Hiển thị các bài đăng có nhãn Phạm Quỳnh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phạm Quỳnh. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 19 tháng 8, 2022

77 NĂM TRƯỚC, CỤ PHẠM QUỲNH ĐƯỢC "MỜI"...VÀ MẤT TÍCH


77 NĂM TRƯỚC, CỤ PHẠM QUỲNH ĐƯỢC "MỜI"...VÀ MẤT TÍCH 

Vũ Thế Khôi 

76 năm trước, vào 2h chiều ngày 23 - 08 - 1945, một nhóm người vũ trang đi xe o-tô ập vào ấp Hoa Đường trên bờ sông An Cựu, "mời" cụ Phạm Quỳnh đi gặp chính quyền Cách mạng Thừa Thiên-Huế. Cụ Phạm không bao giờ trở về nữa.


Một thời gian dài có những lời biện bạch rằng cụ Phạm bị một nhóm dân quân manh động sát hại. May thay, 8 năm trước đại tá TS Nguyễn Văn Khoan đã viết ra sự thật trong sách do Nxb CAND in ấn: “Báo “Quyết Thắng”, cơ quan tuyên truyền và tranh đấu của Việt Minh Trung Bộ, số 11 ra ngày 9 - 12 - 1945 cho biết: “cả 3 tên Việt gian đại bợm (Ngô Đình Khôi, Phạm Quỳnh, Ngô Đình Huân) bị bắt ngay trong giờ cướp chính quyền, 2 giờ (chiều) ngày 23 - 8 và đã bị Uỷ ban khởi nghĩa kết án tử hình và đã thi hành ngay trong thời kỳ thiết quân luật”.

Đọc tiếp...

Thứ Hai, 8 tháng 2, 2021

Phạm Quỳnh: TÂM LÝ NGÀY TẾT


Tâm lý ngày Tết

Phạm Quỳnh
Lời dẫn của Phạm Tôn: Bài này Phạm Quỳnh viết bằng tiếng Pháp nhan đề Psychologie du Tet, đăng trên phần Pháp văn của Tạp chí Nam Phong số 149-1924, sau này có in trong Tiểu luận 1922-1932 (Essais 1922-1932) và đã được nhà văn Nguyên Ngọc dịch rất đạt ra tiếng ta, xuất bản năm 2007. Nhưng ở đây, chúng tôi giới thiệu với bạn đọc bản dịch của Tiến sĩ Phạm Thị Ngoạn, con gái Phạm Quỳnh, và là tác giả luận văn Tìm hiểu tạp chí Nam Phong để tạo thêm một nét hứng thú trong ngày Tết này. 
Những dịp để cho cả một dân tộc cùng nhau hướng về một tình cảm, một tư tưởng, để cùng nhau rung động…thật là hiếm có. Thường phải có những sự xẩy ra khá quan trọng, có ảnh hưởng đến tính mạng cả một đoàn thể, để ai nấy đều phải để hết tâm trí vào.

Đọc tiếp...

Chủ Nhật, 7 tháng 2, 2021

Phạm Quỳnh: TỤC THỜ CÚNG TỔ TIÊN Ở NƯỚC NAM



TỤC THỜ CÚNG TỔ TIÊN Ở NƯỚC NAM

Phạm Quỳnh


Nhân loại gồm nhiều người chết hơn là người sống, Auguste Comte đã nói ở đâu đó như thế. Ở nước Nam câu nói ấy của nhà triết học thực chứng Pháp càng đúng hơn ở bất cứ nơi nào khác. Quả vậy, việc thờ cúng tổ tiên có một vị trí quan trọng trong đời sống gia đình và xã hội của chúng ta. Nó đã trở thành một thứ giáo lý tôn giáo, và, theo một nghĩa nào đó, một tôn giáo quốc gia thực thụ. Nếu tôn giáo, đúng như ý nghĩa từ nguyên của nó đã chỉ rõ *, là mối liên kết tinh thần nối liền con người với những lực lượng siêu cảm, việc thờ cúng hay tôn giáo về những người đã chết là cách biểu hiện những mối quan hệ giữa thế giới những người đang sống với thế giới những người đã chết. Các mối quan hệ ấy rất nhiều và liên tục. Những người chết thường xuyên can dự vào cuộc sống của những người đang sống; họ hướng dẫn, chỉ đạo, che chở cho chúng ta, bảo hộ chúng ta, gợi hứng cho những ý tưởng và hành vi của chúng ta, có thể nói nhìn theo chúng ta, bằng những đôi mắt có thể xuyên suốt bóng tối của sự sống và sự chết và rất có thể chính bằng những đôi mắt ấy mà nhân loại có được một hình dung thoáng chốc nào đấy về tương lai và số phận của mình; tóm lại họ sống trong ký ức của chúng ta, trong mọi công việc của chúng ta, trong mong ước của chúng ta về một cuộc sống còn sống động hơn cả cuộc sống trên trần thế này.
Đọc tiếp...

Thứ Năm, 14 tháng 1, 2021

THĂM NHÀ THỜ KẺ SẶT - LÀNG CHÂU KHÊ VÀ LÀNG HOA ĐƯỜNG

Nhà thờ Kẻ Sặt

Cuối tuần, theo lời mời của một người bạn, tôi cùng bạn bè về thăm Kẻ Sặt - một vùng quê nổi tiếng thuộc huyện Bình Giang tỉnh Hải Dương. Nơi đây có Nhà thờ Kẻ Sặt nổi tiếng, rồi có các đặc sản bánh đa và bánh chả Kẻ Sặt nức tiếng xa gần.

Kẻ Sặt là địa danh cổ chỉ một địa phương. Tên địa danh Kẻ Sặt là tên Nôm của làng Trang Liệt. Những địa danh có chữ LIỆT thường có tên Nôm là Sét (Thịnh Liệt - HN), Sặt (Trang Liệt - Từ Sơn, Bắc Ninh; Trang Liệt - Bình Giang, Hải Dương).

Tóm lại, ngày xưa, những vùng đất cổ thường có hai tên:
- Tên cổ thì gọi là Kẻ + tên gọi (ví dụ: Kẻ Noi, Kẻ Chủ, Kẻ Mía, Kẻ Ngác, Kẻ Thày, Kẻ Vẽ....), những tên gọi này thường chỉ là truyền miệng, và có từ rất xa xưa.
- Tên chữ, thường xuất hiện sau, muộn hơn so với tên nôm na, do nhu cầu phải văn bản hóa để quản lý về mặt hành chính.


Bác Ha Le cho biết: Ở miền Nam cũng có địa danh Kẻ Sặt, thuộc vùng Hố Nai, nơi có một ngôi chợ rất sầm uất và nổi tiếng nằm ven quốc lộ 1, gọi là "Chợ Sặt". Đó ban đầu là tên của một làng (đồng thời là giáo xứ) do các giáo dân di cư lập ra, lấy lại tên cũ từ quê hương miền Bắc của họ. Giáo xứ Kẻ Sặt là một trong những giáo xứ đông dân bậc nhất của địa phận Xuân Lộc, hay có thể nói của toàn miền Nam, theo địa giới hành chính hiện này thì thuộc phường Tân Biên, tp. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.


Điều này đúng như những lời bà con giáo dân và chức sắc giáo xứ Kẻ Sặt cho tôi biết trong chuyến thăm này.  Bà con cho biết, vào những dịp lễ trọng hàng năm, bà con Kẻ Sặt ở Hố Nai và các tỉnh phía Nam về quê cha đất tổ dự thánh lễ rất đông, xe lớn chở khách nối nhau dài đến cả cây số. 

Giáo xứ Kẻ Sặt hiện có chừng hơn 5000 giáo dân. Nhà thờ Kẻ Sặt nằm trong một khuôn viên 32 ngàn mét vuông. Nhà thđược xây vào năm 1882 và được sửa chữa vào năm 1922.

Hôm nay Cha xđi vắng, có ủy cho các ông Chánh và Phó trương cùng ban hành giáo đón tiếp và hướng dẫn chúng tôi tham quan nhà thờ. 

Trước khi ra về, chúng tôi gửi lời cảm ơn Cha xứ, cảm ơn các vị chức sắc đã đón tiếp ân cần, niềm nở và kính chúc bà con giáo dân Giáo xứ Kẻ Sặt một mùa Giáng sinh vui vẻ, đầm ấm, hạnh phúc và thành tựu trong hồng ân của Thiên chúa. 





 
 




 Nhà thờ Kẻ Sặt có một dàn trống khủng. Đây là một trong những chiếc trống đó, do thợ Đọi Tam làm
.
Đọc tiếp...

Thứ Năm, 1 tháng 10, 2020

CUỘC THƯỞNG CA TRÊN SÔNG TRĂNG TRUNG THU 95 NĂM TRƯỚC


Cuộc thưởng ca ở làng Hữu Thanh Oai
Nguyễn Mạnh Hồng

Nam Phong số 100, năm 1925
Phàm những khách hàn mặc, xưa nay chỉ cặm cụi vào việc kê cứu quan ma trong chốn văn phòng, thư viện, it khi được vận động đến thân thể, thư thái cho tinh thần; tuy về đường học vấn thì được bổ ích nhiều, nhưng về phép vệ inh thì lại tổn hại lắm. Cho nên cũng có lúc phải dòi bỏ vòng câu thúc mà ra tiêu dao phóng khoáng ở những chốn nước biếc non xanh, trăng trong, gió mát; hoặc là đi quan phong các miền  thôn dã, hoặc là đi ngoạn cảnh những chốn lâm toàn, cho khoan khoái tâm hồn và rộng thêm đường kiến văn, lịch lãm vậy.

Đọc tiếp...

Thứ Sáu, 23 tháng 8, 2019

NGÀY NÀY 74 NĂM TRƯỚC, CỤ PHẠM QUỲNH ĐƯỢC MỜI VÀ MẤT TÍCH


Vũ Thế Khôi
 


74 năm trước, vào 2g ngày này, 23 - 08 - 1945, một nhóm người vũ trang đi xe o-tô ập vào ấp Hoa Đường trên bờ sông An Cựu, "mời" cụ Phạm Quỳnh đi gặp chính quyền Cách mạng Thừa Thiên-Huế. Cụ Phạm không bao giờ trở về nữa.

Một thời gian dài có những lời biện bạch rằng cụ Phạm bị một nhóm dân quân manh động sát hại. May thay, 8 năm trước đại tá TS Nguyễn Văn Khoan đã viết ra sự thật trong sách do Nxb CAND in ấn: “Báo “Quyết Thắng”, cơ quan tuyên truyền và tranh đấu của Việt Minh Trung Bộ, số 11 ra ngày 9 - 12 - 1945 cho biết: “cả 3 tên Việt gian đại bợm (Ngô Đình Khôi, Phạm Quỳnh, Ngô Đình Huân) bị bắt ngay trong giờ cướp chính quyền, 2 giờ (chiều) ngày 23 - 8 và đã bị Uỷ ban khởi nghĩa kết án tử hình và đã thi hành ngay trong thời kỳ thiết quân luật”.

Chủ tịch Uỷ ban Khởi nghĩa Thừa Thiên-Huế bấy giờ là Tố Hữu…”

Vậy tại sao Hồ Chủ tịch gọi cụ Phạm Quỳnh là "học giả" và viết thư mời ra cộng tác với Cách mạng?

Nguyễn Cảnh Thuỵ: Lúc chuẩn bị được "mời đi", cụ còn có vẻ phấn khởi, dặn các con lấy hết vải đỏ ra may cờ cho Việt Minh. Khi bị gọi đi, các con nhắc cụ chưa uống thuốc, cụ bảo chốc về uống. Cụ có ngờ đâu họ tóm cụ đi... thủ tiêu(!)
________________

TÔI ĐI CẢI TÁNG THẦY TÔI

Phạm Tuân
Phạm Tôn'blog 

Lời dẫn của Phạm Tôn: Ông Phạm Tuân là con trai út trong năm con trai của Phạm Quỳnh, sinh năm 1936 tại Huế, hiện định cư tại Mỹ. 

…Năm 1948, anh Bích tôi (Phạm Tuân – PT ghi chú) lúc bấy giờ làm Bí thư cho Quốc trưởng Bảo Đại đã dò hỏi được nơi Thầy tôi bị giết và chôn nhưng không thực hiện được việc tìm kiếm. Phần vì địa điểm là một nơi xa xôi, hẻo lánh, hiểm trở, lại là một vùng “xôi đậu” thiếu an ninh. Phần vì nghe lời khuyên can của những người am hiểu tình hình: không nên mạo hiểm, vì rất có thể đây là cái bẫy…giăng ra để bắt và tiêu diệt những người có liên hệ với các nạn nhân…Một hình thức “nhổ cỏ phải nhổ cho sạch rễ” vậy.

Mãi cho đến năm 1956…bỗng một hôm gia đình chúng tôi được thông báo chuẩn bị sẵn sàng để đi nhận lãnh hài cốt Thầy tôi! Một niềm vui mừng khôn tả, đồng thời một nỗi xúc động vô biên tràn ngập trong lòng anh chị em chúng tôi. Lập tức chúng tôi đi tìm những tin tức chính xác hơn.

Được sự giới thiệu của ông Hoàng Hùng (Bộ trưởng Bộ Kiến Thiết) (là con trai một người bạn Phạm Quỳnh, từng ở nhà Phạm Quỳnh thời còn đi học ở Hà Nội – PT ghi chú) và ông Võ Văn Hải (Văn phòng Phủ Tổng thống), chúng tôi tìm đến gặp ông Võ Như Nguyện. Được biết ông Võ Như Nguyện (nguyên Tỉnh trưởng Bình Định) cùng ông Hoàng Ngọc Trợ (Quận trưởng quận Phong Điền, Thừa Thiên) là những người được Tổng thống Ngô Đình Diệm trao cho việc tìm kiếm (hài cốt cha con Ngô Đình Khôi, anh của Ngô Đình Diệm – PT ghi chú).


Việc tìm kiếm hài cốt không đơn giản mà là một công tác lớn lao, đòi hỏi nhiều thời gian, nhân lực, phương tiện và an ninh tuyệt đối

Ngày 5 tháng 2 năm 1956 (cận Tết) tôi và chị Hảo (Phạm Thị Hảo, con gái thứ ba trong tám con gái của Phạm Quỳnh – PT ghi chú) tôi đi Huế để cùng với một phái đoàn của chính phủ tìm và nhận hài cốt các nạn nhân.

…Thật “nghịch đời”, lúc sinh thời, Thầy tôi và cụ Khôi vì khác chính kiến nên đã trở thành thù địch, thề “không đội trời chung”, thế mà khi thác lại nằm chung một hố.

Chúng tôi (tôi và chị Hảo) phải ở lại Huế lâu hơn dự định, vì như đã tả ở trên, địa điểm là một nơi xa xôi, khó đi lại nên chính phủ phải huy động công binh khai quang, ủi đất làm đường, bắc cầu cho xe hơi đi…trên mười lăm cây số. Ngoài ra còn phải điều động binh sĩ đến giữ an ninh quanh vùng. Nói tóm lại là cả một công trình nan giải mà chỉ có một chính quyền mới thực hiện được mà thôi…

…Nhưng đôi lúc tôi tự hỏi, giả sử như Thầy tôi không bị chôn vùi cùng huyệt với cụ Khôi và ông Huân, những người thân của Tổng thống, thì chúng tôi có được sự giúp đỡ này không?

Suốt ngày 8 tháng 2 năm 1956, đào xới đất, kết quả chỉ bới lên được một bộ hài cốt không phải là của một trong ba người. Mọi người đều thất vọng, lại lo rằng sau mười một năm, trải qua bao mùa lũ lụt, có thể các di hài bị nước lũ cuốn trôi đi chăng?

Đến chiều hôm sau, cận Tết, dưới trời mưa lâm râm, bỗng xuất hiện một cụ già đi ngang qua. Cụ hỏi toán dò tìm: “Đã tìm thấy các cụ chưa? Đào mương nào, mương cũ hay mương mới?”. Thì ra có hai mương…Cụ già nói tiếp: “Cách đây mười một năm tại đây tôi có đào một con mương để dẫn nước từ sông lên ruộng. Hôm sau, ra tát nước thì thấy mương bị lấp. Du kích trong làng cấm không cho tới gần. Vài năm sau, có người đến thầu mấy thửa ruộng của tôi, cũng đào mương, thì bị khuyến cáo không được đào thẳng mà phải đào chếch sang một bên”.

Thì ra đây là “mương mới”, chỗ tìm ra hài cốt độc nhất nói trên. Toán công binh tiếp tục đào sâu hơn, với chu vi rộng lớn hơn, thì quả nhiên tìm được ba bộ hài cốt ở vị thế đúng như những chi tiết thâu lượm được.

Gần đến hài cốt, để tránh đụng đến xương, đám người có phận sự ngưng sử dụng cuốc, xẻng mà chỉ dùng đũa cả khơi đất ra từng mảng. Sau cùng lộ ra rõ rệt ba bộ hài cốt nằm chồng lên nhau.

Hài cốt của Thầy tôi rất dễ nhận vì dài và ngay cạnh, tôi nhận ra được đôi mắt kính cận…Hài cốt của cụ Khôi và ông Huân thì ngắn và nhỏ bé. Thân nhân nhà họ Ngô còn nhận ra được hai chiếc răng vàng và cái thắt lưng to bản (quân phục Nhật) của ông Huân.

Ban tổ chức đã chuẩn bị sẵn ba cái tĩnh, vải liệm trắng đỏ, ba chậu tráng men lớn chứa đầy cồn 90 để rửa xương.

Việc thử nghiệm, rửa hài cốt và tẩm liệm kéo dài đến khi trời tối

Tại làng Văn Xá, quan tài cụ Khôi và ông Huân được quàn dưới một lều vải lớn, có thể chứa cả trăm người, có đèn điện thắp sáng choang, vòng hoa phúng viếng bày la liệt, lính mặc lễ phục túc trực hai bên, các bộ trưởng thứ trưởng âu phục trắng cà vạt đen, các đại biểu, cán bộ đủ mọi cấp ra vào tấp nập…Tiếng cầu kinh của giáo chúng thập phương vang rền suốt đêm. Được biết, ngày hôm sau sẽ di chuyển hai quan tài về Hiền Sĩ. Tại đây, một nhà thờ lớn đã được dựng lên để cử hành tang lễ trọng thể theo nghi thức quốc táng, có đông người tham dự và sau mồng ba Tết mới đưa về Phú Cam chôn cất.

Trong khi đó, trên một ngọn đồi thấp cách đấy không xa, trong một chiếc lều nhà binh nhỏ bé, dưới ánh sáng mờ ảo của mấy ngọn nến, hai chị em tôi cùng cụ bà Ưng Trình (thông gia với gia đình chúng tôi) thay phiên thắp nhang bên linh cữu Thầy tôi.

Chúng tôi có mời một thượng toạ trụ trì tại một ngôi chùa nhỏ trong làng đến làm lễ cầu siêu. Bên chính quyền cũng cử một đại diện đến phúng điếu và phân ưu. Sau đó, cắt cử hai quân nhân mặc lễ phục nghiêm chỉnh túc trực bên quan tài.

Như trên đã nói, ban tổ chức có cung cấp ba tĩnh bằng sành để đựng hài cốt…Cả ba có nắp in hình thánh giá của công giáo, nên chị tôi đã tế nhị từ chối để chỉ dùng cái tĩnh đã mua sẵn dành riêng cho đệ tử nhà Phật với chữ “Vạn” trên nắp.

Quá tủi thân trước sự khắc biệt, lòng ngậm ngùi thê thiết, chị em chúng tôi quyết định thuê đò chở quan tài Thầy tôi về Huế ngay đêm hôm ấy… Tám giờ sáng hôm sau thì đến chùa Vạn Phước. Thượng toạ trụ trì đã chờ sẵn. Sau nghi thức đơn giản, đúng chín giờ thì hạ huyệt. Một số đông bạn học cũ của các anh chị tôi tại hai trường Khải Định và Đồng Khánh đến chia buồn và tiễn đưa.

Thời gian dài kế tiếp sau đấy, người dân Sài Gòn được thấy một con đường lớn, rộng từ phi cảng Tân Sơn Nhất vào trung tâm thủ đô mang tên đại lộ Ngô Đình Khôi… Rồi đến thời Đệ nhị Cộng hoà của Tổng thống Thiệu “nghe nói” tên Thầy tôi đã được đặt cho một con đường nhỏ, gần đường Triệu Đà trong Chợ Lớn… Chị tôi và tôi lân la đi tìm, nhưng chẳng thấy tăm hơi…Tất cả chỉ là một “dự tính” mà thôi.

Ôi, thế thái nhân tình…

P.T.

__________

(Trích bài Sống lại với ký ức thuở ngày xưa, báo Ngày Nay (tiểu bang Minesota), số 385, ngày 30-6-2005 và Việt Học tạp chí phổ thông, số 2 (Nam Califonia) tháng 6-2005).


Viếng mộ Cụ Phạm Quỳnh - mùa hè 2019, nhân tròn 100 năm Nam Phong:


 
Đọc tiếp...

Thứ Hai, 19 tháng 8, 2019

TƯ TƯỞNG LẬP HIẾN Ở VN TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG 8 - 1945


Tư tưởng lập hiến ở Việt Nam
trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 


PGS.TS. Thái Vĩnh Thắng
Đại học Luật Hà Nội


Lịch sử lập hiến Việt Nam bắt đầu từ năm 1946 khi bản Hiến pháp đầu tiên được Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa thông qua. Tuy nhiên, tư tưởng lập hiến đã xuất hiện ở Việt Nam trước đó khoảng gần một thế kỷ, sau khi bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776, Hiến pháp nước Mỹ năm 1787 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền nước Pháp năm 1789 ra đời, đặc biệt vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX khi những luồng gió mới của chính sách Duy tân của Minh Trị Thiên hoàng ở Nhật Bản và Cách mạng Trung Hoa năm 1911 thổi vào Việt Nam. Tư tưởng lập hiến Việt Nam đã xuất hiện trong giới trí thức Việt Nam mà tiêu biểu là Nguyễn Trường Tộ, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Bùi Quang Chiêu, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, đặc biệt là tư tưởng lập hiến của nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc.
Đọc tiếp...

Chủ Nhật, 1 tháng 4, 2018

KÍNH DÂNG LINH HỒN CỤ PHẠM QUỲNH - Thơ Nguyễn Lâm Cẩn


Nguyễn Lâm Cẩn 

HỌC GIẢ PHẠM QUỲNH

Kính dâng linh hồn cụ Phạm Quỳnh.

“Đủ chữ Tây để lừa ta
Đủ chữ Hán để lừa Tây”*
Cụ ơi non nước xưa nay mấy người?!
“Nam phong” bút lực còn tươi
Tinh hoa đất Việt ngậm cười…những ai**

Giết ba lần một hiền tài***
Chết mà bất tử tượng đài làm chi
Con đường đến
Con đường đi
Cụ như núi dựng, họ thì cỏn con

Đọc tiếp...

Thứ Hai, 26 tháng 3, 2018

CON TRAI CỤ PHẠM QUỲNH PHÁT BIỂU TRONG LỄ TÔN VINH CHA


BÀI PHÁT BIỂU CỦA NHẠC SĨ PHẠM TUYÊN
TẠI LỄ TRAO GIẢI THƯỞNG PHAN CHÂU TRINH
VỀ NHÀ VĂN HÓA PHẠM QUỲNH

Phạm Quỳnh sinh ngày 30/1/1893 (năm Nhâm Thìn) tại Hà Nội và mất tại Huế ngày 6/9/1945 (năm Ất Dậu), tức là sinh dưới thời Pháp thuộc và mất sau ngày nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời.  Từ ngày mất, gần như Phạm Quỳnh “biến mất” trên trường chữ nghĩa Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, trừ một trường hợp độc đáo: nhà văn “tả thực” lớn nhất nước ta, đang lúc ở đỉnh cao danh vọng, được nhân dân cả nước yêu mến, thì Nguyễn Công Hoan cho ra mắt tác phẩm cuối đời, ngay giữa Thủ đô Hà Nội, tác phẩm Đời viết văn của tôi (NXB Văn Học-1972). Trong đó, ông dành hai trang 160-161 thành thật viết rõ là mình sáng tác truyện ngắn nổi tiếng Kép Tư Bền, chỉ vì thương… Phạm Quỳnh!

Đọc tiếp...

Chủ Nhật, 25 tháng 3, 2018

Giải thưởng Phan Châu Trinh TÔN VINH NHÀ VĂN HÓA PHẠM QUỲNH


Nhà văn hóa Phạm Quỳnh. Ảnh: T.L

Giải thưởng Phan Châu Trinh 2018 
tôn vinh Nhà văn hóa Phạm Quỳnh

Báo Thanh Niên


Tại lễ trao giải thưởng văn hóa Phan Châu Trinh lần thứ 11 diễn ra tối 24.3 tại TP.HCM, nhà văn hóa Phạm Quỳnh (1893 - 1945) đã được vinh danh là Danh nhân văn hóa VN thời hiện đại.

Năm danh nhân văn hóa từng được vinh danh trước đây là Trương Vĩnh Ký, Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, Nguyễn Văn Vĩnh và Phan Khôi. Nhạc sĩ Phạm Tuyên, 90 tuổi, con trai nhà văn hóa Phạm Quỳnh đã thay mặt gia đình lên nhận giải và đọc diễn từ. 
Đọc tiếp...

Thứ Ba, 18 tháng 7, 2017

Vũ Thế Khôi: NAM PHONG TẠP CHÍ VỚI VẤN ĐỀ GIÁO DỤC

Nhà giáo Vũ Thế Khôi đang trình bày báo cáo tại cuộc tọa đàm. Ảnh: FB V.T.K.

NAM PHONG TẠP CHÍ VỚI VẤN ĐỀ GIÁO DỤC

Vũ Thế Khôi

Bài trình bày tại cuộc tọa đàm nhân kỷ niệm 100 năm Tạp chí Nam Phong ra đời.
Tọa đàm do Tạp chí Xưa & Nay tổ chức tại Hà Nội, ngày 15.07.2017.

Trong luận văn khoa học (ngót bốn chục trang A4), tổng kết 15 năm điền dã khảo cứu về Hướng Thiện hội đền Ngọc Sơn (hình thành trước 1836 và hoạt động trong suốt thế kỷ XIX) như một cơ sở văn hóa - xã hội sâu xa của phong trào Duy tân - Nghĩa thục, trên cơ sở 3 sơ đồ về sự truyền thừa tư tưởng giáo dục dân tộc, nhân bản và hướng Thiện (xem Phụ lục), chúng tôi đã đề xuất khái niệm “HẬU Đông Kinh Nghĩa Thục”. Ngôi nghĩa thục trung ương trên phố Hàng Đào chỉ hoạt động được 7 tháng thì bị đàn áp, nhưng ảnh hưởng của tư tưởng KHAI SÁNG THAY VÌ BẠO ĐỘNG NON do các lãnh tụ Duy tân-Đông Kinh nghĩa thục khởi xướng, vẫn tiếp tục tác động sâu rộng và dài lâu trong khắp Nam Bắc. Đó là nhờ có các tư thục của ông đồ làng - những cơ sở văn hoá - xã hội rộng khắp của tầng lớp “Nho sĩ bình dân” (thuật ngữ do nhà văn hoá Nguyễn Khắc Viện đề xuất, đối lập với “Nho sĩ quan lại”) - âm thầm hoạt động trong các làng xã, phường thôn . Nay các ngôi trường đó được tiếp nhận đường lối “giáo dục quốc dân” của ĐKNT, thực sự mang tính cánh mạng, chứ không phải là “cải lương”, như quy kết của một số nhà nghiên cứu mang cái dớp của phái "Proletkult" ("văn hóa vô sản") mà Lenin đã phê phán. Gọi là “cách mạng “ vì ĐKNT chủ trương thay hẳn nền giáo dục Nho học cổ hủ cốt đào luyện “thần dân bù nhìn chỉ biết làm theo lệnh trên”, bằng một sách lược tân học văn minh (“Văn minh tân học sách”) “khai dân trí”, “chấn dân khí” nhằm đào tạo những công dân biết độc lập suy nghĩ và tự hành động.

Đọc tiếp...

Thứ Bảy, 1 tháng 7, 2017

100 NĂM - NAM PHONG TẠP CHÍ VÀ CHỦ BÚT PHẠM QUỲNH (Bài 4)

TƯỞNG NHỚ NHÀ VĂN HÓA PHẠM QUỲNH, 70 NĂM NGÀY MẤT
Nhà văn hoá Phạm Quỳnh

Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
Phạm Quỳnh (1892 – 1945)
“Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn.”
Đó là câu nói hàm súc và hay nhất khi đánh giá giá trị nhân bản và nghệ thuật lớn lao của tác phẩm này từ một học giả Việt Nam. Câu nói này không những bao hàm một am hiểu sâu xa, một nhìn nhận nghệ thuật về Truyện Kiều – một áng văn chương tuyệt tác có một không hai của nền văn học nước ta – mà còn nói lên một tinh thần yêu nước cao độ và rất sâu sắc. Trong câu nói này, ta còn thấy được người phát ngôn đã đánh giá cao và đúng vai trò của văn hoá, nhất là văn học trong sự sống còn của một tộc người sống trong nền văn hoá đó. Ta có thể rút ra nhiều điều bổ ích nữa từ quan điểm này trong thời kì hiện nay lúc mà đang có rất nhiều lời kêu gọi giữ gìn bản sắc dân tộc trước cao trào hội nhập và toàn cầu hoá. Vì sao truyện Kiều còn thì tiếng ta còn? Vì sao tiếng ta còn thì nước ta còn? Đó là những vấn đề rất thời thượng. Nhưng trước hết, học giả này là ai?

Đọc tiếp...

100 NĂM - NAM PHONG TẠP CHÍ VÀ CHỦ BÚT PHẠM QUỲNH (Bài 3)


Lời dẫn của Phạm Tôn: Tiến sĩ Sử học Nguyễn Văn Khoan về Huế, vừa gởi cho chúng tôi bài này. Bài đăng trên Việt Nam Tân báo số 33 ra ngày 2 tháng 5 năm 1945 tức là sau cuộc đảo chính Pháp của Nhật và chính phủ Trần Trọng Kim đã thành lập. Chức vụ cuối cùng Phạm Quỳnh giữ trong triều đình Huế là Thượng Thư Bộ Lại, như chức thủ tướng chính phủ.

Bài này góp thêm một chứng cứ khách quan nữa bác bỏ các luận điệu bịa đặt, vu khống nói rằng Phạm Quỳnh “câu kết với Nhật” hoặc “nằm im chờ Pháp đến giải cứu” hòng phục hồi chức vụ và quyền lợi của các kẻ bán nước như một số người đương thời và hậu thế từng đưa ra để “kết tội ông cho xứng với bản án tử hình mà ông đã phải chịu tháng 9/1945”.


Đọc tiếp...

100 NĂM - NAM PHONG TẠP CHÍ VÀ CHỦ BÚT PHẠM QUỲNH (Bài 2)

Trang bìa ấn bản số 1, năm 1917

Nam Phong tạp chí là một tờ nguyệt san xuất bản tại Việt Nam từ ngày 1 tháng 7 năm 1917 đến tháng 12 năm 1934 thì đình bản, tất cả được 17 năm và 210 số. Tạp chí Nam Phong do Thượng Chi Phạm Quỳnh làm Chủ nhiệm và Chủ bút; Phạm Quỳnh làm Chủ biên phần chữ quốc ngữ và Nguyễn Bá Trác làm Chủ biên phần chữ nho. 

Đọc tiếp...

100 NĂM - NAM PHONG TẠP CHÍ VÀ CHỦ BÚT PHẠM QUỲNH (Bài 1)

Phạm Quỳnh trong biệt thự Hoa Đường bên sông An Cựu, Huế năm 1945.

Nam Phong tạp chí là một tờ nguyệt san xuất bản tại Việt Nam từ ngày 1 tháng 7 năm 1917 đến tháng 12 năm 1934 thì đình bản, tất cả được 17 năm và 210 số. Tạp chí Nam Phong do Thượng Chi Phạm Quỳnh làm Chủ nhiệm và Chủ bút; Phạm Quỳnh làm Chủ biên phần chữ quốc ngữ và Nguyễn Bá Trác làm Chủ biên phần chữ nho. 

Đọc tiếp...

Thứ Sáu, 24 tháng 1, 2014

14h HÔM NAY: GIỚI THIỆU SÁCH "PHẠM QUỲNH - TUYỂN TẬP DU KÝ"

Giới thiệu sách “Phạm Quỳnh – Tuyển tập du ký”

Thời gian: 14:00 – 16 :30, thứ Sáu, ngày 24 tháng 1 năm 2014
Địa điểm: Hội trường tấng 3, Liên hiệp các hội Khoa học kĩ thuật Việt Nam,
53 Nguyễn Du, Hà Nội

Công trình Phạm Quỳnh – Tuyển tập du ký sưu tập các bài viết của học giả Phạm Quỳnh thuộc phạm vi thể tài du ký... Giới hạn phạm vi sưu tập, tuyển chọn là các bài viết của Phạm Quỳnh trên Nam phong Tạp chí qua suốt 17 năm tồn tại (1917 – 1934)...

Học giả Phạm Quỳnh (30.1.1893 – 7.IX.1945), còn có các bút danh Thượng Chi, Hoa Đường, Hồng Nhân; sinh tại Hà Nội; quê quán ở làng Lương Ngọc, tổng Ngọc Cục, phủ Bình Giang (nay thuộc xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Tên tuổi nhà văn hóa Phạm Quỳnh đã được khẳng định trong nhiều bộ từ điển danh nhân vân hóa, từ điển văn học, công trình nghiên cứu, chuyên khảo, luận văn; đặc biệt từ giai đoạn Đổi mới (1986) đến nay, nhiều tác phẩm quan trọng của ông đã lần lượt được sưu tập và công bố trở lại: Mười ngày ở Huế (2001), Luận giải văn học và triết học (2003), Pháp du hành trình nhật ký (2004), Du ký Việt Nam – Tạp chí Nam phong (1917 – 1934), ba tập (2007), Thượng Chi văn tập (2007), Phạm Quỳnh – Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp (2007), Hoa Đường tùy bút và 51 bản dịch thơ Đỗ Phủ (2011), v.v...

Trong quá trình thực hiện công trình sưu tập, biên soạn Phạm Quỳnh – Tuyển tập du ký, tác giả chọn in 7 tác phẩm tiêu biểu và sắp xếp các mục bài theo trật tự thời gian (Mười ngày ở Huế - Một tháng ở Nam Kỳ - Trảy chùa Hương – Pháp du hành trình nhật ký – Thuật chuyện du lịch ở Paris – Chơi Lạng Sơn, Cao Bằng – Du lịch xứ Lào), còn lại một số tác phẩm khác nằm ở lằn ranh có sự giao thoa với thể tài du ký (Cùng các phái viên Nam Kỳ số 32, tháng 2-1920; Tổng thuật về phái bộ Bắc Kỳ đi quan sát đường xe lửa Vinh – Đông Hà số 56, tháng 2-1992; Ngự giá Âu du tổng thuật, số 62, tháng 8-1992; Cuộc đấu xảo mỹ thuật của Hội Khai Trí, tháng 12-1924, Ngự giá Bắc Hành số 178, tháng 11-1932; Ngự giá Nam tuần, số 180, tháng 1-1933...), sẽ đợi thẩm định và bổ sung trong một dịp khác. Về cơ bản, các tác phẩm đều căn cứ theo nguyên bản đã in trên Nam phong Tạp chí (1917-1934).
Đọc tiếp...