Hiển thị các bài đăng có nhãn Phan Bội Châu. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phan Bội Châu. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 19 tháng 8, 2019

TƯ TƯỞNG LẬP HIẾN Ở VN TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG 8 - 1945


Tư tưởng lập hiến ở Việt Nam
trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 


PGS.TS. Thái Vĩnh Thắng
Đại học Luật Hà Nội


Lịch sử lập hiến Việt Nam bắt đầu từ năm 1946 khi bản Hiến pháp đầu tiên được Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa thông qua. Tuy nhiên, tư tưởng lập hiến đã xuất hiện ở Việt Nam trước đó khoảng gần một thế kỷ, sau khi bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776, Hiến pháp nước Mỹ năm 1787 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền nước Pháp năm 1789 ra đời, đặc biệt vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX khi những luồng gió mới của chính sách Duy tân của Minh Trị Thiên hoàng ở Nhật Bản và Cách mạng Trung Hoa năm 1911 thổi vào Việt Nam. Tư tưởng lập hiến Việt Nam đã xuất hiện trong giới trí thức Việt Nam mà tiêu biểu là Nguyễn Trường Tộ, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Bùi Quang Chiêu, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, đặc biệt là tư tưởng lập hiến của nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc.

Chủ Nhật, 4 tháng 8, 2019

CUỐC XE NĂM 2019 Ở VN VÀ CUỐC XE Ở TOKYO NĂM 1905



MỘT NGƯỜI CYCLO Ở TPHCM NĂM 2019.
MỘT NGƯỜI PHU XE NHẬT BẢN Ở TOKYO NĂM 1905. 

Phan Bội Châu kể: 

"Cuối năm 1905, Phan Bội Châu và Tăng Bạt Hổ dành dụm được vài đồng bạc làm hành phí để lên Tokyo tìm cho được anh học sinh Trung Quốc, quê Vân Nam có tên Ân Thừa Hiến. Xuống khỏi xe lửa, 2 người gọi một phu xe và đưa danh thiếp “Ân Thừa Hiến” ra. Người phu xe này kéo xe chở Phan Bội Châu và Tăng Bạt Hổ đến một khách sạn tìm người nhưng đến nơi thì người đó đã chuyển chỗ, không để lại địa chỉ, nhưng anh phu xe bảo cứ đứng đợi để anh ta đi tìm người đó giúp. Sau ba giờ anh ta đã tìm thấy nơi ở mới của người đó và chở 2 ông đến tận nơi để gặp người cần gặp. Phan Bội Châu đưa một đồng bạc trả công cho người phu xe. Nhưng anh ta từ chối, chỉ lấy hai mươi lăm xu, và nói: "Theo giá cả của Bộ Nội vụ định, giá xe từ chỗ kia đến đây chỉ hai mươi lăm xu, tôi chỉ lấy đúng như vậy. Vả lại, các ngài vì mến mộ nền văn minh Nhật Bản mà qua đây, chúng tôi rất hoan nghênh, chứ có phải vì tiền mà tận tụy với các ngài đâu". 

Thứ Hai, 23 tháng 2, 2015

Đào Tiến Thi: KỶ NIỆM 110 NĂM PHONG TRÀO ĐÔNG DU (1905 - 2015)

 
 Một số học sinh Đông Du
Kỷ niệm 110 năm phong trào Đông du (1905 – 2015)
CHÂN DUNG LẪM LIỆT VỀ NGƯỜI CHÍ SỸ ĐÔNG DU
QUA “XUẤT DƯƠNG LƯU BIỆT”


Đào Tiến Thi
Phong trào Đông du (1905 – 1908) là một phong trào cứu nước lớn mang màu sắc duy tân, một phong trào vô tiền khoáng hậu, không những đối với Việt Nam mà còn cả với phong trào giải phóng dân tộc trong khu vực. Vì ta biết rằng cùng thời gian ấy, bộ phận trí thức tiên phong ở các nước trong khu vực này, kể cả Ấn Độ là một nước lớn, kể cả Thái Lan là nước đã tự mình biết duy tân trước đó, còn giữ được độc lập, thì đều ít nhiều tìm sang Nhật Bản học tập, coi Nhật Bản như một gương sáng ở Á châu, nhưng không một nước nào có một phong trào rầm rộ như Việt Nam (lúc đông nhất tới 200 học sinh). Đó là sức trỗi dậy phi thường của dân tộc ta, trong đó phải kể đến vai trò của Phan Bội Châu, nhà cách mạng vĩ đại, nhà văn hoá lỗi lạc, nhà thơ kiệt xuất.

Xuất dương lưu biệt” là một bài thơ đánh dấu ngày lên đường, cũng là bắt đầu một thời kỳ bôn ba hải ngoại, dấn thân quên mình vì nước của nhà chí sỹ cách mạng này. 

Thứ Hai, 19 tháng 1, 2015

14h HÔM NAY: Tọa đàm PHAN BỘI CHÂU VÀ PHONG TRÀO ĐÔNG DU


Tọa đàm
PHAN BỘI CHÂU VÀ PHONG TRÀO ĐÔNG DU
(Nhân dịp kỷ niệm 110 năm phong trào Đông Du)
 
14:00, thứ Hai, ngày 19/1/ 2015, 
Hội trường L’Espace, 24 Tràng Tiền, Hà Nội


Xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX có một sự chuyển biến mang tính bước ngoặt lịch sử: trước cuộc "mưa Âu gió Mỹ", trước nguy cơ tồn vong của dân tộc, những trí thức tiến bộ của Việt Nam thời bấy giờ nhận thấy không còn con đường nào khác là phải duy tân đất nước. Tháng 5-1904, chí sỹ Phan Bội Châu và một số đồng chí của mình đã tuyên bố thành lập Duy tân Hội. Tôn chỉ của Hội là "khôi phục nước Việt Nam, lập nên một chính phủ độc lập". Họ nhìn thấy Nhật Bản, một nước "đồng văn, đồng chủng, đồng châu” của Việt Nam đang trên đà cường thịnh, Hội liền cử Phan Bội Châu lên đường sang Nhật, nhờ chính phủ Nhật giúp đỡ Việt Nam đánh Pháp. Lúc Phan Bội Châu đến Nhật cũng là lúc chiến tranh Nhật – Nga kết thúc với thắng lợi tuyệt đối thuộc về Nhật. Điều đó càng làm nức lòng các chí sỹ Việt Nam.

Chủ Nhật, 4 tháng 12, 2011

LỜI CHIÊU TUYẾT CHO CỤ PHAN BỘI CHÂU - Phần 3

Phan Bội Châu (1867 - 1940)

LỜI CHIÊU TUYẾT CHO CỤ PHAN BỘI CHÂU
Bài 3: CỤ PHAN BỘI CHÂU CHỐNG CỘNG?
Đào Tiến Thi

Xin trích lại lời ông Hoàng Hữu Phước (HHP) trên trang mạng của ông ngày 13-2-2011:
“Việt Nam hoàn toàn khác: tất cả các phe nhóm và đảng phái chính trị đều hoặc làm tay sai cho Pháp hay Nhật hay Hoa hay Mỹ, hoặc tự bươn chải chỉ biết dùng nước mắt bạc nhược cố tìm “đường cứu nước” (như Phan Bội Châu khóc lóc với Lương Khải Siêu khi nhờ Lương Khải Siêu giới thiệu với Nhật xin giúp kéo quân sang Việt Nam đánh Pháp, mà không biết mình rất có thể đã “cõng rắn cắn gà nhà”, “rước voi về dày mả tổ” (riêng chỗ này chúng tôi xin để nguyên chữ sai chính tả trong nguyên bản của tác giả – ĐTT), mở đường cho sự quan tâm của quân phiệt Nhật tàn bạo đánh chiếm và giết chết nhiều triệu người Việt Nam sau này, và phải nhờ Lương Khải Siêu ban phát cho lời khuyên can mới hiểu ra sự nguy hiểm của lời yêu cầu Nhật đem quân đến Việt Nam giúp đánh Pháp), và tất cả đều chống cộng. Chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam đánh thắng tất cả (chúng tôi nhấn mạnh – ĐTT), tạo dựng nên đất nước Việt Nam thống nhất”.
 (http://www.emotino.com/bai-viet/18997/da-dang)
Ở hai bài trước chúng tôi đã phân tích hai ý đầu: quan hệ của Phan Bội Châu với Lương Khải Siêu và với các chính khách Nhật Bản để bác bỏ những lời xuyên tạc và thóa mạ nhà chí sỹ yêu nước lỗi lạc của dân tộc. Nay trước khi nói sang ý thứ ba, xin độc giả đọc lại đoạn văn trên của ông HHP, để thấy rõ ràng ông HHP gộp cả cụ Phan Bội Châu vào số “tất cả các phe nhóm và đảng phái chính trị…” sau khi bêu xấu cụ Phan về việc “dùng nước mắt bạc nhược cố tìm đường cứu nước”, vô tình “cõng rắn cắn gà nhà”, “rước voi về giày mả tổ”, ông hạ tội thứ ba, rằng cụ Phan, cũng như tất cả các cả các phe nhóm và đảng phái chính trị, “tất cả đều chống Cộng”.
Cái “tội” thứ ba này của cụ Phan chắc mọi người không dễ tin như hai cái đầu nhưng cũng dễ nghĩ không đầy đủ về cụ Phan, cho nên tôi xin cung cấp và phân tích một ít tư liệu lịch sử dưới đây.
Như chúng ta biết, sau khi Duy Tân Hội và Đông du bị vỡ, các lưu học sinh Việt Nam bị trục xuất khỏi Nhật Bản, cụ Phan Bội Châu sang nương náu ở Thái Lan một thời gian để tìm phương hướng cứu nước mới. Thì chẳng bao lâu, Trung Quốc nổ ra cách mạng Tân Hợi, nhà Thanh bị lật đổ, chính phủ Trung Hoa Dân quốc được thành lập (10-1911), cụ Phan và các đồng chí của mình trở lại Trung Quốc lập tổ chức cách mạng mới là Việt Nam Quang phục Hội vào đầu năm 1912. Với tổ chức này, Phan bỏ hẳn tư tưởng tôn quân để chuyển sang tư tưởng cộng hòa dân quốc (dân chủ tư sản). Tuy nhiên công việc vừa khởi sự thì cụ Phan Bội Châu đã bị chính quyền Quảng Đông theo lệnh của thực dân Pháp bắt và sau đó giam cầm suốt 4 năm (1913 – 1917). Năm 1918, trong một tình hình mới, Phan Bội Châu chủ trương “Pháp – Việt đề huề” (đã nói ở bài 2 – ĐTT) nhưng cũng không kết quả, vì thực dân Pháp đặt ra những yêu cầu bất bình đẳng, không thể chấp nhận được.
Trong khoảng thời gian 1919 – 1923, thời gian mà cụ Phan gọi là “thường lúc ngồi buồn vô liêu thì lại chạy rông một độ”, cụ bắt đầu có những tiếp xúc với người Nga. Cụ kể trong Phan Bội Châu niên biểu:  
“Năm Canh Thân (1920), tháng mười một, tôi nghe được người của Đảng Xã hội Cộng sản nước Hồng Nga nhóm họp ở Bắc Kinh khá nhiều, mà đại bản doanh của họ chính là nhà Bắc Kinh đại học. Tôi vì tính sẵn ham lạ mà nghiên cứu chân lý của đảng cộng sản, nhưng không biết lấy gì mà tự giới thiệu với đảng họ, mới đem sách Nga La Tư chân tướng điều tra ký của người Nhật Bản là Bố Thi Di Trị (Fuse Tatsuji) làm ra, tráo đi lật lại, tìm ngầm ý chỉ dịch ra thành sách Hán văn, cộng trên dưới hai mươi bản, chủ nghĩa của Chính phủ Lao nông với chế độ của họ, diễn dịch cực kĩ. Tôi làm xong sách, cắp đi Bắc Kinh. Tới nơi thì vào nhà Bắc Kinh đại học, thăm Thái Nguyên Bồi tiên sinh. Thái xem bản sách của tôi cũng tương đắc với tôi lắm. Thái mới giới thiệu với tôi hai người Nga, một người Lao nông Nga La Tư du Hoa đoàn đoàn trưởng (tên chữ Nga tôi không nhớ được[1]), một người là Hán văn tham tán Lạp tiên sinh[2], là thuộc viên của đại sứ Gia Lạp Hãn[3]. Lần này là lần thứ nhất mà tôi trực tiếp kết giao với người Nga. Tôi có hỏi Lạp tiên sinh rằng: “Người nước tôi cũng muốn đi du học quý quốc, nhờ tiên sinh chỉ vẽ đường lối cho”. Lạp nói rằng:
“Chính phủ Lao nông đối với đồng bào thế giới ở nước Nga rất là hoan nghênh, người Việt Nam nay du học lại tiện lợi lắm. Do Bắc Kinh đến Hải Sâm Uy (Vladivostok), đường thủy, đường bộ thông được cả. Do Hải Sâm Uy đến Xích Tháp (tức Chita, một địa danh ở Viễn Đông nước Nga) có đường sắt vào Tây Bá Lợi Á (Sibir), đi thấu vào được Mạc Tư Khoa (Moskva), kể hành trình chỉ có 10 ngày mà thôi. Học sinh tới Nga tất trước phải đến Bắc Kinh, có đại sứ Lao nông ở đó, vào xin lĩnh chứng thư và giấy giới thiệu. Được chứng thư của đại sứ thì từ Xích Tháp đến Mạc Tư Khoa, các tổn phí tiền xe và thực dụng thảy có chính phủ Lao nông ưu đãi cho. Kể từ Việt Nam đến Nga, nhu phí chỉ trong 200 đồng, chắc dễ biện lắm. Nhưng du học sinh trước khi vào học, tất phải quyết tâm thừa nhận những điều kiện như dưới đây:
1. Tín ngưỡng chủ nghĩa cộng sản.
2. Học thành rồi về nước mình phải gánh lấy những việc tuyên truyền của chủ nghĩa Lao nông.
3. Học thành rồi về trong nước mình phải gánh làm những sự nghiệp cách mệnh.
Còn như phí tổn trong khi tại học và khi về nước, nhất thiết do chính phủ Lao nông đảm nhiệm.
Bấy nhiêu lời như trên là những lời mà lúc ấy tôi hội thoại với ông Lạp. Ông Hoàng Đình Tuân dùng tiếng Anh thông dịch cho tôi.
Còn có một việc khiến cho tôi không quên được là, người Nga khi nói chuyện với tôi, biểu hiện một cách hòa ái thành thực, tư cách rành thấy là không đạm không nồng (nhã nhặn, điềm đạm – chú của người biên soạn). Tôi còn nhớ một câu rằng:
“Chúng tôi được thấy người Việt Nam là bắt đầu từ ông. Ông nếu dùng được chữ Anh làm một bản sách, kể cho hết chân tướng người Pháp ở Việt Nam đem cho chúng tôi, chúng tôi cảm tạ mà không dám quên”.
Khổ vì tôi không làm được sách Anh văn, nên không lấy gì trả lại thịnh ý ấy”.
(Phan Bội Châu toàn tập, tập 6, Thuận Hóa, 2001)
Sau này, còn vài lần Phan Bội Châu nhắc đến người Nga với sự thiện cảm. Khi kể về liệt sỹ Phạm Hồng Thái và các đồng chí của mình chế tạc đạn để ám sát Toàn quyền Merlin, cụ cũng nhắc đến một người Nga như sau:
“May lúc đó có người nước Nga là nhà hóa học đương làm giáo viên ở trường Hoàng Phố Quân quan Hiệu. Đảng nhân ta học chế tạo tân thức chá đạn với người ấy. Người ấy cũng vui lòng giúp cho, chế thành hai trái đạn bằng máy điện, hình đạn vừa bằng trái quýt, nạp vào trong cặp da nhỏ, dạng thức cũng in như cái cặp tay của người Tây hay mang xách”.
(Phan Bội Châu niên biểu, sđd)
Vụ ám sát Toàn quyền Merlin được báo chí Trung Quốc đưa tin và bình luận rất nhiều. Phan Bội Châu thuật lại thái độ của đại sứ Nga: “Đại sứ Nga ở Bắc Kinh Gia Lạp Hãn nghe được tin ấy, đập án nói rằng: “Ngày cuối cùng của nhà tư bản tất có như thế”. (Phan Bội Châu niên biểu, sđd)
Tháng 7-1924, Phan Bội Châu mưu tính cải tổ Việt Nam Quang phục Hội thành Việt Nam Quốc dân Đảng. Vừa khởi thảo xong Việt Nam Quốc dân Đảng chương trìnhViệt Nam Quốc dân Đảng đảng cương thì lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ Moskva về Quảng Đông. Nguyễn Ái Quốc có góp ý[4] cho Chương trình Đảng cương. Cụ kể:
“Sau tôi về Hàng Châu mới được hai tháng, tức là tháng 11 năm Giáp Tý (1924), Nguyễn Ái Quốc tiên sinh từ Mạc Tư Khoa kinh thành nước Nga về đến Quảng Đông, ý ông chưa lấy Chương trình, Đảng cương làm hoàn thiện, ông đã nhiều lần viết giấy cho tôi, bảo phải sửa sang nhuận sắc lần nữa, nhưng chưa được bao lâu thì tôi bị bắt về Hà Nội.
Còn như Chương trìnhĐảng cương của Việt Nam Quốc dân Đảng bây giờ (tức lúc cụ Phan viết hồi ký này, khoảng  1937 – 1940) có thể thay đổi như thế nào tôi không được biết”.
(Phan Bội Châu niên biểu, sđd)
Những gì nói ở trên cho thấy, Phan Bội Châu ngay từ buổi đầu đã có nhiều cảm tình với những người cộng sản Nga và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Ái Quốc cũng có cảm tình với Việt Nam Quốc dân Đảng của Phan Bội Châu. Còn với cá nhân Phan Bội Châu, Nguyễn Ái Quốc đã dành những lời hết sức trân trọng để ca ngợi (xem bài 1 ngày 26-11).  
Phan Bội Châu cũng hết sức ngưỡng mộ những thanh niên các mạng Việt Nam trong các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản sau này, chẳng hạn như Tâm Tâm Xã (tổ chức mà sau này Nguyễn Ái Quốc cải tổ thành Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội), đặc biệt là Phạm Hồng Thái, người trực tiếp ám sát Toàn quyền Merlin. Ngay sau vụ ám sát Merlin, cụ viết Bài tế văn thay anh em truy điệu Phạm liệt sỹ, Phạm liệt sỹ Hồng Thái truyện, Tuyên ngôn thư của Việt Nam Quốc dân Đảng (để nói “cái cớ sở dĩ có Sa Diện chá đạn án”). Và ngay sau 2 tháng Phạm Hồng Thái hy sinh, cụ về Quảng Châu dựng bia mộ, “để cho nhớ dằm mả, chờ ngày sau cải táng”.
Còn tổ chức cộng sản chính thức ra đời năm 1930 –  Đảng Cộng sản Đông dương –  thì lúc đó cụ Phan đã bị giam lỏng ở Huế, những người cộng sản và cụ Phan muốn gặp nhau cũng rất khó khăn.
Nhưng rất nhiều thế hệ thanh niên yêu nước, trong đó có những người sau này tham gia Đảng Cộng Sản Việt Nam, do thơ văn yêu nước của Phan Bội Châu và chính tấm gương xả thân vì đất nước của cụ thôi thúc mà đi làm cách mạng. Trong cuốn Phan Bội Châu, nhà văn Hoài Thanh viết:
“Cả khi Phan sa vào lưới giặc thì sự không may ấy của Phan lại là một dịp may cho phong trào cách mạng, vì nhân đó Phan lại xuất hiện trước nhân dân như là người tiêu biểu nhất hồi bấy giờ cho tinh thần quật cường của dân tộc. Có thể nói Phan đã truyền ngọn lửa yêu nước từ lớp sỹ phu hồi đầu thế kỷ đến một lớp thanh niên mới (ý nói những người cộng sản – ĐTT) rồi đây sẽ theo một con đường khác với con đường của Phan nhưng một phần do chính lòng kính phục đối với Phan mà đi vào cách mạng. Tết 1972, nói chuyện với một số văn nghệ sỹ, đồng chí Lê Duẩn nói: “Lúc còn thanh niên, mỗi lần đọc thơ Phan Bội Châu, tôi thấy trong lòng có cái gì náo nức, như thúc giục lòng mình vùng dậy, thúc giục mình xông lên làm một điều gì đó cho Tổ quốc. Đó thực sự là những bài thơ tác giả viết ra từ bầu nhiệt huyết, bằng tất cả óc tim”.
Ngay giờ đây văn thơ ấy, tấm lòng ấy, cuộc đời ấy, vẫn có sức cổ vũ lớn đối với chúng ta”.
(Hoài Thanh, Phan Bội châu, NXB Văn hóa, 1978)
Chỉ bấy nhiêu thôi ta đủ thấy cụ Phan chỉ có “yêu cộng” và những người cộng sản thời ấy cũng như sau này cũng rất kính yêu cụ Phan.
Thay lời kết
Nhân những lời của ông HHP – những lời xuyên tạc, phỉ báng cụ Phan Bội Châu nói riêng và xuyên tạc, phỉ báng tất cả những trào lưu, tổ chức ngoài Đảng Cộng sản nói chung – chúng tôi muốn nói thêm về các phong trào yêu nước trước 1945 và cả phần nào đó sau 1945 không thuộc ý thức hệ cộng sản, hoàn toàn không đúng như lời kết tội của ông HHP.
Nhìn lại các phong trào cách mạng trong khoảng thời gian từ đầu thế kỷ XX đến Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945, ta thấy đó là một quá trình tiếp nối, kế thừa, thường là giai đoạn thoái trào của trào lưu này thì lại xuất hiện một trào lưu mới, chứ không phải song song tồn tại mà sinh ra chuyện đấu đá tranh giành quyền lãnh đạo. Vả lại cũng rất khó có chuyện tranh quyền lãnh đạo, bởi các phong trào đều xuất phát từ lòng yêu nước, đều có mục tiêu giải phóng dân tộc. Cá biệt chỉ có những năm 1945 – 1946, một bộ phận tàn dư thoái hóa của Việt Nam Quốc dân Đảng chống phá cách mạng, nhưng tàn dư này tan vỡ rất nhanh vì đi ngược lại quyền lợi dân tộc, không được nhân dân ủng hộ.
Nếu để ý những con người cụ thể thì ta thấy vừa có những con người của một phong trào, một thời kỳ, vừa có những con người của nhiều phong trào, nhiều thời kỳ kế tiếp nhau. Thường là vào giai đoạn thoái trào của trào lưu cũ, họ đã kịp thời gia nhập vào trào lưu mới để đi tiếp con đường giải phóng dân tộc.
Ví dụ Lê Văn Huân (1876 – 1929) là một văn thân tham gia chống Pháp từ thời Cần vương của cụ Phan Đình Phùng, sau theo Duy tân Hội và Đông du của Phan Bội Châu, sau nữa lại sáng lập Hội Phục Việt, rồi Phục Việt cải tổ thành Tân Việt Cách mạng Đảng, một tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Đông dương.
Ví dụ, Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu đã từng tham gia phong trào yêu nước trước khi gặp Nguyễn Ái Quốc. Lê Hồng Sơn là người từng theo cụ Phan từ năm 1920 trong Việt Nam Quang phục Hội, sau tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội của Nguyễn Ái Quốc và là người giữ một vai trò quyết định trong việc thành lập An Nam Cộng sản Đảng (1929), tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Đông dương. Hồ Tùng Mậu là cháu Hồ Học Lãm (một chí sỹ Đông du, rồi Việt Nam Quang phục Hội), Hồ Tùng Mậu từng hoạt động ở Xiêm từ 1916, rồi tổ chức Tâm tâm Xã (1923). Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu sau đều là lãnh tụ của Đảng Cộng sản Đông dương.
Nhiều trí thức lớn ban đầu hoạt động trong các tổ chức yêu nước không phải cộng sản. Ví dụ, Đặng Thai Mai, Tôn Quang Phiệt, Đào Duy Anh,… ban đầu sáng lập tổ chức yêu nước Phục Việt, sau đổi là Tân Việt Cách mạng Đảng, rồi cải tổ thành Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, một trong những tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Đông dương. Nhà sử học mác-xít Trần Huy Liệu, người từng vào Huế động viên cụ Phan viết Phan Bội Châu niên biểu, người cùng Cù Huy Cận, Nguyễn Lương Bằng vào Huế tiếp nhận việc thoái vị của Bảo Đại năm 1945, trước khi là đảng viên cộng sản cũng từng tham gia Việt Nam Quốc dân Đảng.
Để có cuộc cách mạng tháng Tám thành công năm 1945, là cả một quá trình chạy tiếp sức đầy gian khổ hy sinh của cả dân tộc và là quá trình dân tộc ta trưởng thành từng bước. Tất cả các phong trào yêu nước trước Đảng Cộng sản dù cuối cùng bị thực dân và tay sai tiêu diệt thì trước hết đều có công vun trồng, chăm lo ngọn lửa yêu nước, để nó không bao giờ lụi tắt. Chỉ riêng mặt này thôi cũng đủ cho mỗi người chúng ta hôm nay phải cúi đầu kính trọng tất cả các thế hệ yêu nước đã đổ mồ hôi, nước mắt và máu thịt vì mảnh đất này. Và quan trọng hơn, các phong trào yêu nước kế tiếp nhau cũng là quá trình trưởng thành của ý thức dân tộc và dân chủ, từ quan niệm đất nước của vua (Sống thờ vua thác cũng thờ vua – Nguyễn Đình Chiểu) đến quan niệm đất nước là của nhân dân (Dân là dân nước, nước là nước dân dân – Phan Bội Châu), đến quan niệm nhân dân là người quyết định vận mệnh đất nước của Hồ Chí Minh: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa (chúng tôi nhấn mạnh – ĐTT). Ngoài ra, mỗi phong trào yêu nước, dù thất bại đều để lại những bài học về phương pháp đấu tranh để những phong trào sau khôn ngoan hơn, đỡ tổn thất hơn. Ví dụ, đầu thế kỷ XX, cụ Phan Bội Châu theo cách bạo động, cụ Phan Chu Trinh theo cách bất bạo động (chỉ đấu tranh chính trị công khai), đến thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản Đông dương lãnh đạo 1930 – 1945, và cả sau này trong kháng chiến chống Mỹ đã kết hợp cả hai cách trên, tùy tình hình cụ thể. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thành công sự nghiệp giải phóng dân tộc do biết kế thừa, rút kinh nghiệm tất cả các phong trào trước đó.
Chỉ cần lược qua mấy điều trên cũng đủ thấy câu nói của ông HHP “Tất cả các phe nhóm và đảng phái chính trị đều hoặc làm tay sai cho Pháp hay Nhật hay Hoa hay Mỹ”“tất cả đều chống cộng” là những nhận định vơ đũa cả nắm, sai sự thực và hỗn xược biết chừng nào.
Trong quá trình làm cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng Cộng sản Đông dương trước kia và Đảng Cộng sản Việt Nam sau này không bao giờ tự mình đối lập với các lực lượng khác không phải là đế quốc, tay sai. Trái lại, Đảng luôn tập hợp các lực lượng yêu nước và dân chủ khác nhau (thường thông qua một tổ chức mặt trận thống nhất, từ Mặt trận Phản đế Đông dương, Mặt trận Dân chủ Đông dương những năm ba mươi, qua Mặt trận Việt Minh những năm bốn mươi, qua Mặt trận Liên Việt trong kháng chiến chống Pháp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (ở miền Bắc), Mặt trận Giải phóng và Liên minh các Lực lượng Dân chủ và Hòa bình Việt Nam (ở miền Nam) trong chống Mỹ),… để cùng kháng chiến kiến quốc. Đảng chưa bao giờ đứng riêng một mình để làm cách mạng!
Kiểu phát ngôn như ông HHP chỉ làm cho nhân dân cả trong và ngoài nước mất lòng tin vào Đảng. Vì theo nhận thức của ông HHP, Đảng đứng riêng một cõi, không chung đội ngũ với ai! Những lời lẽ hùng hổ của ông HHP chẳng những không đề cao Đảng mà còn trái với quan điểm, đường lối của Đảng và làm hại thanh danh của Đảng biết chừng nào.
Đ.T.T


[1] Trưởng đoàn Lao nông Nga du lịch Trung Hoa, có thể là Iunine hay Voatinski (chú thích của người biên soạn).
[2] Có thể là Khodorov, Tham tán Đại sứ quán Nga (chú thích của người biên soạn).
[3] Karakhan, Đại sứ Nga tại Bắc Kinh lúc đó (chú thích của người biên soạn).
[4] Các nhà sử học vẫn chưa rõ Phan Bội Châu có gặp trực tiếp hay chỉ qua thư từ. 

*Bài viết do tác giả gửi trực tiếp cho NXD- Blog. 
Xin chân thành cảm ơn tác giả Đào Tiến Thi.

Thứ Tư, 30 tháng 11, 2011

LỜI CHIÊU TUYẾT CHO CỤ PHAN BỘI CHÂU - Phần 2

Phan Bội Châu (1867 - 1940)
LỜI CHIÊU TUYẾT CHO CỤ PHAN BỘI CHÂU
Bài 2: CÓ PHẢI PHAN BỘI CHÂU VÔ TÌNH ĐÃ “CÕNG RẮN CẮN GÀ NHÀ”, “RƯỚC VOI VỀ GIÀY MẢ TỔ”, MỞ ĐƯỜNG CHO NHẬT ĐÁNH CHIẾM VIỆT NAM SAU NÀY?
Đào Tiến Thi
Ông Hoàng Hữu Phước (HHP) viết về Phan Bội Châu rằng cụ đã “khóc lóc với Lương Khải Siêu khi nhờ Lương Khải Siêu giới thiệu với Nhật xin giúp kéo quân sang Việt Nam đánh Pháp, mà không biết mình rất có thể đã “cõng rắn cắn gà nhà”, “rước voi về giày mả tổ”, mở đường cho sự quan tâm của Quân Phiệt Nhật tàn bạo đánh chiếm và giết chết nhiều triệu người Việt Nam sau này, và phải nhờ Lương Khải Siêu ban phát cho lời khuyên can mới hiểu ra sự nguy hiểm của lời yêu cầu Nhật đem quân đến Việt Nam giúp đánh Pháp”.
Như vậy, tuy ông HHP như là có phần “bào chữa” cho cụ Phan về hành động “cõng rắn cắn gà nhà”, “rước voi về giày mả tổ” bằng các từ ngữ “mà không biết mình rất có thể”, “phải nhờ Lương Khải Siêu … mới hiểu ra” thì dụng ý đoạn trên cũng quá rõ:
Thứ nhất, chỉ cần đặt một cái dấu nối vu vơ giữa việc cụ Phan Bội Châu sang Nhật theo chủ trương cầu viện hồi 1905 với việc quân đội Nhật vào Việt Nam sau này (1940 – 1945) đã đủ tạo mối hoài nghi về về việc làm “có hại” của cụ Phan Bội Châu. Vì cả hai sự việc đều có thật. Và sự thật đó càng dễ bị hiểu lầm khi môn lịch sử trong nhà trường luôn chỉ chú trọng giai đoạn từ 1930 trở đi, còn phần trước 1930 chỉ có sự kiện Nguyễn Ái Quốc đi tìm đường cứu nước là được chú trọng. Thi cử cũng chỉ xoay quanh như thế. Do đó dám chắc là những hoạt động cứu nước của hai cụ Phan hồi đầu thế kỷ XX, nhiều thế hệ học sinh nắm rất lơ mơ.
Thứ hai, theo cách viết của ông HHP, dù Phan Bội Châu sau đó có tỉnh ngộ thì việc cũng đã rồi. Cái việc cầu viện Nhật Bản là hành động đã dẫn đến việc đội quân phát xít Nhật vào Việt Nam sau này (1940 – 1945) và gây ra tội ác “giết chết nhiều triệu người Việt Nam”.
Thật là kinh khủng. Giá ông HHP chửi bậy cụ Phan một câu cũng không sao (con cháu bây giờ thiếu gì kẻ vô lễ với tiền nhân). Nhưng với kiểu ăn nói trên, ông HHP đã cả gan ném bùn vào vong linh cụ Phan!
Chúng tôi xin lược thuật một số sự thực lịch sử dưới đây để độc giả hiểu rõ.
1. Cụ Phan Bội Châu ra đi cứu nước trong bối cảnh “Á Đông mở hội duy tân”
Như ta đều biết, cho đến cuối thế kỷ XIX, hầu hết các nhà nho Việt Nam chỉ biết có sách Thánh hiền, chỉ biết có nước Trung Hoa (và nước Đại Nam của mình)  là “văn minh”, còn lại đều là “dã man”, kể cả người “Tây dương”. Nhưng đến khi đã hoàn toàn thua cuộc (phong trào Cần vương cơ bản bị dập tắt vào mấy năm cuối của thế kỷ XIX), họ mới thực sự thấy sức mạnh của “mưa Âu gió Mỹ” (chữ của Phan Bội Châu và các chí sỹ thời ấy hay dùng). Qua sách báo Tân thư (sách vận động duy tân ở Trung Quốc), giới sỹ phu tiên tiến còn biết cái nước Trung Hoa quân chủ khổng lồ mà bấy lâu ta vẫn tưởng là chúa tể thiên hạ nay chỉ là miếng mồi ngon cho các đế quốc chia nhau. Cuộc sinh tồn của các quốc gia trên hoàn cầu chẳng qua là một cuộc cạnh tranh mạnh được yếu thua, chứ chẳng phải do “mệnh trời” như lời dạy của Thánh hiền. Muốn mạnh thì phải biết duy tân (đổi mới). Các nước Âu – Mỹ chẳng qua biết phế bỏ chế độ chuyên chế mà trở nên hùng mạnh, mà khi hùng mạnh thì ắt phải mở rộng đất sống, phải đi thôn tính nước khác. Thế kỷ XIX, các nước Âu – Mỹ làm mưa làm gió trên hoàn cầu, nhưng từ cuối thế kỷ XIX, Á châu trỗi dậy. Nhật Bản từ một nước vô danh, nhờ cuộc Duy tân Minh Trị, đã nhanh chóng trở thành một cường quốc, ngang ngửa với Tây Phương trên bàn cờ chính trị thế giới.
Sau mấy năm ra Bắc vào Nam vận động, đầu năm 1904, Phan Bội Châu và các đồng chí của mình đã thành lập Duy tân Hội theo cách mô phỏng các phong trào duy tân ở Trung Quốc, Nhật Bản, do Cường Để, một người trong hoàng tộc làm hội trưởng và nhiều sỹ phu lớn đứng đầu như Nguyễn Hàm, Lê Võ, Đặng Tử Kính, Đặng Thái Thân,…
Ngay trước khi Phan Bội Châu xuất dương lại thêm một sự kiện làm nức lòng giới sỹ phu nước ta. Đó là cuộc chiến Nga – Nhật (1904 – 1905) sắp đi vào hồi kết, trong đó Nhật Bản, một nước Á châu da vàng đã đánh bại Nga, một đế chế da trắng khổng lồ ở Âu châu:
Cờ độc lập đứng đầu phất trước
Nhật Bản kia vốn nước đồng văn
Á Đông mở hội duy tân
Nhật Hoàng là đấng minh quân ai bì.
(Bài Á Tế Á)
Bước chân lên đất Nhật, được tận mắt thấy tai nghe, Phan Bội Châu càng khâm phục Nhật Bản, một nước từ quân chủ lạc hậu, nhờ công cuộc Duy tân mà nay trở nên văn minh, dân khí cường cường thịnh, dân quyền được tôn trọng:
– Kìa xem nước đồng châu Nhật Bản
Tàu với xe đưa đón hành nhân
Đãi nhau tử tế muôn phần
Khi ngồi khi đứng chỗ nằm chỗ ăn
Lúc đau yếu nom thăm đi lại
Lấy đạo người mà đãi giống người…
– Kìa xem Nhật Bản người ta
Vua dân như thể một nhà kính yêu
Chữ bình đẳng đặt đầu chính phủ
Bấy lâu nay dân chủ cộng hòa
Nghĩ như nông nỗi nước ta
Đến giờ mới mất cũng là trời thương…
(Hải ngoại huyết thư, 1906)
(Những điều trên ngày nay chúng ta vẫn phải ngưỡng mộ và học tập chứ không chỉ ở thời các cụ đầu thế kỷ XX còn “ấu trĩ” đâu)
Sơ qua bối cảnh trên để thấy Duy tân Hội và xu hướng “hướng Đông” là một trào lưu mới mẻ, tiến bộ, như là tất yếu của lịch sử Việt Nam lúc đó, chứ không phải do đầu óc bạc nhược và mù quáng của cụ Phan như ông HHP nghĩ. 
2. Phong trào Đông du: Từ chủ trương cầu viện chuyển sang tự lực cánh sinh
Nhờ sự giúp đỡ của Lương Khải Siêu, Phan Bội Châu đã nhanh chóng tiếp xúc với các chính khách Nhật Bản. Hai chính khách Phan gặp đầu tiên là Bá tước Đại Ôi (Okuma Shigenobu), người đã hai lần làm thủ tướng Nhật và lúc ấy vẫn đang là lãnh tụ Đảng Tiến bộ và Tử tước Khuyển Dưỡng Nghị (Inukai Tsuyoshi), một cánh tay mạnh của Đại Ôi, nguyên là Văn bộ đại thần (Bộ trưởng Giáo dục), còn lúc ấy đang làm Tổng lý Đảng Tiến Bộ (về sau ông cũng làm thủ tướng Nhật, 1931 – 1932). Buổi gặp đầu tiên được Phan kể lại là “tân chủ hoan hợp rất mực” – khách và chủ rất vui và hợp nhau (Phan Bội Châu niên biểu, in trong Phan Bội Châu toàn tập, tập 6, Thuận Hóa, 2001).
Trước mục đích cầu viện của Phan, hai chính khách Nhật trả lời rất thẳng thắn như sau:
“Lấy Dân đảng Nhật Bản giúp cho các ngài thì được, nếu lấy binh lực giúp các ngài thì nay là thì giờ chưa tới nơi. Hiện tình thế chiến tranh ở đời bây giờ chẳng phải vấn đề riêng ở Pháp với Nhật, mà là vấn đề Âu – Á đua hơn thua nhau. Nhật Bản muốn giúp cho quý quốc, thì tất phải tuyên chiến với Pháp. Nhật – Pháp tuyên chiến thì chiến cơ động cả hoàn cầu, lấy sức Nhật Bản ngày nay mà tranh với toàn Âu châu, thiệt chưa đủ sức, các ngài có thể ẩn nhẫn được mà chờ cơ hội ngày sau không?”
(Phan Bội Châu niên biểu, sđd)
Tiếp đó, hai vị chính khách Nhật khuyên Phan phải có thực lực trong nước trước, đầu tiên là phải có một chính đảng các mạng, còn họ sẽ giúp đào tạo đảng nhân (cán bộ). Đại Ôi nói:
“Các ngài nếu đem được đảng nhân các ngài ra đây, nước Nhật Bản thu dụng được hết. Hay là các ngài bây giờ ưng ở Nhật Bản, chúng tôi sẽ vì các ngài sắp đặt chỗ ở, lấy một cách ngoại tân ưu đãi các ngài, sinh kế cũng không phải lo gì; chuộng nghĩa hiệp, trọng ái quốc, là tính đặc biệt của người Nhật Bản”.
(Phan Bội Châu niên biểu, tập 6, sđd)
Tuy mục đích cầu viện không đạt được nhưng Phan Bội Châu rất phấn khởi, vì con đường cứu nước đã được mở ra. Ngay sau đó Phan gấp rút về nước vận động Cường Để và các thanh niên ưu tú xuất dương, đồng thời cũng bước đầu chuẩn bị thành lập các hội Nông, Công, Thương, Học để làm nguồn nhân lực và tài chính. Lần về nước thứ nhất chưa đón được Cường Để, và Phan cũng chỉ đem được 3 thanh niên xuất dương, vì “con em nhà giàu một bước chân không dám ra khỏi cửa, mà những người thiếu niên thanh hàn không khác gì trói chân” (không có tiền để đi – ĐTT). Lương Khải Siêu gợi ý Phan làm một bài văn cổ động những người hữu tâm trong nước giúp. Phan liền viết Khuyến quốc dân tu học văn. Bài văn chưa kịp gửi về thì lại được thêm 6 thanh niên Bắc Kỳ sang (trong đó có Nguyễn Hải Thần, có hai anh em Lương Lập Nham (tức Lương Ngọc Quyến, sau này là lãnh tụ của cuộc Binh biến Thái Nguyên – 1916) và Lương Nghị Khanh, con của cụ Lương Văn Can, chí sỹ Đông Kinh nghĩa thục). Thời gian đầu, việc ăn ở cực kỳ khó khăn, vì sự quyên góp trong nước ít ỏi. Đói rét là chuyện thường xuyên, thậm chí có lúc phải đi ăn mày. Cụ Phan kể câu chuyện sau đây trong Phan Bội Châu niên biểu: Lương Lập Nham nhịn đói đi bộ một ngày từ Hoành Tân (Yokohama) đến Đông Kinh, lẻn vào “ngủ nhờ” ở sở cảnh sát. Khi cảnh sát hỏi, ông không biết tiếng liền lấy bút ra để bút đàm, cảnh sát Nhật mới biết ông là người Ấn Độ Chi Na (Việt Nam) bị “lạc đường”, liền cấp cho tiền tàu và tiền ăn vài ngày để ông quay về Hoành Tân. Lương Lập Nham tận dụng những ngày có tiền đó để đi tìm việc làm và tìm những người hào hiệp giúp đỡ và đã thành công.
Đầu năm 1906 Đặng Thái Thân đưa được Cường Để sang Nhật. Cường Để là người hoàng tộc (triều Nguyễn), tổ tiên vốn gắn bó nhiều với dân Nam Kỳ (và đến lúc đó người Nam Kỳ vẫn còn rất “luyến chúa”), cho  nên việc vận động Nam Kỳ, nhất là giới nhân sỹ và điền chủ giàu có được thuận lợi. Tuy vậy việc tận dụng ngọn cờ Cường Để cũng gây cho Phan Bội Châu những rắc rối trong quan hệ với Phan Châu Trinh, vì Phan Châu Trinh luôn luôn kịch kiệt đả phá chế độ quân chủ.
Không chỉ chú ý vào việc du học, Phan Bội Châu còn mở rộng giao du và liên kết đồng chí, ví dụ liên kết với lãnh tụ Hoàng Hoa Thám[1], tiếp xúc với Tôn Trung Sơn để tìm sự hậu thuẫn của cách mạng Trung Quốc, thành lập Hội Đông Á Đồng minh (gồm những người yêu nước Trung Quốc, Triều Tiên, Ấn Độ, Philipine đang lưu vong ở Nhật), thành lập Hội Điền – Quế – Việt liên minh[2].v.v..
Trong thời gian hoạt động của Duy tân và Đông du, ở trong nước xảy ra nhiều vụ đấu tranh chống Pháp (do ảnh hưởng gián tiếp từ các hoạt động của Phan Bội Châu, nhất là do thơ văn đầy nhiệt huyết yêu nước của Phan thôi thúc), lớn nhất là vụ chống sưu thuế ở Trung Kỳ. Thực dân Pháp ra tay khủng bố. Hàng loạt chí sỹ là bạn bè hoặc đồng chí của Phan đã hy sinh (Đặng Thái Thân, Tăng Bạt Hổ,…) hoặc bị tù đày (Phan Châu Trinh, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Đặng Nguyên Cẩn,…). Nghĩa quân Hoàng Hoa Thám bị bao vây, cô lập. Tiền quyên góp từ trong nước ngày càng khó khăn. Và cuối cùng do yêu cầu của Pháp, chính phủ Nhật đã giải tán các học sinh Việt Nam[3]. Phan Bội Châu lánh sang Quảng Châu, Trung Quốc rồi sang Bạn Thầm, Thái Lan, tụ tập số đồng chí còn lại, mặc áo tơi, đội nón lá đi làm ruộng để chuẩn bị một phương án cứu nước mới (Việt Nam Quang Phục Hội, 1912). 
Về thời gian Phan Bội Châu hoạt động ở Nhật, chúng tôi chỉ điểm qua như thế,  không thể thuật chi tiết trong phạm vi một phần của một bài báo, nhưng có lẽ qua đó cũng đủ thấy Phan Bội Châu và các đồng chí của mình đã tự lo toan, nếm mật nằm gai như thế nào. Cái chủ trương cầu viện Nhật Bản mang theo lúc ra đi thực ra đã tiêu tan ngay khi đặt chân lên đất Nhật. Nhưng cụ Phan và các đồng chí của cụ không những không nản chí, mà trái lại đã hoạt động rất tích cực. Bởi vì, khi đi ra ngoài, nhận thức đã thay đổi rất nhiều. Thực sự cụ Phan đã chuyển từ chủ trương cầu viện sang chủ trương tự lực cánh sinh, chứ nếu không thì chắc cụ đã bỏ về sau khi Nhật từ chối viện trợ.  
Sự giúp đỡ của Nhật Bản cho Duy tân Hội của Phan Bội Châu tóm lại chỉ nhận đào tạo giúp cán bộ và ủng hộ về mặt tinh thần. Thời gian cũng rất ngắn ngủi. Hai năm đầu thì học sinh còn rất ít, đến năm thứ ba (2008), vừa lúc số học sinh sang nhiều nhất (200 người) thì tháng 10 năm ấy, chính phủ Nhật đã lệnh trục xuất. Và cũng nên lưu ý điều này: Những nhân vật trọng yếu của Nhật Bản đứng ra giúp phong trào Đông du lúc ấy thực ra không nắm quyền trong chính phủ. Vả lại, có đứng đầu chính phủ đi chăng nữa cũng không dễ gì, theo thể chế của họ. Họ chỉ nhân danh đảng Tiến bộ của mình, còn nếu nhân danh chính phủ thì nước Nhật phải có lý do gây hấn với nước Pháp, điều đó họ chưa đủ sức (xin xem lại lời của Đại Ôi và Khuyển Dưỡng Nghị ở trên). Cho nên dù các ông Đại Ôi và Khuyển Dưỡng Nghị rất có thiện chí, sự giúp đỡ của các ông cũng rất hạn chế. Nghĩa là Phan Bội Châu không phải “nợ” gì người Nhật để đến nỗi sau này phải “cõng rắn cắn gà nhà”, rước voi về giày mả tổ” như Ông HHP tưởng (hay cố tưởng) như vậy.
Sự “dính líu” của Phan Bội Châu với chính phủ Nhật cũng chỉ có thế. Phần hoạt động tiếp sau đó của Phan Bội Châu trong Việt Nam Quang phục Hội chỉ có một chi tiết nhỏ liên quan đến chính phủ Nhật Bản. Năm 1917, vừa mới ra khỏi nhà lao Quảng Đông (4 năm bị giam ở đây), được tin một người Việt Nam ở trong nước mới qua Nhật có đem theo tiền ủng hộ, Phan liền đi Nhật. Ngoài mục đích lấy tiền ủng hộ, Phan muốn thăm dò thái độ của Nhật Bản trong cuộc Thế chiến I, vì nghe tin Nhật sắp có một hiệp ước kín với Đức (Đức là kẻ thù của Pháp trong Thế chiến I nên các lãnh tụ Việt Nam Quang phục Hội muốn lợi dụng, và họ đã liên lạc được với sứ quán Đức ở Truug Quốc). Kết quả thế nào không thấy Phan Bội Châu kể, các nhà sử học cũng không có tư liệu về việc này. Chắc là không đạt được gì, vì ngay cả việc “thông Đức” trên đất Trung Quốc cuối cùng cũng không thành công. Sau đó cụ Phan còn đi Nhật vài lần nữa, nhưng chỉ là những việc ân nghĩa cá nhân. Ví dụ, năm 1918, cụ đến Nhật để dựng bia mộ cho một người Nhật là ân nhân của mình. Những năm 1921 – 1922 cụ qua lại Nhật để thăm Cường Để (đã định cư ở Nhật Bản từ 1915). Cụ đã kể điều này trong Phan Bội Châu niên biểu: “Năm Canh Thân, Tân Dậu (1920 – 1921), luôn vài năm ấy, tôi thường đi lại ở Bắc Kinh, Hàng Châu, Quảng Đông, cũng có khi qua Đông Tam Tỉnh, do Yên Đông đến Triều Tiên qua Nhật Bản, có đôi ba lần đi thăm Kỳ Ngoại Hầu (tức Cường Để – ĐTT). Chẳng qua là du lịch xoàng, thực không quan hệ gì công việc cách mện”. (Phan Bội Châu niên biểu, Sđd)
3. Từ chủ trương “Pháp – Việt đề huề” để chống họa xâm lăng từ Nhật Bản đến chủ trương “văn minh cách mạng”
3.1. Như đã nói trên, Duy tân Hội mới chỉ gây những ảnh hưởng gián tiếp ở trong nước mà thực dân Pháp đã đàn áp dã man. Nhiều đồng chí, bạn bè của Phan Bội Châu bị hy sinh, bị tù đày. Sau này lại gặp Phan Chu Trinh, người trước sau theo chủ trương bất bạo động, luôn phải nghe người bạn đồng chí đáng kính kịch liệt phản đối dùng bạo động, cụ Phan Bội Châu bắt đầu nghĩ lại về phương pháp cách mạng của mình. Lúc thành lập Việt Nam Quang phục Hội (1912), cụ Phan đã phải phân vân về đường lối “kịch liệt bạo động”. Cụ kể trong Phan Bội Châu niên biểu:
“Viết đảng sử đến đây, thiệt là muốn đau, quẹt nước mắt mà viết. Có các điều không nỡ viết, nhưng lại không nỡ không viết. Bởi vì hy sinh mất những người đồng bào có chí khí, tâm huyết để mong cho vận nước nhà được sống lại; nín cái thống khổ của thiểu số mà lo cho đa số, như Liệt Ninh (Lê Nin – ĐTT) tiên sinh đã từng nói”: “Sát kỳ nhứt dĩ sinh kỳ nhị” (giết một mà cứu sống được hai), chúng ta cũng không thể nào tiếc được!
Than ôi, việc đời quá chừng trắc trở, cơ trời quá khó đo lường, chỉ giết oan đồng bào ở trong đám hy sinh mà không kết quả, thật là đại tội cực ác của tôi, mà tôi phải thiên vàn thừa nhận lấy!”.
(Phan Bội Châu toàn tập, tập 6, sđd)
3.2. Sau Thế chiến II, Albert Sarraut sang làm toàn quyền Đông Dương (1919 – 1923). Sarraut thuộc đảng Cấp tiến Pháp, là một đảng khuynh tả. Ông chủ trương làm đúng tinh thần liên hiệp, cho tổ chức lại trường đại học, cho mở mang thêm các trường học các cấp, nới rộng các hội đồng quản trị cho người Việt tham gia. Chính sách cai trị mềm mỏng của ông tạo nên không khí dễ thở phần nào cho dân thuộc địa. Toàn quyền Sarraut cũng cho người gặp Phan Bội Châu. Một số đồng chí của Phan muốn nhân cơ hội này mà tạm “hòa hoãn”. Về phía Phan Bội Châu, cụ cũng đã chuyển hướng phương pháp cách mạng như trên đã nói. Vì vậy năm 1918, cụ viết Pháp  – Việt đề huề luận (khi được in có tiêu đề là Pháp Việt đề huề chính kiến thư, nay in trong Phan Bội Châu toàn tập, tập 5, sđd).
Trong Pháp  – Việt đề huề luận, Phan Bội Châu nêu rõ cái họa Nhật Bản nguy hiểm như thế nào cho cả nước Pháp và nước Nam. Cụ phân tích:
1. Nước Nhật đang ngày càng hùng mạnh và đầy tham vọng. Chứng cớ là Nhật đang gặm dần Trung Hoa, giành cả những phần đất mà liệt cường (cường quốc) đã lấy. Cụ viết:
“Nhật Bản kia là một nhà nham hiểm nhất trong thế giới, cũng là một bác nhanh chân nhất trong phường đi săn. Bắt đầu khi liệt cường đua nhau dúng tay cầu lợi ở Trung Hoa thì Nhật Bản đã vớ ngay được mấy miếng thịt béo là Đài Loan và Nam Mãn, đến nay cả vùng Phúc Kiến và Sơn Đông đã hình như của trong túi người Nhật (...) Cái lòng tham hăng hái muốn vơ vét cả cõi Á châu kia, người Nhật quyết không phút giây nào quên được”.
“Cuộc Âu chiến khởi phát chưa đầy nửa năm mà Thanh Đảo, Nam Dương của Đức đều thấy cờ Nhật phất phới, báo cho chủ cũ cái cảnh tượng ông khách cường ngạnh đã đến. Cái then khóa người Đức ở Trung Hoa đã phải hai tay đệ dâng người Nhật rồi”.
2. Nếu như cuộc thế chiến vừa rồi là “Âu châu chọi với Âu châu” thì cuộc thế chiến sắp tới sẽ là “Á châu chọi với Âu châu”. Á châu chỉ có mình Nhật Bản nhưng các liệt cường Âu châu lại thường chia rẽ nhau, và vì chính sách liên minh tay đôi của Nhật với mỗi liệt cường làm cho họ không thể kiên kết với nhau.
 Khi người Nhật tấn công vào Việt Nam thì người Pháp sẽ thua, bởi vì:
+ Pháp đã kiệt sức trong cuộc Âu chiến vừa qua (thua nước Đức – ĐTT).
+ Quân Pháp ở Việt Nam mỏng, không thể chọi lại quân Nhật. Mạnh như quân Nga ở Liêu Đông 10 năm trước mà còn thua Nhật.
+ Khi Nhật vào, quan lại Việt Nam sẽ mở thành đón giặc, vì bọn này “mang cái  tư cách trâu ngựa, tôi tớ, cứ khỏe là sợ, cứ lợi là theo”.
+ Pháp có Anh là đồng minh nhưng nếu chiến tranh xảy ra thì Anh còn phải lo giữ Ấn Độ, Hương Cảng, Nam Dương (các thuộc địa của Anh lúc đó – ĐTT).
+ Nếu Nhật vào Việt Nam thì quân Điền Việt (Vân Nam, Quảng Đông) cũng nhảy vào trợ chiến cho Nhật, mục đích là để chia phần, nhưng Nhật cũng sẽ đồng ý (giống như Đức lợi dụng đế quốc già nua Thổ Nhĩ Kỳ ở châu Âu). 
Khi Nhật thay chân Pháp thì tình cảnh nước Nam còn còn tệ hại hơn, vì:
+ Người Nhật hung hiểm gấp trăm lần người Pháp. Gương Cao Ly (Triều Tiên), Đài Loan còn đó.
+ Việt Nam không thể giành độc lập được nữa, vì bấy lâu nay nước Pháp ở xa mà ta còn không đánh nổi, huống chi Nhật ở gần, chiến hạm sáng đi tối đến.
+ Nước Nhật đất chật lại xấu, người thì đông, phải cố liều chết tìm đất thực dân, túi tham vơ vét bao nhiêu cũng không đủ, lấy đâu thừa thãi mà còn bố thí cho ta.
Vì những lẽ trên, Phan Bội Châu kêu gọi Pháp – Việt hợp tác để cùng chống  Nhật. Mà nếu hợp tác thì sẽ thắng Nhật.
3.3. Tiếp theo, năm 1921, Phan Bội Châu công bố chủ thuyết về “văn minh cách mạng” trong luận văn Dư cửu niên lai sở trì chi chủ nghĩa, tức Chủ nghĩa mà tôi ôm ấp mấy năm nay (Phan Bội Châu toàn tập, tập 5, sđd).
“Văn minh cách mạng” là đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc bằng con đường bất bạo động, ngược với chủ trương “dã man cách mạng” (bạo động) mà cụ đã theo đuổi bấy lâu. Lý luận của cụ có thể tóm tắt như sau:
1. Làm cho đất nước mỗi ngày một phú (giàu), dũng (mạnh) và mọi người biết hợp quần (đoàn kết) thì tự kẻ thực dân không dám khinh ta nữa, lúc ấy không trao trả độc lập cũng không được. Chứng cớ theo con đường này đã có Ba Lan, trước thuộc Nga và Phi Luật Tân (Philipine), trước thuộc Mỹ, nay đều độc lập.
2. Làm cách mạng như chơi cờ tướng. Nghĩa là cục diện thế giới luôn biến đổi. Các nước đế quốc tuy mạnh nhưng chúng luôn mâu thuẫn, tranh giành nhau. Cho nên điều quan trọng là ta nuôi hạt giống (xây dựng nội lực) để chờ thời; gặp thời cơ, người Pháp sẽ buộc phải trao trả độc lập, nếu không muốn đương đầu với các liệt cường.
3. Làm bạo động cách mạng gây rất nhiều tổn thất, điều Phan Bội Châu không hề muốn.
Trong tác phẩm Y hồn đơn (Bài thuốc chữa hồn), viết đầu những năm hai mươi của thế kỷ XX, cụ Phan hết sức đề cao phương pháp bất bạo động của Gandhy (Ấn Độ). Theo cụ đó là cách “lấy nhu thắng cương”. Mặc dù lúc ấy Gandhy còn đang bị giam, cụ vẫn tin tưởng nhân dân Ấn Độ sẽ giành được thắng lợi[4].
Ở đây, chúng tôi không bàn chuyện đúng sai của chủ trương “Pháp – Việt đề huề” lẫn chủ trương “văn minh cách mạng”. Ở đây, chúng tôi chỉ muốn thêm chứng cớ về việc Phan Bội Châu đã đi rất ra so với chủ trương cầu viện Nhật Bản hồi mới xuất dương (1905). Với các phương pháp giành độc lập nói trên, kể từ sau Thế chiến I trở đi, cụ Phan Bội Châu không những không nghĩ đến sự can thiệp của Nhật Bản mà còn cảnh giác trước họa xâm lăng của đế quốc Nhật Bản (sau này điều đó đã diễn ra đúng như cụ tiên đoán).
Tháng 9-1940, quân Nhật vào Việt Nam (vào từ từ, lấn dần người Pháp, chứ không rầm rộ) thì cụ Phan đã là một người tù giam lỏng từ lâu (1925 – 1940), cụ chỉ còn là “ông già Bến Ngự” 74 tuổi đang nằm trên giường bệnh chờ chết. Có lẽ cụ cũng chẳng biết có sự kiện trên, còn nói gì có thể “cõng” Nhật “rước” Nhật được nữa, thưa ông HHP. Và cụ qua đời ngay sau đó một tháng, ngày 29-10-1940.
Tất cả những gì trình bày ở phần 2 của bài này cho thấy việc người Nhật có mặt ở Việt Nam những năm 1940 – 1945 chẳng liên quan tí gì đến những hoạt động của Phan Bội Châu ở Nhật cũng như sau khi cụ chính thức rời khỏi Nhật (3-1909).
Thế mà ông HHP đã cố tình nhập nhằng chỗ này, hành động đó xin quý vị độc giả tự phán xét.
(Còn nữa)
Đ.T.Th

[1] Mùa thu năm 1906, Phan đóng giả người Hoa để về nước qua đường biên giới Trung Việt. Đây là một cuộc đi đầy mạo hiểm. Bởi vì ngoài phải lọt qua con mắt kiểm soát của người Pháp còn phải chống chọi với với nhiều đội quân thổ phỉ, lục lâm người Hoa quấy nhiễu khắp vùng thượng du Bắc Bộ, thậm chí có những thủ lĩnh làm chủ cả một vùng thay vì người Pháp. Nhưng nhờ quen biết một số quan chức Lưỡng Quảng, Phan được họ giúp đỡ nên đi chót lọt, sau lại còn được một lục lâm đưa đường xuyên sơn vào căn cứ địa Phồn Xương để gặp Hoàng Hoa Thám. Sau này, có lúc Phan Bội Châu mua được 500 cây súng từ Nhật để gửi về cho nghĩa quân Yên Thế nhưng việc không thành.
[2] Hội gồm những học sinh Vân Nam, Quế Châu (Trung Quốc) và Việt Nam đang học ở Nhật. 
[3] Một số vẫn tìm cách ở lại, tự đi làm thuê lấy tiền ăn học, trong đó có hai anh em Lương Lập Nham (Lương Ngọc Quyến), Lương Nghị Khanh.
[4] Điều dự đoán đó rất đúng. Ấn Độ giành độc lập ngày 15 tháng 8 năm 1947.


**Bài viết do tác giả gửi riêng Nguyễn Xuân Diện-Blog. Xin chân thành cảm ơn!


Thứ Bảy, 26 tháng 11, 2011

LỜI CHIÊU TUYẾT CHO CỤ PHAN BỘI CHÂU - Phần 1

Phan Bội Châu (1867 - 1940)
 LỜI CHIÊU TUYẾT CHO CỤ PHAN BỘI CHÂU
(Trước những lời xuyên tạc và thoá mạ Cụ của một vị đại biểu quốc hội)
Đào Tiến Thi

Đang lúc dư luận nóng lên vì những phát biểu hùng hổ của ông Hoàng Hữu Phước (HHP), đại biểu TP. Hồ Chí Minh, trước diễn đàn Quốc hội thì lại được độc giả cung cấp những trích đoạn trong các bài viết khác của ông về các vấn đề của đất nước. Cũng giống như GS. Ngô Đức Thọ, tôi phải kêu lên “kinh khủng quá” khi đọc những dòng dưới đây:
“Việt Nam hoàn toàn khác: tất cả các phe nhóm và đảng phái chính trị đều hoặc làm tay sai cho Pháp hay Nhật hay Hoa hay Mỹ, hoặc tự bươn chải chỉ biết dùng nước mắt bạc nhược cố tìm “đường cứu nước” (như Phan Bội Châu khóc lóc với Lương Khải Siêu [2] (Dấu chú thích này là của ông HHP; ông chú là lấy ở Lời tựa của Lương Khải Siêu in trong Việt Nam Vong Quốc Sử - ĐTT) khi nhờ Lương Khải Siêu giới thiệu với Nhật xin giúp kéo quân sang Việt Nam đánh Pháp, mà không biết mình rất có thể đã “cõng rắn cắn gà nhà”, “rước voi về dày mả tổ”, mở đường cho sự quan tâm của Quân Phiệt Nhật tàn bạo đánh chiếm và giết chết nhiều triệu người Việt Nam sau này, và phải nhờ Lương Khải Siêu ban phát cho lời khuyên can mới hiểu ra sự nguy hiểm của lời yêu cầu Nhật đem quân đến Việt Nam giúp đánh Pháp), và tất cả đều chống Cộng. Chỉ có Đảng Cộng Sản Việt Nam đánh thắng tất cả, tạo dựng nên đất nước Việt Nam thống nhất, nên việc “đòi quyền lợi” hay “đòi quyền tham chính” của tất cả các cá nhân, tất cả các phe nhóm chính trị bên ngoài Đảng Cộng Sản Việt Nam là điều không tưởng, vô duyên, khôi hài và bất công, nếu không muốn nói là hành vi bất lương của kẻ cướp muốn thụ hưởng quyền lực chính trị trong khi đã không có bất kỳ công sức đóng góp nào cho Đảng Cộng Sản Việt Nam, ngoài sự chống phá ngay từ bản chất”.
Như vậy, ông HHP đã coi cụ Phan là người:
1- Chỉ biết dùng nước mắt bạc nhược cố tìm “đường cứu nước” – nguyên văn trong ngoặc kép của ông HHP (như “khóc lóc với Lương Khải Siêu” khi nhờ Lương Khải Siêu giới thiệu với Nhật…
2-Vô tình đã “cõng rắn cắn gà nhà”, “rước voi về dày mả tổ”, mở đường cho Nhật đánh chiếm Việt Nam sau này, và may nhờ Lương Khải Siêu ban phát cho lời khuyên can mới hiểu ra sự nguy hiểm ấy.
3- Phan Bội Châu cũng nằm trong số các tổ chức ngoài Đảng CSVN, “tất cả đều chống cộng”.
Theo địa chỉ, tôi tìm đọc nguyên gốc của bài trên chính website của chủ nhân Hoàng Hữu Phước (http://www.emotino.com/bai-viet/18997/da-dang), và thấy đúng là như vậy. Bài đăng ngày 13-2-2011, tức là trước ngày bầu cử QH khoảng hai tháng, có liên quan trực tiếp đến sinh mệnh chính trị của ông HHP, vì ông là một đại biểu tự ứng cử.
Đọc xong tôi càng bàng hoàng, lại phải thốt lên mấy lần nữa: Trời ơi, chỉ để thuyết phục mọi người “Việt Nam không cần đa đảng” mà ông HHP phải lôi cả cụ Phan Bội Châu ra để “trảm” ư? Cái ghế của ông HHP ở QH đắt đến thế ư? Sau Phan Bội Châu, đến lượt ai bị “trảm” tiếp đây, nếu như ông HHP không chỉ tham vọng là đại biểu QH mà còn muốn leo cao hơn nữa?
Dù biết đây chả chắc đã là nhận thức của ông HHP mà có khi chỉ là một cách “đón gió” của ông thôi, nhưng vì thấy lâu nay ngay trên sách báo phổ thông cũng có một số nhận định chưa chính xác về cụ Phan Bội Châu, và nhận thấy giới trẻ hiện nay có một bộ phận coi khinh lịch sử dân tộc nên cũng dễ tin theo những nhận định băm bổ kiểu như trên, tôi thấy cần viết bài này với mong mỏi cung cấp một ít tư liệu về Phan Bội Châu, để hiểu thêm về con người cụ Phan, nhất là trong mối quan hệ với Lương Khải Siêu, với chính phủ Nhật Bản và với Đảng CSVN, để độc giả xem có đúng như ông HHP nói không.
I- VỀ VIỆC PHAN BỘI CHÂU DÙNG “NƯỚC MẮT BẠC NHƯỢC” ĐỂ CỨU NƯỚC, CHẲNG HẠN NHƯ  “KHÓC LÓC VỚI LƯƠNG KHẢI SIÊU”
1. Cụm từ “đường cứu nước” mà ông HHP dùng để chỉ chỉ hoạt động của cụ Phan được ông để trong ngoặc kép, nghĩa là với hàm nghĩa giễu cợt, chứ không còn là đường cứu nước theo nghĩa đen nữa, đó là một cách sổ toẹt vai trò cứu nước của cụ Phan Bội Châu. Thật chưa ai dám vô lễ như ông HHP trước một bậc tiền nhân đã xả thân vì đất nước như cụ Phan. Ông HHP nên học lại lớp 7 để biết rằng chính lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhiệt liệt ca ngợi cụ Phan, từng gọi cụ Phan là “bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập, được hai mươi triệu người trong vòng nô lệ tôn sùng” (Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu, Ngữ văn 7, tập 2).
2. Chúng tôi xin kể vài sự kiện, chi tiết về Phan Bội Châu trước khi gặp Lương Khải Siêu để thấy bản chất con người Phan Bội Châu có phải là con người “bạc nhược” như ông HHP nói không.
Giai thoại kể, năm lên tám, khi thầy giáo ra vế đối:
Nhật nguyệt hai vầng treo trước mặt
Cậu bé San đã đối lại:
Giang sơn một gánh nặng trên vai
(Hoài Thanh: Phan Bội Châu, NXB Văn hóa, 1978)
Năm 1883, khi Pháp đánh ra Bắc Kỳ, mới 17 tuổi, cậu học trò San đã viết hịch Bình Tây thu Bắc, kêu gọi đánh Tây, thu hồi đất Bắc. Năm 1885, hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, Phan tự mình thành lập đội sỹ tử cần cương 60 người. Chỉ vì chưa có danh lẫn thực lực nên đội nghĩa sỹ nhanh chóng tan vỡ.  
Thời gian trước 1900 là thời gian còn phải “ẩn nhẫn chờ thời”, còn học hành, thi cử để có kiến thức và chút danh phận, và nhất là còn phụng dưỡng cha già đau yếu, thì cái chí cứu nước ở Phan vẫn không dễ che giấu, như bài thơ Chơi xuân tràn đầy khí chất ngang tàng sau đây:
Nước non Hồng Lạc còn đây mãi
Mặt mũi anh hùng há chịu ri
Giang sơn còn tô vẽ mặt nam nhi
Sinh thời thế phải xoay nên thời thế
Phùng xuân hội may ra ừ cũng dễ
Nắm địa đầu vừa một tí con con
Đạp toang hai cánh càn khôn
Đem xuân vẽ lại cho non nước nhà
Hai vai gánh vác sơn hà
Đã chơi chơi nốt ối chà chà xuân.
Năm thi đỗ giải nguyên, cũng là năm cha mất (1900), từ đấy Phan ra Bắc vào Nam tìm bạn đồng tâm, để rồi năm 1904 lập Hội Duy tân và đầu năm 1905, lên đường sang Nhật. Từ đây, con đại bàng thực sự cất cánh. Bài thơ Xuất dương lưu biệt mà theo Hoài Thanh (TL đã dẫn) là bài thơ khẩu chiếm trong tiệc rượu đưa tiễn đó:
Sinh vi nam tử yếu hy kỳ
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di
Ư bách niên trung tu hữu ngã
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy
Giang sơn tử hỹ sinh đồ nhuế
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si
Nguyện trục trường phong Đông Hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
(Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời
Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai
Non sông đã chét sóng thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài
Muốn vượt Biển Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi)
3. Những chính khách Nhật Bản lần đầu tiên gặp mấy chí sỹ Việt Nam do Phan Bội Châu dẫn đầu đã hết sức cảm phục. Nghị sỹ Bạch Nguyên Văn Thái Lang nói:
“Bây giờ gặp các ông tưởng như đọc truyện hào kiệt thời trung cổ; bởi vì người Việt Nam đến đất nước Phù Tang cùng sỹ phu nước tôi trao đổi ý kiến, chính các ông là người đầu tiên”.
Như vậy, chưa cần nói đến hai mươi năm (1905 – 1925) lừng danh hăng hái dấn thân cứu nước, chưa cần kể những vần thơ khi hùng tráng, khi lâm ly mà đến nay vẫn đánh thức mỗi tim Việt Nam yêu nước, chưa kể khí phách khi ra tòa nhận án tử hình, chưa kể ngay thời kỳ cuối đời dù bị giam lỏng mà vẫn giữ trọn tấm lòng son, mà vẫn làm nhiều việc có ích, thì chỉ riêng vài chi tiết “vặt” nói trên, những chi tiết trước khi HHP gọi là “dùng nước mắt bạc nhược”, đã đủ cho ta thấy Phan Bội Châu bậc sỹ phu, bậc hào kiệt đáng để chúng ta muôn đời ngưỡng mộ, thế mà ông HHP lại gán cho cái gọi là “dùng nước mắt bạc nhược” tìm cứu nước thì thật là một sự xuyên tạc quá quắt.
4. Với cách dùng ngôn từ “Phan Bội Châu khóc lóc với Lương Khải Siêu”, ông HHP còn cố tình tạo ra hình ảnh thảm hại của cụ Phan, với mục đích gì thì có lẽ mọi người tự hiểu.
Thực chất việc này như thế nào?
4.1.Chúng ta đều biết Lương Khải Siêu (1873 – 1929) là nhà cách mạng lớn của Trung Quốc cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, là người có ảnh hưởng lớn đối với Phan Bội Châu, là người đã giúp đỡ Phan Bội Châu, khi lần đầu tiên Phan đặt chân đến đất nước Nhật Bản xa xôi, cũng như sau này, khi Phan nhiều lần qua lại, tá túc trên đất nước Trung Hoa. Một người như thế, kể cụ Phan, vì mục đích cứu nước, có phải khóc lóc cũng không có gì xấu, nhưng sự thực cũng không phải cụ Phan khóc để cầu xin Lương điều gì. Hãy đọc những dòng sau đây của chính Lương Khải Siêu khi viết tựa cho Việt Nam vong quốc sử của Phan Bội Châu:
“Gần đây ta gặp một người Việt Nam vong mệnh, thường khi nói chuyện với ta, ông hay giàn giụa nước mắt. Ta biết nếu không tự biết thương mình mà lại thương người khác, thì có khi người lại thương cho số phận của mình đấy.
Ta đọc sách này chẳng những đã thương mà còn sợ nữa”.
(Phan Bội Châu toàn tập, tập 2, NXB Thuận Hóa, 2001)
Như vậy, cụ Phan hay giàn giụa nước mắt khi nói chuyện với Lương Khải Siêu là vì đau xót trước thảm cảnh mất nước của nước của Việt nam, chứ có phải khóc xin Lương cái gì đâu. Mặt khác, đọc sách của Phan, Lương cũng tỉnh ngộ thêm cái thân phận của Trung Hoa, cho nên mới chẳng những đã thương mà còn sợ nữa. Phan khóc cũng còn là chia sẻ nỗi niềm vong quốc cùng người chí sỹ yêu nước của Trung Hoa, người cũng đang tìm đường cứu Trung Hoa lúc đó. Điều này càng rõ khi đọc Lời mở đầu của Phan trong Việt Nam vong quốc sử:
“Không có gì đau bằng người mất nước, cũng không có gì đau bằng người bị mất nước mà bàn việc nước! Tôi muốn viết đoạn sử mất nước này, nhưng đã bao phen lệ cạn huyết khô, mà cơ hồ không viết nổi nữa.
Nay nhân Công chủ Ẩm Băng Thất (tức Lương Khải Siêu – ĐTT) nói: Than ôi, tôi (Lương Khải Siêu – ĐTT) với ông (Phan Bội Châu – ĐTT) thật là đồng bệnh. Những việc làm tàn ác của người Pháp thi hành ở Việt Nam, cả thế giới chưa ai biết đến. Ông hãy nói cho tôi rõ, tôi sẽ vì ông mà truyền bá (…). Hơn nữa, tôi cũng muốn nói riêng với ông một điều: Nước chúng tôi hiện giờ, tình thế không khác gì nằm trên đống củi mà dưới thì lửa đỏ đang bốc cháy, thế mà mọi người vẫn dửng dưng chơi bời, cho là vô sự, nếu có ai nói đến nguy cơ mất nước, cũng làm lơ rồi bỏ qua. Vậy xin ông hãy vì tôi mà kể chuyện nước ông bị mất, may ra có thể làm cho phần đông người nước tôi nghe ra mà giật mình thức tỉnh giấc mê để rồi có ngày thấy lại ánh sáng mặt trời, thì chẳng những người nước tôi được nhờ mà người nước ông cũng được nhờ đó.
Tôi (Phan Bội Châu – ĐTT) nghe nói lấy làm cảm động, gạt nước mắt và viết cuốn Việt Nam vong quốc sử này”.
4.2. Tạm dừng lại để nói về tác dụng cuốn Việt Nam vong quốc sử ở Trung Quốc. Theo GS. Chương Thâu, sách được Lương Khải Siêu cho in vào tháng 6-1905, nhưng sau đó Lương vẫn cho đăng tải trên Tân Dân tùng báo (9-1905), ở mục “Tùng đàm” do chính Lương phụ trách. Đứng ở góc độ kinh tế của người làm xuất bản, chỉ có chuyện in báo xong mới in sách chứ không ai làm ngược như vậy, nhưng chắc là nhận thấy giá trị tuyên truyền cao của cuốn sách nên nhà cách mạng Lương Khải Siêu đã ưu tiên như thế. Khi đăng tải, sách mang tên Ký Việt Nam vong nhân chi ngôn (Chép lời người Việt Nam mất nước) là cũng có dụng ý của nó. Cũng theo Chương Thâu, tính đến năm 1955, sách được in đến 5, 6 lần ở Trung Quốc. “Việt Nam vong quốc sử được xuất bản nhiều lần, chứng tỏ nó có giá trị nhất định. Nó không những là một tài liệu tuyên truyền cách mạng ở Việt Nam, mà còn có ảnh hưởng sâu rộng ở Trung Quốc nữa” (Chương Thâu, Phan Bội Châu toàn tập, tập 2, sđd). Và một gian dài người ta tưởng tác giả của nó là Lương Khải Siêu.
Phan Bội Châu phải cảm ơn Lương Khải Siêu, một “bà đỡ” cho đứa con tinh thần của mình, nhưng giá trị khai dân trí của cuốn sách cho người Trung Quốc thì Lương lại phải cảm ơn Phan.
Phong trào duy tân ở Trung Quốc sớm hơn Việt Nam một chút. Lương Khải Siêu đi trước Phan Bội Châu một chút. Chính Phan Bội Châu trước khi xuất dương đã đọc sách của Lương, rất ngưỡng mộ Lương, nên nếu coi Lương là bậc đàn anh, bậc thầy (về cách mạng dân tộc dân chủ) thì cũng được. Nhưng mặt khác, quan hệ giữa hai người là quan hệ giữa những người đồng chí hướng, cùng hoài bão cứu nước. Ngay khi đến Nhật, Phan đã viết một thư gửi Lương (lúc này, cách mạng dân chủ ở Trung Hoa đang thời thoái trào, Lương đang nương mình ở Nhật Bản), trong đó có câu: “Lạc địa nhất than khốc, tức dữ tương tri; độc thư thập niên nhãn, toại thành thông gia” (Lọt lòng một tiếng khóc, tức đã thành tương tri, đọc sách trong mười năm, thành ra tình nghĩa thông gia). Sau này, cụ kể lại trong Phan Bội Châu Niên biểu: “Lương được thư, cảm động lắm, tự động ra mời tôi vào”. Thế mà ông HHP lại biến Lương Khải Siêu thành một nhân vật kẻ cả giống hệt những nhân vật thuộc phái diều hâu ở Bắc Kinh hiện nay, chỉ nhìn người Việt Nam bằng nửa con mắt: “phải nhờ Lương Khải Siêu ban phát (ĐTT nhấn mạnh) cho lời khuyên can mới hiểu ra sự nguy hiểm…”. Phải chăng  kẻ quen cúi lạy, quen nhận ban phát nên suy bụng ta ra bụng người?
4.4. Nhân đây nói thêm, cái điều mà Phan Bội Châu rất cảm ơn Lương Khải Siêu, ngoài việc Lương giới thiệu Phan với các chính khách Nhật, là việc Lương phân tích về phương pháp cách mạng, chứ không phải chuyện khuyên đừng “cõng rắn cắn gà nhà” như ông HHP đặt điều.
Trong một buổi gặp, sau 3 tiếng đồng hồ bút đàm với Lương Khải Siêu, Phan Bội Châu đã ghi lại mấy điều cốt yếu trong lời khuyên của Lương như sau:
j Quý quốc không phải lo không có ngày độc lập, mà chỉ lo quốc dân không dủ độc lập
k Kế hoạch lo cho đến quang phục, yếu kiện chỉ có 3 điều:
a- Có thực lực ở trong quý quốc
b- Nhờ sức viện trợ của Lưỡng Quảng
c- Nhờ Nhật Bản vện trợ bằng thanh thế.
Nhưng nếu ở trong quý quốc không có thực lực, thời hai điều dưới đó, thảy không phải là hạnh phúc của quý quốc.
Ông Lương viết tiếp đến đó, lại có phụ chú rằng: “Thực lực của quý quốc là dân trí, dân khí và nhân tài. Lưỡng Quảng chỉ giúp cho quân thướng (lương thực cho quân đội – ĐTT) với khí giới. Nhật Bản chỉ giúp cho trên đường ngoại giao. Hễ khi nước mình độc lập rồi, tất phải yêu cầu liệt cường thừa nhận, mà nhờ Nhật Bản là cường quốc ở châu Á, có thể thừa nhận trước hết được”. (Phan Bội Châu niên biểu, Sđd)
Như vậy Lương Khải Siêu không phủ nhận chủ trương cầu thân Nhật Bản của cụ Phan. Tuy nhiên Lương cũng cảnh báo cụ Phan, không quá phụ thuộc vào Nhật Bản. Phan Bội Châu viết tiếp như sau:
“Lúc ấy tôi nói đến cầu viện nước Nhật Bản, ông Lương nói rằng:
Mưu ấy sợ không tốt, quân Nhật Bản đã một lần vào nước, quyết không lý gì đuổi nó ra được. Thế là muốn tồn tại được nước mình, mà thiệt là làm cho chóng mất mà thôi! Quý quốc chớ lo không có cơ hội độc lập, mà chỉ lo không có nhân tài hay chụp được cơ hội. Hễ đến ngày Đức – Pháp chiến tranh với nhau tức là một cơ hội tốt cho quý quốc độc lập đó vậy”.
Cái điều Lương Khải Siêu đi trước Phan Bội Châu nói trên cũng dễ hiểu: Trung Quốc lúc ấy tuy chưa mất hẳn độc lập nhưng đã bị các nước đế quốc, trong đó có Nhật Bản, bao vây xâu xé[1].
Tuy nhiên, cần biết thêm điều này: cái điều khuyên trên của Lương Khải Siêu đối với Phan Bội Châu thực tế không có tác dụng bởi hai lẽ:
1 -  Chính phủ Nhật Bản lúc ấy không có điều kiện can thiệp vào Việt nam.
2 - Chỉ khoảng hơn 10 năm sau, khi Nhật thực sự thành nước đế quốc, thì chính Phan Bội Châu nhận ra nguy cơ từ Nhật Bản và đã chủ trương hợp tác với người Pháp để chống đế quốc Nhật.
Hai điều trên chúng tôi sẽ trình bày trong phần hai của bài này.
Để kết lại phần thứ nhất, tôi khẳng định cụ Phan Bội Châu là một bậc anh hùng hào kiệt, khí phách ngang tàng. Cụ khóc là vì thương tình cảnh đất nước Việt Nam, chứ không phải nước mắt bạc nhược. Việc Lương Khải Siêu giúp Phan Bội Châu phần vì quý trọng một nhà yêu nước, phần vì sự hợp tác trong công cuộc cách mạng dân tộc dân chủ của cả hai nước. Lương Khải Siêu là bạn của Phan Bội Châu. Cái tư thế “ban phát” của Lương cho Phan chỉ do cái đầu óc thần phục “thiên triều” của ông HHP tưởng tượng ra. Nó không những xúc phạm cụ Phan mà còn xúc phạm một danh nhân Trung Quốc. 

Còn nữa
Đ.T. T



[1] Năm 1894 chiến tranh Trung Nhật bùng nổ, Trung Quốc thua và phải ký điều ước Mã Quan (Simonoseki), phải bỏ “phiên thuộc” TriềuTiên, cắt Đài Loan, Bành Hồ, bán đảo Liêu Đông và bồi thường chiến phí cho Nhật. Năm 1900 liên quân 8 nước trong đó có Nhật Bản đánh chiếm Thiên Tân, tấn công Bắc Kinh. Nhà Thanh ký hiệp ước Tân Sửu, phải nhượng bộ nhiều quyền lợi cho các nước đế quốc.v.v.. 


*Bài viết do tác giả gửi trực tiếp cho NXD- Blog. 
Xin chân thành cảm ơn tác giả Đào Tiến Thi.