Hiển thị các bài đăng có nhãn Nghiên cứu lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nghiên cứu lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 15 tháng 9, 2022

TRẦN HƯNG ĐẠO VÀ TRẦN ÍCH TẮC - HAI CUỘC ĐỜI TRÁI NGƯỢC!

Đức Thánh Trần - Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Tượng thờ.
 .
Trần Hưng Đạo và Trần Ích Tắc 
– Hai cuộc đời trái ngược!

Hoa Anh Đào

Có lẽ nhiều người sẽ cười chê khi tôi viết bài này để so sánh 2 nhân vật lịch sử trái ngược nhau. Cùng sống trong một thời đại, cùng là dòng dõi nhà Trần, nhưng hai con người này lại chọn hai hướng đi khác nhau. Để rồi, Trần Hưng Đạo trở thành một trong những nhân vật lịch sử kiệt xuất nhất trong lịch sử nước ta, nhân dân ta ngưỡng mộ là “Đức Thánh Trần” đời đời thờ phụng, được thế giới vinh danh là một trong 10 vị tướng xuất sắc nhất mọi thời đại. Trong khi, Trần Ích Tắc trở thành nhân vật Việt gian nổi tiếng nhất trong lịch sử dân tộc, bị người đời cười chê và phải sống tha hương trên đất Trung Quốc trong suốt quãng đời còn lại, bị chính họ Trần mỉa mai với cái tên “Ả Trần” ví hèn nhác, rụt rè như đàn bà.

Thứ Ba, 5 tháng 4, 2022

NGUỒN GỐC HAI CHỮ "VĂN HIẾN" TRONG BÀI "BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO"


Chung quanh hai chữ “Văn Hiến”
trong bài “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi:
Ai Đã Gọi Việt Nam Là Một Nước Văn Hiến?


Phạm Cao Dương

Văn hiến chi bang 

Câu văn “Duy ngã Đại Việt chi quốc thực vi văn hiến chi bang” mà học giả Trần Trọng Kim, trong Việt Nam Sử Lược dịch là: “Như nước Việt ta từ trước vốn xưng văn hiến đã lâu là một câu văn không một người Việt Nam gọi là có học nào không một lần có dịp được đọc và ghi nhớ. Câu này nằm ngay trong phần đầu của bài Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi, vị đệ nhất công thần triều Lê hồi đầu thế kỷ XV, thời dân tộc ta mới đánh đuổi quân Minh ra khỏi bời cõi, giành lại nền độc lập cho nước nhà.

Thứ Bảy, 29 tháng 2, 2020

Khảo cứu: VỀ TÊN CHỒNG BÀ TRƯNG TRẮC

Về tên chồng bà Trưng Trắc 

Vũ Ngọc Đình


Theo bộ Đại Việt sử ký toàn thư (phần “Ngoại kỷ” quyển 3 tờ 2a), được bộ Việt Sử Thông giám Cương mục dựa vào đó chép lại (phần “Tiền biên”, quyển 2 tờ 10), thì chồng bà Trưng tên là Thi Sách. Sau đây là lời của Toàn thư “… tên húy là Trắc, họ Trưng. Nguyên là họ Lạc, con gái của Lạc tướng, huyện Mê Linh, Phong Châu, vợ của Thi Sách ở huyện Châu Diên”.

Thứ Năm, 28 tháng 11, 2019

GS. Hà Văn Tấn: LỊCH SỬ, SỰ THẬT VÀ SỬ HỌC

Lịch sử, sự thật và sử học 

GS. Hà Văn Tấn

“Ai ai đều đã bằng câu hết 
nước chẳng còn có Sử Ngư” 

Đó là hai câu thơ trong bài thơ cuối cùng của mười bốn bài “mạn thuật” mà Nguyễn Trãi đã để lại cho chúng ta. Thật là cay đắng khi mà mọi người uốn cong như lưỡi câu, và chẳng còn ai nói lên sự thật nữa, chẳng còn ai như Sử Ngư nữa. Sử Ngư là một chép sử nước Vệ thời Xuân Thu, nổi tiếng về thẳng thắn và trung thực. Khổng Tử đã từng khen: “trực tai Sử Ngư” (Sử Ngư thẳng thay).

Cho đến hôm nay, đọc câu thơ Nguyễn Trãi chúng ta vẫn như tê tái với nổi đau của ông, làm sao có thể sống trong xã hội mà mọi sự thật đều bị che đậy và xuyên tạc. Trong những thời kỳ như vậy, người chép sử, nhà sử học, những người có nhiệm vụ nói lên sự thật, không biết bị dằn vặt như thế nào? Ngày nay chúng ta đang sống trong một giai đoạn cần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật đáp ứng yêu cầu của nhân dân của đất nước. Đã đến lúc những người chép sử, nhà sử học phải tự hỏi rằng “sử bút” của mình có thật nghiêm chưa, đã viết đúng sự thật lịch sử hay chưa?

Thứ Hai, 19 tháng 8, 2019

TƯ TƯỞNG LẬP HIẾN Ở VN TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG 8 - 1945


Tư tưởng lập hiến ở Việt Nam
trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 


PGS.TS. Thái Vĩnh Thắng
Đại học Luật Hà Nội


Lịch sử lập hiến Việt Nam bắt đầu từ năm 1946 khi bản Hiến pháp đầu tiên được Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa thông qua. Tuy nhiên, tư tưởng lập hiến đã xuất hiện ở Việt Nam trước đó khoảng gần một thế kỷ, sau khi bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776, Hiến pháp nước Mỹ năm 1787 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền nước Pháp năm 1789 ra đời, đặc biệt vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX khi những luồng gió mới của chính sách Duy tân của Minh Trị Thiên hoàng ở Nhật Bản và Cách mạng Trung Hoa năm 1911 thổi vào Việt Nam. Tư tưởng lập hiến Việt Nam đã xuất hiện trong giới trí thức Việt Nam mà tiêu biểu là Nguyễn Trường Tộ, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Bùi Quang Chiêu, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, đặc biệt là tư tưởng lập hiến của nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc.

Thứ Tư, 30 tháng 5, 2018

CHO THUÊ ĐẤT ĐẶC KHU 99 NĂM !


Tranh của Họa sĩ Tran Nhuong.

Cho thuê đất đặc khu 99 năm!



Hoa Anh Đào

Đăng trên Nghiên cứu lịch sử
30-5-2018

Suy nghĩ của chúng tôi về đặc khu. Mong được lan tỏa. Từng tiếng nói góp thành sức mạnh.

99 năm không phải là thời gian quá dài của một dân tộc, đặc biệt là đối với nước ta. Dân tộc có khoảng 50 vạn năm lịch sử. Tổ tiên của chúng ta đã có cuộc sống nguyên thủy hàng chục vạn năm trên vùng đất này. Việt Nam là chiếc cầu nối giữa châu Á lục địa và châu Á hải đảo.

Chủ Nhật, 6 tháng 8, 2017

BÀN VỀ NGUỒN GỐC CỦA NHÀ TRẦN

Bàn về nguồn gốc của Nhà Trần 

Đặng Thanh Bình

Trong bài Trần triều Hoằng Nghị Đại vương và những tồn nghi ? của tác giả Đặng Hùng trên tạp chí xưa và nay viết: “Năm 1995, Viện Sử học Việt Nam và Sở Văn hóa Thông tin Thái Bình phối hợp tổ chức hội thảo: “Trần Thủ Độ con người thời Trần” tại Thái Bình. Trong hội thảo, cụ Dương Quảng Châu qua bài viết: “Trần Thủ Độ với Thái Bình” lần đầu tiên “công bố” thân sinh của Trần Thủ Độ là Trần Hoằng Nghị Đại vương. Tư liệu của cụ Châu đưa ra không dựa vào các cơ sở khoa học chính sử mà cơ bản là căn cứ vào các tài liệu điền dã, khảo sát các địa phương trong tỉnh Thái Bình và tỉnh bạn (…) Chỉ cần đọc kỹ hai bài viết của cùng tác giả Dương Quảng Châu ở hai sách (in cách nhau 9 năm) chúng ta đã thấy nảy sinh rất nhiều mâu thuẫn và sự khác biệt rất rõ ràng về bố mẹ, anh em của Trần Hoằng Nghị và Trần Thủ Độ: 

Thứ Bảy, 1 tháng 7, 2017

100 NĂM - NAM PHONG TẠP CHÍ VÀ CHỦ BÚT PHẠM QUỲNH (Bài 4)

TƯỞNG NHỚ NHÀ VĂN HÓA PHẠM QUỲNH, 70 NĂM NGÀY MẤT
Nhà văn hoá Phạm Quỳnh

Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
Phạm Quỳnh (1892 – 1945)
“Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn.”
Đó là câu nói hàm súc và hay nhất khi đánh giá giá trị nhân bản và nghệ thuật lớn lao của tác phẩm này từ một học giả Việt Nam. Câu nói này không những bao hàm một am hiểu sâu xa, một nhìn nhận nghệ thuật về Truyện Kiều – một áng văn chương tuyệt tác có một không hai của nền văn học nước ta – mà còn nói lên một tinh thần yêu nước cao độ và rất sâu sắc. Trong câu nói này, ta còn thấy được người phát ngôn đã đánh giá cao và đúng vai trò của văn hoá, nhất là văn học trong sự sống còn của một tộc người sống trong nền văn hoá đó. Ta có thể rút ra nhiều điều bổ ích nữa từ quan điểm này trong thời kì hiện nay lúc mà đang có rất nhiều lời kêu gọi giữ gìn bản sắc dân tộc trước cao trào hội nhập và toàn cầu hoá. Vì sao truyện Kiều còn thì tiếng ta còn? Vì sao tiếng ta còn thì nước ta còn? Đó là những vấn đề rất thời thượng. Nhưng trước hết, học giả này là ai?