Hiển thị các bài đăng có nhãn Hoành phi câu đối. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hoành phi câu đối. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 25 tháng 7, 2023

VỀ MỘT ĐÔI CÂU ĐỐI Ở PHỦ TIÊN HƯƠNG


VỀ MỘT ĐÔI CÂU ĐỐI Ở PHỦ TIÊN HƯƠNG 

Nguyễn Xuân Diện

Quần thể di tích Phủ Dày, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định bao gồm Phủ Vân Cát, Phủ Tiên Hương, Khu lăng Mẫu Liễu Hạnh và 11 đền phủ đình chùa xung quanh. 
 
Thủ nhang Phủ TIÊN HƯƠNG là Trần Thị Kim Huệ gần đây cho treo biển là “Phủ Chính Tiên Hương – Nơi Thánh Mẫu Giáng Sinh”. 
 
Thực ra Phủ VÂN CÁT mới là nơi lưu dấu tích ngôi nhà mà Mẫu Liễu Hạnh được sinh ra, góc vườn có vạt đất chôn nhúm rau của Mẫu. 
 
Tại gian giữa chính điện của Phủ Tiên Hương mà chị Kim Huệ là Thủ nhang cũng đã có treo đôi câu đối xác nhận rõ:
 
三 世 輪 回 于為 汭 于 雲 葛 于 俄 山 五 百 餘 年 光 實 錄
歷 朝 芭 袞 為 帝 女 為 大 王 為 眾 母 憶 年 萬 古 奠 名 邦
龍 飛 癸 丑 秋
青 化 省 督 學 黎 希 永 奉 撰 
 
Phiên âm là:

- Tam thế luân hồi, vu Vỉ Nhuế, vu VÂN CÁT, vu Nga Sơn, 
                                           ngũ bách dư niên quang thực lục;
- Lịch triều ba cổn, vi Đế nữ, vi Đại vương, vi chúng Mẫu, 
                                                     ức niên vạn cổ điện danh bang.
 
[Lạc khoản: Long phi Quý Sửu thu. Thanh Hóa tỉnh Đốc học Lê Hy Vĩnh phụng soạn].
 
*Chữ Vỉ: gồm bộ chấm thủy và chữ vi. Ở trên bộ gõ ko thể hiện được chữ "Vỉ"
Đọc tiếp...

VỀ MỘT BỨC HOÀNH PHI Ở PHỦ VÂN CÁT

VỀ MỘT BỨC HOÀNH PHI Ở PHỦ VÂN CÁT

Nguyễn Xuân Diện

Trong ảnh là bức hoành phi được tôn trí tại Phủ Vân Cát, thuộc quần thể Phủ Dày, xã Kim Thái, tỉnh Nam Định. 

Bức này, đọc từ phải sang trái là "NHẤT THẦN LƯỠNG HÓA". Có người dịch là "vị thần hai lần hóa thân". 

Tại Phủ Tiên Hương bên cạnh cũng có các bức tương tự, cụ thể là:

1- Nhất Cố Thần 一 故 神
2- Nhất Thần Lưỡng Hóa 一 神 兩 化
3- Cố Thần Cố Hóa 故 神 故 化 

Từ trước đến nay các sách vở báo chí đều hiểu sai và dịch sai bức hoành này. 

Mấy chữ này khởi nguồn từ trong thiên Tham lưỡng, sách Chính Mông của Trương Tái. Sách có câu: 一 物 兩 體 ,氣也. 一故神, 兩故化.此天地之所以參也. Nhất vật lưỡng thể, khí dã. Nhất cố thần, lưỡng cố hóa. Thử thiên địa chi sở dĩ tham dã (Dịch là: Một vật đều có hai thể âm – dương, đó là khí. Hợp nhất lại là Thần, có cả âm – dương nên hóa sinh muôn vật. Ấy là nguyên nhân tham phối với trời đất vậy).

Vì vậy, LƯỠNG ở đây là Âm và Dương. NHẤT ở đây là hợp nhất.

Hợp nhất được ÂM và DƯƠNG thì là THẦN. 

Có Âm và Dương nên mới HÓA SINH VẠN VẬT.

Chỉ có THẦN mới làm được việc này. Nói văn chương thì là: Vì có hai (âm–dương) cho nên biến hóa, vì hợp nhất (âm – dương) cho nên là thần. 

Nhất Cố Thần, Nhất Thần Lưỡng Hóa, Cố Thần Cố Hóa, Lưỡng cố Hóa Nhất cố Thần là những chữ được thấy ở nhiều di tích thờ Nữ thần ở Việt Nam (Chùa Mía Sơn Tây, ở khám thờ Bà Chúa Mía cũng có ba chữ Nhất Cố Thần 一 故 神, có người dịch là Một Thần Cũ). 

24.7.2023
Nguyễn Xuân Diện

* Cám ơn Mai Đình tiên sinh, gần chục năm trước đã chỉ cho tôi biết câu này trong sách Chính Mông của Trương Tải, để hôm nay tôi chia sẻ với anh chị em!

Đọc tiếp...

Thứ Ba, 27 tháng 9, 2022

HÔM NAY NƯỚC NHẬT TỔ CHỨC QUỐC TANG NGÀI ABE SHINZO

KÍNH VIẾNG NGÀI ABE SHINZO
THỦ TƯỚNG TIỀN NHIỆM CỦA NHẬT BẢN

Lời dẫn của Nguyễn Xuân Diện: Sáng 12/7/2022, tôi cùng một số nhân sĩ trí thức và bạn bè đến Đại Sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam (27, Liễu Giai, Hà Nội) để viếng và ghi sổ tang, bày tỏ lòng tiếc thương vô hạn trước sự ra đi đột ngột của Ngài Abe Shinzo, thủ tướng tiền nhiệm của Nhật Bản.

Trước đó, lúc 11h00 đêm 11/7/2022, Thư pháp gia Tử Hư Nguyễn Ngọc Thanh ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã giúp thể hiện đôi câu đối trên giấy lụa bạch dài 1,2m (xin xem ảnh chụp ở dưới). Sau khi bồi trục biểu đã được mang đến trao cho Ngài MAEDA Shunsuke, Bí thư thứ 3 của ĐSQ Nhật Bản tại Việt Nam. 

Bức thư pháp viếng Ngài Abe Shinzo do Thư pháp gia Tử Hư Nguyễn Ngọc Thanh,
Viện Nghiên cứu Hán Nôm thể hiện đêm 11/7/2022.

Đọc tiếp...

Thứ Năm, 15 tháng 9, 2022

VỀ ĐÔI CÂU ĐỐI NỔI TIẾNG Ở ĐỀN KIẾP BẠC

Ảnh: Nguyễn Xuân Diện - Năm Nhân Dần (24.4.2022)

VỀ ĐÔI CÂU ĐỐI NỔI TIẾNG Ở ĐỀN KIẾP BẠC

Lời dẫn của Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện: Đây là đôi câu đối rất nổi tiếng, trước hết vì nó rất hay mà lại rất ngắn. Tác giả của đôi câu đối là Tam nguyên Thám hoa Vũ Phạm Hàm là một người hay chữ bậc nhất hồi đầu thế kỷ XX. Nổi tiếng nữa là vì có một dị bản khác là "thung thanh" gây ra cuộc tranh cãi liên miên trên khắp các mặt báo trong hơn nửa thế kỷ qua. Vậy "thu thanh"(Tiếng mùa thu, cũng là tiếng binh đao) hay là "thung thanh"(Tiếng đóng cọc).

萬 劫 有 山皆 劍 氣
六 頭 無 水不 秋 聲 

Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm khí,
Lục Đầu vô thủy bất thu thanh

Dịch nghĩa:

Vạn Kiếp có ngọn núi nào thì đều vương hơi kiếm
Lục Đầu không con nước nào không vang tiếng đao binh.

*************
Xin giới thiệu
bài Tổng thuật rất hay, rất đầy đủ và khách quan của Nguyễn Hồng Lam:

MỘT CHỮ, NỬA THẾ KỶ TRANH CÃI
Thứ Năm, 24/05/2012, 08:00

Trong tâm thức người Việt, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đã trở thành bậc hiển thánh, được lập đền thờ nhiều nơi. Sớm nhất phải kế đến đền Kiếp Bạc ở xã Vạn Kiếp, nay là xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, Hải Dương, nơi gắn liền với chiến thắng Bạch Đằng giang lừng lẫy. Đền được xây dựng từ năm 1300, ngay sau khi Trần Hưng Đạo tạ thế.

Đến những năm đầu thế kỷ XX, hai bên cổng đền có khắc thêm đôi câu đối:

萬 劫 有 山皆 劍 氣
六 頭 無 水不 秋聲 

Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm khí,
Lục Đầu vô thủy bất thu thanh

Dịch nghĩa:

Vạn Kiếp có ngọn núi nào thì đều vương hơi gươm kiếm
Lục Đầu không con nước nào không vang tiếng đao binh

Đôi câu đối này cũng đồng thời được khắc trước đền thờ Trần Hưng Đạo tại số 36, đường Võ Thị Sáu, Q.I, TP Hồ Chí Minh. Tác giả của đôi câu đối là Tam nguyên Vũ Phạm Hàm, đậu Thám Hoa nhưng thực chất là Thủ khoa (Đình Nguyên), giành học vị đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ khoa thi Đình đời vua Thành Thái năm thứ tư (năm 1892, khoa thi này không lấy Trạng Nguyên và Bảng Nhãn). Đỗ đồng khoa, xếp danh liền sau Vũ Phạm Hàm là Nguyễn Thượng Hiền, đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) và Chu Mạnh Trinh đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân.

Từ khi ra đời đến nay, đôi câu đối của bậc đại khoa vẫn được đánh giá là "ngắn gọn, cô đọng, nhưng đã thể hiện được khí phách oai hùng của những trận chiến chống quân Nguyên xâm lược, còn vang vọng mãi đến tận hôm nay làm cho chúng ta thêm tự hào và phấn chấn".

Thế nhưng, trong hơn nửa thế kỷ, kéo dài cho đến tận hôm nay, chữ "thu thanh" trong vế đối thứ hai vẫn là nguyên nhân cho nhiều cuộc tranh cãi chưa có hồi kết.

Vào những năm 60 của thế kỷ XX, nhà văn Lãng Nhân Phùng Tất Đắc đã đề nghị đổi chữ "thu thanh" thành "trang thanh" (tiếng đóng cọc), nhằm đối "chỉnh hơn" với chữ "kiếm khí" (hơi gươm kiếm) của vế thứ nhất. Chữ "trang thanh", về mặt nghĩa còn dụng ý nhắc lại dư âm trận chiến đóng cọc gỗ tiêu diệt đạo đại thủy binh Nguyên Mông trên sông Bạch Đằng của Hưng Đạo Đại Vương. Tiếp đó, trong bài viết đăng trên tạp chí Hán Nôm số 1 năm 1987, nhà nghiên cứu Nguyễn Quảng Tuân cũng dè dặt hoài nghi chữ "thu thanh" và đưa ra đề nghị "đính chính" bằng chữ "thung thanh", cũng có nghĩa là "âm vang cây cọc". Ông cho rằng đôi câu đối, khi được khắc lên cổng đền đã bị ghi nhầm chữ "thung" ra chữ "thu". Lập luận chính của Nguyễn Quảng Tuân là: "Chữ "kiếm" đối với chữ "thung" chỉnh hơn là với chữ "thu", vì "kiếm" và "thung" đều là vật "cụ thể", còn "thu" chỉ là "trừu tượng" mà thôi". Ngoài ra, về âm đọc, chữ này được đọc bằng hai âm, đọc "thung" thì có nghĩa là đánh đập, đọc là "chang" thì có có nghĩa là cái cọc. Do đó, trong bài viết, Nguyễn Quảng Tuân đề xuất chọn cách đọc thành "chang thanh", sửa đôi câu đối thành:

Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm khí,
Lục Đầu vô thủy bất chang thanh

Bức xúc và gay gắt hơn, giữa năm 1995, trên tờ Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, nhà nghiên cứu Hoàng Hữu Xứng đã thẳng thắn đề nghị "đục bỏ đôi câu đối của Vũ Phạm Hàm trên cổng đền Kiếp Bạc, ngõ hầu tránh được một sai lầm đáng tiếc". Lập luận mà ông đưa ra là "đoán rằng Thám Hoa Vũ Phạm Hàm thì không sai, nhưng khi đọc cho thợ ngõa đắp chữ lên cổng đền, người thợ có thể đã nghe sai". Chữ dùng đúng, theo ông chỉ là một trong hai, hoặc là "thung thanh", hoặc là "trang thanh", đều hàm nghĩa "âm vang cọc gỗ". Do gần giống về mặt âm, có thể người thợ đắp chữ đã nghe nhầm nên đắp chữ "trang", hoặc chữ "thung" thành chữ "thu", vừa không chỉnh đối, vừa rất… lạc nghĩa. Lập luận "nghe nhầm" này, trước đó đã được đưa ra bởi một bậc thức giả khác là Giản Chi. Ông cho rằng: "Nếu là "thu thanh" thì sông nào chẳng có "tiếng thu" khi gặp gió lớn sóng to. Nếu là "thung thanh" thì chỉ có sông Bạch Đằng (Lục Đầu) mới có tiếng đóng cọc mà thôi" (chỉ sự kiện Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán năm 939 và Trần Hưng Đạo đại phá Nguyên Mông năm 1288). Vả chăng, hai chữ "thung thanh" cũng không hoàn toàn do những người có ý kiến bài xích chữ "thu thanh" sau này tự nghĩ ra. Nó đã đã được tìm thấy trong bài văn tế bằng chữ Hán vẫn thường đọc ở các đền thờ Trần Hưng Đạo vào ngày 20 tháng 8 Âm lịch hằng năm:

Sinh tiền bất hủ chi tâm, giang thung thu ngật,
Tử hậu lẫm như chi khí, hạp kiếm lôi minh.

Dịch nghĩa:

Khi còn sống, trái tim bất hủ, cọc giữa dòng sừng sững dưới trời thu.
Lúc đã mất rồi, lẫm liệt khí thiêng, kiếm trong tráp khua vang như sấm dậy.

Nhưng ý kiến chọn chữ "trang", chữ "thung" thay cho chữ "thu" lại được rất nhiều người ủng hộ, trong đó có học giả An Chi với bài trả lời, giải thích cho độc giả in trên Tạp chí Kiến thức thức ngày nay vào cùng năm 1995, được in lại trong sách "Chuyện Đông chuyện Tây" tái bản nhiều lần.

Xem ra, phái ủng hộ "thung thanh" (hoặc "trang thanh") và "chê" chữ "thu thanh", hơn nửa thế kỷ qua quy tụ toàn những bậc thức giả tên tuổi lẫy lừng. Trong khi đó, phái cương quyết giữ lại chữ "thu thanh", tuy cũng quy tụ không ít tên tuổi, song tiếng nói bảo vệ và phản bác đều có vẻ yếu ớt, mơ hồ và ít thuyết phục hơn. Những phát biểu này thường đơn lẻ và chỉ dừng lại ở mức "bàn", chưa thật sự đưa ra được nhiều lập luận thuyết phục một cách có hệ thống. PGS - TS Nguyễn Minh Tường (Viện Sử học) đánh giá rằng nếu dùng chữ "thung thanh" thay cho chữ "thu thanh" thì đó "không còn là chữ nghĩa của bậc đại khoa" như cụ Thám hoa Vũ Phạm Hàm nữa. Tác giả Nguyễn Khắc Bảo, trong Thông báo Hán Nôm năm 1998 cho rằng từ "thu thanh" trong câu đối thì "thu" là mùa thu, với nghĩa hàm súc là để chỉ chiến tranh và đau thương tang tóc. Hiểu theo nghĩa này, "thu thanh" có thể hiểu là "tiếng đau thương, tang tóc", hoặc "tiếng binh đao" đối với "hơi gươm kiếm" ở vế trên tỏ ra khá chuẩn cả về chữ lẫn nghĩa.

Thực tế, chữ "thu thanh" hiểu theo nghĩa này cũng đã từng được nhiều người sử dụng. Tuy nhiên, khá hiếm hoi, dường như chúng tôi thấy chỉ có hai người, nhà Hán học Tảo Trang Vũ Tuân Sán trong bài "Lại bàn về "thu thanh" hay "trang thanh" (Tạp chí Hán Nôm số 2/13-1992) và PGS Sử học Tạ Ngọc trong bài "Kiếm khí - Thu thanh" trên Tuần báo Văn nghệ số 387 ra ngày 17-9-2000 là có đề cập thẳng vấn đề cốt lõi: "Tiếng thu là tiếng gió tây làm rụng lá vàng, ý nghĩa đặc biệt của nó được ghi ở bài phú nổi tiếng: "Thu thanh phú" (Phú tiếng thu) của Âu Dương Tu đời Tống".

Năm 1995, trong bài "Trao đổi với nhà nghiên cứu Hoàng Hữu Xứng" đăng trên Báo Văn nghệ, chúng tôi cũng đã đề cập đến và giải thích khá kỹ lưỡng điển cố "thu thanh" rút từ "Thu thanh phú" của Âu Dương Tu (1007-1072).

Chúng tôi cho rằng, dù sắc bén đến mấy, tác giả Hoàng Hữu Xứng (người gay gắt và bức xúc hơn cả) vẫn chưa chính xác khi dùng chữ "đoán rằng" trong một lập luận nghiên cứu. Việc "nghe nhầm", hiểu sai ý Vũ Phạm Hàm của người thợ ngõa mà dẫn đến đắp sai đôi câu đối, theo chúng tôi hoàn toàn không có khả năng xảy ra. Bởi lẽ, rất có thể, người thợ không nhất thiết phải biết chữ. Họ chỉ việc ngõa chữ theo văn bản đã được Vũ Phạm Hàm hay bậc túc nho văn hay chữ đẹp nào đó viết chữ sẵn, không cần biết mình đang khắc, ngõa chữ gì. Mặt khác, nôm na thì công trình nào cũng phải có nghiệm thu. Nếu người thợ khắc, ngõa chữ có nghe nhầm chữ "thung" thành chữ "thu" thì hẳn sau đó, khi nghiệm thu, sai sót này đã được phát hiện và sửa chữa. Sai sót đó không có lý do để tồn tại thêm hơn 100 năm. Như vậy, nếu chữ "thu thanh" đã tồn tại trên đôi câu đối trước đền Kiếp Bạc, trước án thờ đền Trần Hưng Đạo ở TP Hồ Chí Minh, thì đích thực đó là chữ của Thám hoa Vũ Phạm Hàm với đầy đủ sự chính xác của nó.

Trong phần đầu bài "Thu thanh phú", Âu Dương Tu mô tả:

"Dị tai! Sơ tích lịch dĩ tiêu táp, hốt bôn đằng nhi phanh vi; như ba đào dạ kinh, phong vũ sậu chí; kỳ xúc ư vật dã, thung thung tranh tranh, kim thiết giai minh; hựu như phó địch chi binh, hàm mai tật tẩu, bất văn hiệu lệnh, đãn văn nhân mã chi hành thanh".

Trần Trọng San dịch:

"Lạ thay! Lúc đầu rì rầm, vi vu, rồi chợt sầm sập, mạnh mẽ, như sóng nước kinh động ban đêm, gió mưa thổi đến thình lình, chạm vào vật leng keng, loảng xoảng, tiếng vàng, tiếng sắt kêu vang, lại như đoàn quân tiến đến hàng ngũ địch, ngậm tăm chạy mau, không nghe thấy hiệu lệnh, chỉ nghe thấy tiếng người, ngựa đi".

Nghe những âm thanh đó, Âu Dương Tu chợt hiểu ra: "Dư viết: "Y hy! Bi tai! Thử thu thanh dã, hồ vi hồ lai tai! Tôi (Âu Dương Tu) nói rằng: "Than ôi! Thương thay! Đó là tiếng thu, sao lại vọng đến đây". Ở đoạn giữa bài Phú, Âu Dương Tu giải thích: "Phù thu, hình quan dã, ư thì vi âm; hựu binh tượng dã, ư hành vi kim. Thị vị thiên địa chi nghĩa khí, thường dĩ túc sát nhi vi tâm". Trần Trọng San dịch: "Thu là hình quan, nói về bốn mùa là âm; lại là binh tượng, nói về năm hành là kim. Đó là cái nghĩa khí của trời đất, thường lấy sự giết hại làm lòng".

Chúng tôi nghĩ rằng, vậy là đã rõ, chữ "thu thanh" không chỉ hiểu đơn thuần là "tiếng mùa thu", nhẹ và lạc nghĩa rất xa so với "hơi gươm kiếm". Trong cách luận của Âu Dương Tu thì "thu binh thỉ dã" (mùa thu tức là mùa binh vậy), chữ "thu thanh" điển cố rút từ "Thu thanh phú" cần được hiểu là "tiếng đao binh", đối rất sát với chữ "kiếm khí" (hơi gươm kiếm). Với một bậc đại khoa như Vũ Phạm Hàm, việc sử dụng nhuần nhuyễn một điển cố như chữ "thu thanh", hẳn nhiên không phải là quá khó, cũng không hề là việc xa lạ.

"Hơi gươm kiếm" đối với "tiếng đao binh", chữ nghĩa quá tuyệt vời. Một đôi câu đối đã tồn tại hơn trăm năm, đã góp phần tạo thêm một nét cảm thức dân tộc, thiết nghĩ không nhất thiết phải tốn giấy mực tranh luận, lại càng không nên vì sự suy diễn, phỏng đoán mà thay đổi hay đục bỏ. Đó cũng là cách "ngõ hầu tránh một sai lầm đáng tiếc" cho hậu thế vậy!

Nguyễn Hồng Lam

Nguồn: https://cand.com.vn/dien-dan-van-nghe-cong-an/Mot-chu-nua-the-ky-tranh-cai-i330693/?fbclid=IwAR1ZR-tNYnHYhILHsg9A9B0cawoObJlNj4N8rQJZLebQ8lZuSj-XAf7wx50 

Hai tấm hình do người Pháp chụp cổng đền Kiếp Bạc đầu thế kỷ XX:



Đọc tiếp...

Thứ Bảy, 6 tháng 10, 2018

VỀ ĐÔI CÂU ĐỐI QUỐC SƯ VŨ KHIÊU TẶNG CHO NHÀ CỤ ĐỖ MƯỜI


Nguyễn Phan Khiêm

CÂU ĐỐI NHÀ CỤ ĐỖ MƯỜI


Báo chí đăng nhiều hình ảnh về căn nhà của gia đình cụ Đỗ Mười ở Đông Mỹ, Thanh Trì. Đúng là căn nhà rất đơn sơ, mái lợp bro xi măng, bàn thờ đặt trên nóc tủ đúng phong cách thời bao cấp.

Đáng chú ý là đôi câu đối mới làm, chữ đẹp, treo hai bên bàn thờ gia tiên:

DÂN AN, QUỐC THÁI LƯU CÔNG ĐỨC
PHƯỢNG VŨ, LONG PHI BÁI MIẾU ĐƯỜNG.

Đọc tiếp...

Thứ Năm, 17 tháng 11, 2016

Hà Sỹ Phu: CÂU ĐỐI VIẾNG LÊ HỒNG HÀ

Vĩnh biệt Lê Hồng Hà
trước ngày ông hóa thân vào…“Hoàn Vũ”


Hà Sỹ Phu
16-11-2016

Bác Hồng Hà vĩnh biệt chúng ta lúc tròn 90. Giữa thời đất nước loạn ly này, một đời như bác là đẹp rồi.

Ấn tượng đặc biệt mà bác khắc lại trong tôi là kết tinh của hai tính cách đối lập: Vừa nhân ái lại vừa quyết liệt! Một đảng viên vào Đảng từ năm 1946 lại là đại tá Công an, chánh văn phòng Bộ Nội vụ mà kết luận thẳng thừng về ĐCS là đi theo một chủ nghĩa “phản phát triển” nên “càng phát triển thì càng tụt hậu”, quá trình của Đảng là một “lịch sử thất bại”, hiện nay chỉ còn “bịp bợm”, “gần như không còn ai tin vào cái Đảng này nữa” vì “Đảng hiện nay chỉ còn vai trò kìm hãm xã hội thôi”..vân vân…[1].


Thế là xổ toẹt, kiên quyết, triệt để, không khoan nhượng, không còn “giữ ý” một chút gì hết. Quyết liệt đến mức chống Pháp thì bị án tử hình vắng mặt, làm đại tá Công an Cộng sản thì bị Công an bắt tù vì tội “làm lộ” (làm lộ cái bức thư ông Võ Văn Kiệt gửi bộ Chính trị, thực ra vụ ấy ông Hồng Hà cùng với tôi và Ông Nguyễn Kiến Giang đều bị trừng trị vì cái tội “làm lộ” hết các tính chất phi khoa học, phản dân chủ, phản tiến hóa của cái chủ thuyết Mác-Lê và con đường CS mà Đảng đi theo). Nhưng gặp ông thấy lúc nào cũng tươi cười, hồn hậu.

Đọc tiếp...

Thứ Tư, 10 tháng 8, 2016

CỬ THANH: VỀ 2 ĐÔI CÂU ĐỐI VŨ KHIÊU TẶNG NGUYỄN TẤN DŨNG





Về hai đôi câu đối Vũ Khiêu tặng Nguyễn Tấn Dũng

nhân dịp Xuân Bính Thân



Ngày 27/3/2016 trên trang Nguyễn Tấn Dũng có đăng hai đôi câu đối của Vũ Khiêu tặng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, sau đó Tễu blog có đăng lại. Nội dung như sau:

    

Câu thứ nhất

    

Vì nước vì dân

      

       Ái Quốc Thân Dân, Một Tấm Trung Can Trời Phật Tỏ

       Hùng Tâm Tráng Chí, Ngàn Thu Sự Nghiệp Núi Sông Ghi



Với lời đề tặng (viết tay): Kính tặng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lá cờ đầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (ký tên Vũ Khiêu)
Đọc tiếp...

Thứ Hai, 8 tháng 8, 2016

Đặng Văn Sinh: CÂU ĐỐI TẶNG GS. VŨ KHIÊU NHÂN DỊP CỤ "ẴM" GIẢI

Ông Lê Thanh Hải, Bí thư thành ủy Tp.HCM, trao giải nhì cho GS Vũ Khiêu trong cuộc thi văn bia do Thành ủy phát động. Ảnh: VietNamnet.

Câu đối tặng GS.Vũ Khiêu 
nhân dịp cụ được giải thưởng thơ… “con cóc”

Đặng Văn Sinh 


Vũ Khiêu từng làm con nuôi họ Đặng(*) nên có thời đã ghi danh tính là Đặng Vũ Khiêu. Hồi trẻ, cụ làm loong toong (tạp vụ) ở một nhà thương (Nam Định), năm 1954 được cử sang Tàu học tư tưởng Mao Trạch Đông mấy năm. Về nước, cụ được Đảng trọng dụng, xem như thành phần trí thức cốt cán do hệ thống nhà trường của giai cấp vô sản chuyên chính đào tạo. Trong quá trình hoạt động ở lĩnh vực văn hóa xã hội, vị giáo sư công nông này đã có những bài viết làm các nhà lãnh đạo Đảng nở mày nở mặt với các luận điểm nổi tiếng như “Cải cách ruộng đất, Trừng trị nhóm Nhân văn Giai phẩm hay Phong trào hợp tác hóa nông nghiệp đều là những cái đẹp thuộc phạm trù mỹ học”.

Đọc tiếp...

Bùi Hoàng Tám: CỤ VŨ KHIÊU TẶNG CÂU ĐỐI NHƯ PHIẾU BÉ NGOAN


Chuyện cụ Vũ Khiêu tặng câu đối
Bùi Hoàng Tám

Việc cụ Vũ Khiêu tặng câu đối không lạ. Cụ đã từng tặng nhiều, rất nhiều người. Từ chính khách đến cái cô người đẹp gì đó mà cụ đã "thơm" vào má, nhất là mấy chú doanh nghiệp, doanh nhân thì nhiều vô kể. Vài chục, vài trăm hay cả ngàn? Chịu. Chỉ tính số mình được biết con số đã lên hàng chục.
Đọc tiếp...

Chủ Nhật, 7 tháng 8, 2016

Tin HOT: CỤ VŨ KHIÊU TIẾT LỘ LAI LỊCH NHÀ TRỜI CỦA THỦ TƯỚNG

Ton Nhat Quang
Quốc sư Vũ Khiêu lại tặng câu đối cho Thủ tướng: 

Tể tướng giáng trần chí tráng tâm hùng Xuân [bất tận]
Anh hùng nhập thế dân an quốc thái Phúc vô biên! 

Thể loại gọi là trí thức xã hội chủ nghĩa nó vô liêm sỷ thật.

Tể tướng giáng trần là sao hả các bác?
Lúc là Phó thủ tướng thì ổng chưa giáng thế à?

Đọc tiếp...

Thứ Ba, 19 tháng 7, 2016

TUYỆT VỜI ! GIÁO SƯ TRỌNG XUẤT KHẨU THÀNH CHƯƠNG


Nguyen Son

Tối qua có anh bạn sắp khai trương quán ăn nhảy vào hỏi: "Tôi sắp mở quán ăn bán đồ hải sản các thứ. Quán trang trí kiểu dân tộc cổ truyền nên nhờ ông viết cho tôi 1 câu đối để treo cho vui. Cũng định nhờ cụ "quốc phụ" viết nhưng cụ ấy từ đận hôn hít huê hậu có vẻ bút lực suy giảm. Ông giúp tôi đi, sau này ông đến tôi giảm 50% !"

Đọc tiếp...

Thứ Tư, 6 tháng 7, 2016

Tin HOT: PV TRINH NGUYỄN (BÁO THANH NIÊN) BỊA ĐẶT TRẮNG TRỢN


PV Trinh Nguyễn báo Thanh Niên bịa đặt lời PGS.TS Nguyễn Tá Nhí

Ngày 4.7 - 2016 trên Báo Thanh Niên có bài viết "Chỉ dùng chữ Quốc ngữ cho hoành phi câu đối?" của phóng viên Trinh Nguyễn.

1- Căn cứ theo bài trên Thanh Niên, thì thấy rõ, tác giả Trinh Nguyễn dẫn các ý kiến của PGS Nguyễn Tá Nhí (cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm, đã nghỉ hưu) từ tham luận Hội thảo Văn hóa Phật giáo VN thống nhất trong đa dạng diễn ra ngày 2, 3.7 tại Hà Nội.
Đọc tiếp...

THÁO BỎ HOÀNH PHI CÂU ĐỐI HÁN NÔM LÀ VI PHẠM LUẬT DI SẢN

Bức hoành phi bằng chữ Hán tại đình Vĩnh Phước, Sa Đéc, Đồng Tháp

Tháo bỏ hoành phi câu đối chữ Hán -Nôm
là vi phạm luật Di sản
Đọc tiếp...