĐÀM VÀ KIẾN NGHỊ BỘ TRƯỞNG VH



KIẾN NGHỊ THU HỒI NGAY DANH HIỆU DI SẢN VĂN HÓA CẤP QUỐC GIA
ĐỐI VỚI "LỄ GIỖ BÀ THỨ PHI HOÀNG PHI YẾN Ở HUYỆN CÔN ĐẢO"


Video phát biểu tổng kết Tọa đàm của PGS.TS Đỗ Bang, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, đồng chủ trì Tọa đàm "An Sơn miếu và Bà Phi Yến ở Côn Đảo - Từ Truyền thuyết đến Hồ sơ Di sản". Đây là bài Tổng kết rất đầy đủ, sáng rõ, khách quan, uyên bác và sòng phẳng.

Ngày thứ Ba, 19.4.2022, báo Tuổi trẻ có đăng bài “Băn khoăn di sản Lễ giỗ Bà Thứ phi Hoàng Phi Yến” của hai tác giả Nguyễn Thanh Lợi và Nhật Linh trước việc Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch công bố quyết định đưa Lễ giỗ Bà Thứ phi Hoàng Phi Yến ở Huyện Côn Đảo (Bà Rịa – Vũng Tàu) vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. 

CÁC PHÁT BIỂU CỦA NNC TRẦN ĐẠI VINH VÀ TS NGUYỄN XUÂN DIỆN

Ảnh: Nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh phát biểu tại Tọa đàm.

KIẾN NGHỊ THU HỒI NGAY DANH HIỆU DI SẢN VĂN HÓA CẤP QUỐC GIA
ĐỐI VỚI "LỄ GIỖ BÀ THỨ PHI HOÀNG PHI YẾN Ở HUYỆN CÔN ĐẢO"


Video Phát biểu của Nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh
và Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện


Ngày thứ Ba, 19.4.2022, báo Tuổi trẻ có đăng bài “Băn khoăn di sản Lễ giỗ Bà Thứ phi Hoàng Phi Yến” của hai tác giả Nguyễn Thanh Lợi và Nhật Linh trước việc Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch công bố quyết định đưa Lễ giỗ Bà Thứ phi Hoàng Phi Yến ở Huyện Côn Đảo (Bà Rịa – Vũng Tàu) vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Quyết định này không chỉ gây băn khoăn trong dư luận nói chung và giới nghiên cứu lịch sử và văn hoá nói riêng trên phương diện chuyên môn, mà trên phương diện tình cảm, quyết định này còn gây ra bức xúc rất lớn đối với bà con dòng tộc Nguyễn Phúc tộc trên toàn quốc cũng như ở hải ngoại, khi biết rằng các cứ liệu lịch sử được chọn làm cơ sở xếp loại là Di sản Văn hóa Phi vật thể cấp Quốc gia lại động chạm một cách phi lý đến cuộc đời và sự nghiệp của Hoàng đế Gia Long, vị Hoàng đế khai sáng và khởi nghiệp Vương triều Nhà Nguyễn.

Trước tình hình đó, ngày 26.4.2022, tại Phủ Tùng Thiện vương, số 91 đường Phan Đình Phùng, TP. Huế, Hội đồng Nguyễn Phúc tộc Việt Nam đã tổ chức cuộc tọa đàm khoa học “An Sơn miếu và Bà Phi Yến ở Côn Đảo – Vấn đề từ truyền thuyết đến Hồ sơ di sản”. Cuộc tọa đàm có sự hiện diện và tham gia của các nhà khoa học về lịch sử, văn hóa và về Vương triều Nguyễn đến từ Huế và Hà Nội.

Về phía Nguyễn Phước tộc, có sự hiện diện của Ông Nguyễn Phước Bửu Nam (PGS.TS, Chủ tịch Hội đồng Nguyễn Phước tộc Việt Nam và các vị trong Hội đồng. Cuộc tọa đàm có sự tham gia của các cơ quan báo chí trung ương và địa phương để theo dõi và đưa tin. Hội đồng Nguyễn Phúc tộc Việt Nam kiến nghị Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch hủy bỏ/thu hồi ngay quyết định công nhận Lễ giỗ Bà Thứ phi Hoàng Phi Yến, ở huyện Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu) là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia để bảo vệ tính chính đáng của một hồ sơ khoa học, thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” đối với vị vua khởi nghiệp triều đại để đất nước có được hình hài như hôm nay, không xuyên tạc lịch sử, không xúc phạm anh linh Hoàng đế Gia Long cũng như Nguyễn Phúc tộc.

Dưới đây là phát biểu của hai nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh (Huế) và Nguyễn Xuân Diện (Hà Nội) tại cuộc tọa đàm.

Chủ Nhật, 30 tháng 7, 2017

Trần Quang Đức: ĐÂU QUANG TRUNG? ĐÂU NGUYỄN ÁNH?


Trần Quang Đức
29 - 07 - 2017

ĐÂU MỚI THẬT QUANG TRUNG?

Lâu nay, hình minh họa Quang Trung Nguyễn Huệ trên tờ tiền 200 đồng của VNCH đã dần trở nên quen mắt, được sử dụng tương đối rộng rãi khi người ta muốn hình dung về vị vua áo vải cờ đào. Nhưng khi đối chiếu với bức tranh vua Quang Trung cưỡi ngựa in trong sách khảo cứu về Quang Trung từ xưa, có thể thấy rõ hình minh họa trong tờ tiền thời VNCH được tham khảo từ đó.