Hiển thị các bài đăng có nhãn Vũ Thế Khôi. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Vũ Thế Khôi. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 12 tháng 10, 2023

“CHÙA BA VÀNG” CHÍNH THỨC LÊN TIẾNG


“CHÙA BA VÀNG” CHÍNH THỨC LÊN TIẾNG
VỀ VIỆC ĐƯA TƯỢNG KINH LƯỢC SỨ VŨ HỒN VÀO “CHÙA” LÀM LỄ
 
Khoảng 10h sáng nay (11.10.2023), trên FB “Chùa Ba Vàng” đã đăng một biên bản làm việc theo nội dung đơn kiến nghị, phản ánh của ông Vũ Thế Khôi gửi Ban Tuyên giáo TW, Ban Tôn giáo CP, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Hội đồng Trị sự TW PGVN. 
 
Ngày 3/10/2023, Thanh tra Bộ Văn hóa TT và DL cũng có công văn số 469/TTr-VHGĐ chuyển đơn Kiến nghị tới SỞ VĂN HÓA TT và DL tỉnh Quảng Ninh, về việc Kiến nghị xử lý việc đưa tượng (viên quan cai trị của triều đại nhà Đường là Vũ Hồn) vào thờ tại “Chùa Ba Vàng”. Công văn do Phó Chánh thanh tra Bộ là Hà Văn Lâu ký. 

Thứ Hai, 9 tháng 10, 2023

KIẾN NGHỊ ĐƯA TƯỢNG VŨ HỒN RA KHỎI CHÙA BA VÀNG!


KIẾN NGHỊ BUỘC ĐƯA TƯỢNG VIÊN QUAN CAI TRỊ KINH LƯỢC SỨ VŨ HỒN RA KHỎI CHÙA BA VÀNG!
 
Cộng hoà Xã Hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
 
KIẾN NGHỊ XỬ LÝ HÀNH VI PHẠM LUẬT TÍN NGƯỠNG TÔN GIÁO
 
Kinh gửi:
- Ban Tuyên giáo TƯ Đảng Cộng sản Việt Nam
- Ban Tôn giáo Chính phủ CHXHCN Việt Nam
- Bộ Văn hoá Du lịch và Thể thao CHXHCNVN
- Hội đồng Trị sự TƯ Giáo hội Phật giáo Việt Nam
 
Ngày 10/09/2023, nhà sư Trụ trì chùa Ba Vàng Thích Trúc Thái Minh cùng Chủ tịch Hội đồng họ Vũ (Võ) Việt Nam là Tiến sĩ Khoa học Lịch sử Vũ Minh Giang đã cho đặt tượng viên quan cai trị của triều đại nhà Đường Vũ Hồn trên Ban thờ trong chùa Ba Vàng tại Quảng Ninh.

Thứ Bảy, 20 tháng 8, 2022

Vũ Đình Hòe: NGUYỄN HỮU ĐANG, NGƯỜI CỘNG SẢN BẠN TÔI

Ảnh: Găp lại "người cộng sản bạn tôi" tại lễ kỷ niệm 60 năm Hội Truyền bá Quốc ngữ 
tại Bảo tàng lịch sử Việt Nam, 1938-1998

NGUYỄN HỮU ĐANG, NGƯỜI CỘNG SẢN BẠN TÔI

Vũ Đình Hòe
Lời dẫn của Vũ Thế Khôi: Hôm nay, ngày Tết Độc Lập, Mồng 2 tháng 9, tôi chợt chạnh lòng nhớ đến bác Nguyễn Hữu Đang. Bác là bậc Khai quốc công thần, Thứ trưởng bộ Tuyên truyền trong Chính phủ Nhân dân Lâm thời, là người được Hồ chủ tịch tin cẩn trao nhiệm vụ cấp tốc dựng lễ đài Ba Đình để đọc Tuyên ngôn Độc lập. Bác Nguyễn hữu Đang kiên quyết bảo vệ thành quả lớn nhất mà Cách mạng tháng Tám đã đem lại cho toàn dân là nền Dân chủ đa đảng dưới sự lãnh đạo của nnhững người Cộng sản chân chính - như chính bác viết lại sau này: “Thực chất phong trào “Nhân văn Giai phẩm”, nếu đứng về mặt chính trị, thì đó là một cuộc đấu tranh của một số người trí thức, văn nghệ sĩ và một số đảng viên về chính trị nữa, là chống, không phải chống đảng cộng sản, mà là chống chủ nghĩa Staline và chủ nghĩa Mao. Sự thâm nhập của chủ nghĩa Statline và chủ nghĩa Mao đưa đến nhiều hiện tượng cực quyền toàn trị. Nó gay gắt ghê lắm! Chúng ta đã phạm sai lầm trong Cải cách ruộng đất, rồi thì Chỉnh huấn, Chấn chỉnh tổ chức, Ðăng ký hộ khẩu, v.v. Tất cả những chính sách quá tả đó là đều từ phương Bắc xâm nhập vào Việt Nam”. Đó cũng chính là quan điểm của cha tôi và một số trí thức chân chính trong đảng Dân chủ bị xử lí khi bác Đang phải ra toà, chịu cái án 15 năm tù và 5 năm quản thúc do chính các đồng chí trong Đảng với ông "ưu đãi người có công"! 
Chính vì đồng quan điểm, và như tôi nhận ra sau này - đồng nhân cách - nên hai cụ trở nên đôi bạn Dân chủ-Cộng sản thân thiết: tôi hiểu như vậy cái đầu đề thiên hồi ký của cha tôi - "NGUYỄN HỮU ĐANG, NGƯỜI CỘNG SẢN BẠN TÔI".
Nguyễn Hữu Đang, người cộng sản bạn tôi

Vũ Đình Hòe


Người đảng viên Cộng sản đầu tiên mà ngẫu nhiên tôi gặp, nhưng không ngẫu nhiên kết bạn là Nguyễn Hữu Đang. 

Thứ Sáu, 19 tháng 8, 2022

77 NĂM TRƯỚC, CỤ PHẠM QUỲNH ĐƯỢC "MỜI"...VÀ MẤT TÍCH


77 NĂM TRƯỚC, CỤ PHẠM QUỲNH ĐƯỢC "MỜI"...VÀ MẤT TÍCH 

Vũ Thế Khôi 

76 năm trước, vào 2h chiều ngày 23 - 08 - 1945, một nhóm người vũ trang đi xe o-tô ập vào ấp Hoa Đường trên bờ sông An Cựu, "mời" cụ Phạm Quỳnh đi gặp chính quyền Cách mạng Thừa Thiên-Huế. Cụ Phạm không bao giờ trở về nữa.


Một thời gian dài có những lời biện bạch rằng cụ Phạm bị một nhóm dân quân manh động sát hại. May thay, 8 năm trước đại tá TS Nguyễn Văn Khoan đã viết ra sự thật trong sách do Nxb CAND in ấn: “Báo “Quyết Thắng”, cơ quan tuyên truyền và tranh đấu của Việt Minh Trung Bộ, số 11 ra ngày 9 - 12 - 1945 cho biết: “cả 3 tên Việt gian đại bợm (Ngô Đình Khôi, Phạm Quỳnh, Ngô Đình Huân) bị bắt ngay trong giờ cướp chính quyền, 2 giờ (chiều) ngày 23 - 8 và đã bị Uỷ ban khởi nghĩa kết án tử hình và đã thi hành ngay trong thời kỳ thiết quân luật”.

Thứ Hai, 16 tháng 9, 2019

Nhân ngày giỗ Đức Thánh Trần: ĐỨC THÁNH TRẦN NÓI VỚI HẬU THẾ

Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Tranh thờ thời Nguyễn. 

Đức Thánh Trần với phong trào văn thân yêu nước Duy tân – Đông Kinh nghĩa thục

Vũ Thế Khôi

Tạp chí Xưa và Nay số 287 tháng 7 - 2007 có bài giới thiệu việc phát hiện ở Nghệ An một tài liệu Hán Nôm quý - bộ ván khắc “Trần Đại vương Chính kinh”. Tác giả bài viết cho biết bản kinh này vốn được thờ ở đền Ngọc Sơn Hà Nội, Cụ Trần Khắc Hinh lặn lội từ Nghệ An ra thỉnh về, tổ chức khắc in dưới đời vua Bảo Đại, năm 1943. Tuy nhiên bài báo chưa cho biết thời điểm, bối cảnh ra đời và sứ mạng cụ thể của bài “Chính kinh”.

Từ 13 năm trước, trên báo Đại đoàn kết, số ra ngày 19 - 9 - 1995, căn cứ các văn bia trong đền Ngọc Sơn và bài ký “Hồ sơn thắng hội tự” của Phó bảng Nguyễn Văn Siêu, chúng tôi đã nêu ý kiến rằng Đức Thánh Trần chỉ bắt đầu được hội Hướng Thiện đưa vào thờ trong Đền Ngọc Sơn sau khi thực dân Pháp chiếm Hà Nội năm 1882 và phá bỏ đền Hựu Linh thờ Trần Hưng Đạo ở thôn Hà Thanh trên bờ đông của hồ Hoàn Kiếm. 

Ngay sau đó, năm 1997 chúng tôi đã phát hiện ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội 4 sách chữ Hán có khắc bài “Chính kinh” của Đức Thánh Trần và nhân kỷ niệm 700 năm sinh của Trần Hưng Đạo đã giới thiệu vắn tắt nội dung của bài kinh “giáng bút” này trên tạp chí Xưa & Nay số 80 – tháng 10 - 2000. 

Tháng 5 - 2007 trong báo cáo khoa học tại Hội thảo quốc tế “Vietnam, le moment moderniste (1905 - 1908)”, tổ chức ở thành phố Aix-en-Provence (Pháp), chúng tôi đã trình bày chi tiết vấn đề nêu tại đầu đề bài báo này. Dưới đây xin trích phần liên quan và xin kèm theo nguyên bản chữ Hán, bản phiên âm và dịch nghĩa bài văn “Chính kinh” trong sách Trần triều hiển thánh Chính kinh tập biên do đền Ngọc Sơn khắc in năm 1900, hiện lưu trữ với ký hiệu A.2382 tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội, để bạn đọc quan tâm có thể đối chiếu với bản mới phát hiện tại Nghệ An.

5.3. Tục thờ Đức Thánh Trần thuộc Đạo giáo dân gian Việt Nam (gọi là "Nội đạo", tức "Đạo bên trong", đạo của dân tộc, không phải từ ngoài du nhập vào) luôn song hành cùng tục thờ Mẫu Liễu Hạnh. "Tháng 8 giỗ Cha (Trần Hưng Đạo mất 20 - 8 âm lịch), tháng 3 giỗ Mẹ (Liễu Hạnh mất mồng 6 - 3 âm lịch)" - riêng câu thành ngữ này đã cho thấy ảnh hưởng vô cùng to lớn của tín ngưỡng ấy trong tâm linh quảng đại quần chúng người Việt. Nội đạo rất đa dạng và phức tạp, có cả những yếu tố thần bí và mê tín. Tuy nhiên ở đây chúng tôi chỉ đề cập khía cạnh đặc biệt trong việc thờ cúng Đức Thánh Trần ở đền Ngọc Sơn, sau đó lan nhanh ra khắp các địa phương.

Thứ Sáu, 23 tháng 8, 2019

NGÀY NÀY 74 NĂM TRƯỚC, CỤ PHẠM QUỲNH ĐƯỢC MỜI VÀ MẤT TÍCH


Vũ Thế Khôi
 


74 năm trước, vào 2g ngày này, 23 - 08 - 1945, một nhóm người vũ trang đi xe o-tô ập vào ấp Hoa Đường trên bờ sông An Cựu, "mời" cụ Phạm Quỳnh đi gặp chính quyền Cách mạng Thừa Thiên-Huế. Cụ Phạm không bao giờ trở về nữa.

Một thời gian dài có những lời biện bạch rằng cụ Phạm bị một nhóm dân quân manh động sát hại. May thay, 8 năm trước đại tá TS Nguyễn Văn Khoan đã viết ra sự thật trong sách do Nxb CAND in ấn: “Báo “Quyết Thắng”, cơ quan tuyên truyền và tranh đấu của Việt Minh Trung Bộ, số 11 ra ngày 9 - 12 - 1945 cho biết: “cả 3 tên Việt gian đại bợm (Ngô Đình Khôi, Phạm Quỳnh, Ngô Đình Huân) bị bắt ngay trong giờ cướp chính quyền, 2 giờ (chiều) ngày 23 - 8 và đã bị Uỷ ban khởi nghĩa kết án tử hình và đã thi hành ngay trong thời kỳ thiết quân luật”.

Chủ tịch Uỷ ban Khởi nghĩa Thừa Thiên-Huế bấy giờ là Tố Hữu…”

Vậy tại sao Hồ Chủ tịch gọi cụ Phạm Quỳnh là "học giả" và viết thư mời ra cộng tác với Cách mạng?

Nguyễn Cảnh Thuỵ: Lúc chuẩn bị được "mời đi", cụ còn có vẻ phấn khởi, dặn các con lấy hết vải đỏ ra may cờ cho Việt Minh. Khi bị gọi đi, các con nhắc cụ chưa uống thuốc, cụ bảo chốc về uống. Cụ có ngờ đâu họ tóm cụ đi... thủ tiêu(!)
________________

TÔI ĐI CẢI TÁNG THẦY TÔI

Phạm Tuân
Phạm Tôn'blog 

Lời dẫn của Phạm Tôn: Ông Phạm Tuân là con trai út trong năm con trai của Phạm Quỳnh, sinh năm 1936 tại Huế, hiện định cư tại Mỹ. 

…Năm 1948, anh Bích tôi (Phạm Tuân – PT ghi chú) lúc bấy giờ làm Bí thư cho Quốc trưởng Bảo Đại đã dò hỏi được nơi Thầy tôi bị giết và chôn nhưng không thực hiện được việc tìm kiếm. Phần vì địa điểm là một nơi xa xôi, hẻo lánh, hiểm trở, lại là một vùng “xôi đậu” thiếu an ninh. Phần vì nghe lời khuyên can của những người am hiểu tình hình: không nên mạo hiểm, vì rất có thể đây là cái bẫy…giăng ra để bắt và tiêu diệt những người có liên hệ với các nạn nhân…Một hình thức “nhổ cỏ phải nhổ cho sạch rễ” vậy.

Mãi cho đến năm 1956…bỗng một hôm gia đình chúng tôi được thông báo chuẩn bị sẵn sàng để đi nhận lãnh hài cốt Thầy tôi! Một niềm vui mừng khôn tả, đồng thời một nỗi xúc động vô biên tràn ngập trong lòng anh chị em chúng tôi. Lập tức chúng tôi đi tìm những tin tức chính xác hơn.

Được sự giới thiệu của ông Hoàng Hùng (Bộ trưởng Bộ Kiến Thiết) (là con trai một người bạn Phạm Quỳnh, từng ở nhà Phạm Quỳnh thời còn đi học ở Hà Nội – PT ghi chú) và ông Võ Văn Hải (Văn phòng Phủ Tổng thống), chúng tôi tìm đến gặp ông Võ Như Nguyện. Được biết ông Võ Như Nguyện (nguyên Tỉnh trưởng Bình Định) cùng ông Hoàng Ngọc Trợ (Quận trưởng quận Phong Điền, Thừa Thiên) là những người được Tổng thống Ngô Đình Diệm trao cho việc tìm kiếm (hài cốt cha con Ngô Đình Khôi, anh của Ngô Đình Diệm – PT ghi chú).


Việc tìm kiếm hài cốt không đơn giản mà là một công tác lớn lao, đòi hỏi nhiều thời gian, nhân lực, phương tiện và an ninh tuyệt đối

Ngày 5 tháng 2 năm 1956 (cận Tết) tôi và chị Hảo (Phạm Thị Hảo, con gái thứ ba trong tám con gái của Phạm Quỳnh – PT ghi chú) tôi đi Huế để cùng với một phái đoàn của chính phủ tìm và nhận hài cốt các nạn nhân.

…Thật “nghịch đời”, lúc sinh thời, Thầy tôi và cụ Khôi vì khác chính kiến nên đã trở thành thù địch, thề “không đội trời chung”, thế mà khi thác lại nằm chung một hố.

Chúng tôi (tôi và chị Hảo) phải ở lại Huế lâu hơn dự định, vì như đã tả ở trên, địa điểm là một nơi xa xôi, khó đi lại nên chính phủ phải huy động công binh khai quang, ủi đất làm đường, bắc cầu cho xe hơi đi…trên mười lăm cây số. Ngoài ra còn phải điều động binh sĩ đến giữ an ninh quanh vùng. Nói tóm lại là cả một công trình nan giải mà chỉ có một chính quyền mới thực hiện được mà thôi…

…Nhưng đôi lúc tôi tự hỏi, giả sử như Thầy tôi không bị chôn vùi cùng huyệt với cụ Khôi và ông Huân, những người thân của Tổng thống, thì chúng tôi có được sự giúp đỡ này không?

Suốt ngày 8 tháng 2 năm 1956, đào xới đất, kết quả chỉ bới lên được một bộ hài cốt không phải là của một trong ba người. Mọi người đều thất vọng, lại lo rằng sau mười một năm, trải qua bao mùa lũ lụt, có thể các di hài bị nước lũ cuốn trôi đi chăng?

Đến chiều hôm sau, cận Tết, dưới trời mưa lâm râm, bỗng xuất hiện một cụ già đi ngang qua. Cụ hỏi toán dò tìm: “Đã tìm thấy các cụ chưa? Đào mương nào, mương cũ hay mương mới?”. Thì ra có hai mương…Cụ già nói tiếp: “Cách đây mười một năm tại đây tôi có đào một con mương để dẫn nước từ sông lên ruộng. Hôm sau, ra tát nước thì thấy mương bị lấp. Du kích trong làng cấm không cho tới gần. Vài năm sau, có người đến thầu mấy thửa ruộng của tôi, cũng đào mương, thì bị khuyến cáo không được đào thẳng mà phải đào chếch sang một bên”.

Thì ra đây là “mương mới”, chỗ tìm ra hài cốt độc nhất nói trên. Toán công binh tiếp tục đào sâu hơn, với chu vi rộng lớn hơn, thì quả nhiên tìm được ba bộ hài cốt ở vị thế đúng như những chi tiết thâu lượm được.

Gần đến hài cốt, để tránh đụng đến xương, đám người có phận sự ngưng sử dụng cuốc, xẻng mà chỉ dùng đũa cả khơi đất ra từng mảng. Sau cùng lộ ra rõ rệt ba bộ hài cốt nằm chồng lên nhau.

Hài cốt của Thầy tôi rất dễ nhận vì dài và ngay cạnh, tôi nhận ra được đôi mắt kính cận…Hài cốt của cụ Khôi và ông Huân thì ngắn và nhỏ bé. Thân nhân nhà họ Ngô còn nhận ra được hai chiếc răng vàng và cái thắt lưng to bản (quân phục Nhật) của ông Huân.

Ban tổ chức đã chuẩn bị sẵn ba cái tĩnh, vải liệm trắng đỏ, ba chậu tráng men lớn chứa đầy cồn 90 để rửa xương.

Việc thử nghiệm, rửa hài cốt và tẩm liệm kéo dài đến khi trời tối

Tại làng Văn Xá, quan tài cụ Khôi và ông Huân được quàn dưới một lều vải lớn, có thể chứa cả trăm người, có đèn điện thắp sáng choang, vòng hoa phúng viếng bày la liệt, lính mặc lễ phục túc trực hai bên, các bộ trưởng thứ trưởng âu phục trắng cà vạt đen, các đại biểu, cán bộ đủ mọi cấp ra vào tấp nập…Tiếng cầu kinh của giáo chúng thập phương vang rền suốt đêm. Được biết, ngày hôm sau sẽ di chuyển hai quan tài về Hiền Sĩ. Tại đây, một nhà thờ lớn đã được dựng lên để cử hành tang lễ trọng thể theo nghi thức quốc táng, có đông người tham dự và sau mồng ba Tết mới đưa về Phú Cam chôn cất.

Trong khi đó, trên một ngọn đồi thấp cách đấy không xa, trong một chiếc lều nhà binh nhỏ bé, dưới ánh sáng mờ ảo của mấy ngọn nến, hai chị em tôi cùng cụ bà Ưng Trình (thông gia với gia đình chúng tôi) thay phiên thắp nhang bên linh cữu Thầy tôi.

Chúng tôi có mời một thượng toạ trụ trì tại một ngôi chùa nhỏ trong làng đến làm lễ cầu siêu. Bên chính quyền cũng cử một đại diện đến phúng điếu và phân ưu. Sau đó, cắt cử hai quân nhân mặc lễ phục nghiêm chỉnh túc trực bên quan tài.

Như trên đã nói, ban tổ chức có cung cấp ba tĩnh bằng sành để đựng hài cốt…Cả ba có nắp in hình thánh giá của công giáo, nên chị tôi đã tế nhị từ chối để chỉ dùng cái tĩnh đã mua sẵn dành riêng cho đệ tử nhà Phật với chữ “Vạn” trên nắp.

Quá tủi thân trước sự khắc biệt, lòng ngậm ngùi thê thiết, chị em chúng tôi quyết định thuê đò chở quan tài Thầy tôi về Huế ngay đêm hôm ấy… Tám giờ sáng hôm sau thì đến chùa Vạn Phước. Thượng toạ trụ trì đã chờ sẵn. Sau nghi thức đơn giản, đúng chín giờ thì hạ huyệt. Một số đông bạn học cũ của các anh chị tôi tại hai trường Khải Định và Đồng Khánh đến chia buồn và tiễn đưa.

Thời gian dài kế tiếp sau đấy, người dân Sài Gòn được thấy một con đường lớn, rộng từ phi cảng Tân Sơn Nhất vào trung tâm thủ đô mang tên đại lộ Ngô Đình Khôi… Rồi đến thời Đệ nhị Cộng hoà của Tổng thống Thiệu “nghe nói” tên Thầy tôi đã được đặt cho một con đường nhỏ, gần đường Triệu Đà trong Chợ Lớn… Chị tôi và tôi lân la đi tìm, nhưng chẳng thấy tăm hơi…Tất cả chỉ là một “dự tính” mà thôi.

Ôi, thế thái nhân tình…

P.T.

__________

(Trích bài Sống lại với ký ức thuở ngày xưa, báo Ngày Nay (tiểu bang Minesota), số 385, ngày 30-6-2005 và Việt Học tạp chí phổ thông, số 2 (Nam Califonia) tháng 6-2005).


Viếng mộ Cụ Phạm Quỳnh - mùa hè 2019, nhân tròn 100 năm Nam Phong:


 

Thứ Năm, 15 tháng 2, 2018

Vũ Thế Khôi: NGƯỜI XƯA BIẾT DỰA VÀO LÒNG DÂN


NGƯỜI XƯA BIẾT DỰA VÀO LÒNG DÂN
THỰC HIỆN DÂN GIẦU NƯỚC MẠNH


Vũ Thế Khôi

Trong một lần hầu chuyện cụ Vũ Đình Hòe, cố Bộ trưởng Tư pháp 15 năm của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tôi được nghe ý kiến độc đáo của Cụ về thiết chế Vua Lê - chúa Trịnh đời Lê trung hưng (TK XVII - XVIII). Cụ nói, đại ý:

Người ta láy đi láy lại luận điệu của sử gia triều Nguyễn: họ Trịnh vô đạo, lấn át quyền Vua Lê. Khách quan có thể nhìn nhận khác. Cuối đời Lê sơ chế độ phong kiến chuyên chế đã đẻ ra Vua Quỷ dâm ô hiếu sát Lê Uy Mục, có nguy cơ làm tiêu ma sự nghiệp giải phóng vĩ đại của Tổ tiên họ Lê, vì vậy mới ra đời một kiểu “phân quyền” độc đáo trong chế độ quân chủ Đại Việt: Vua không trị vìngồi làm vì, Chúa cầm quyền. “Ngồi làm vì” đấy, mà nhà Chúa, nắm cả quyền chính trị (Tổng quốc chính) lẫn quân sự (Đại nguyên soái Tiết chế chư quân thủy bộ), át thì có át, mỗi khi Vua quá hèn, vẫn không dám lật, bởi “cái ” của người ta có thế bàn thạch là lòng dân. Có một ông Chúa Trịnh vì biết dựa lòng dân và củng cố sức dân nên chẳng những không để mất một tấc đất đức Lê Thái Tổ đã giành lại, mà còn chỉ bằng “ba tấc lưỡi” đòi được vùng đất biên giới có mỏ chì, mỏ đồng! 

Thứ Hai, 18 tháng 9, 2017

SÔNG HƯƠNG NÚI NGỰ trong thơ danh sĩ Bắc Hà Vũ Tông Phan



SÔNG HƯƠNG NÚI NGỰ
trong thơ danh sĩ Bắc Hà Vũ Tông Phan


Vũ Thế Khôi

Hoạn lộ của tiến sĩ Vũ Tông Phan (1800 - 1851), tự Hoán Phủ, hiệu Lỗ Am, thật ngắn ngủi: vẻn vẹn có 7 năm, từ 1826 đến 1833. Nhưng trong 7 năm ấy, ông có 4 lần phải vào kinh đô Huế.

Mùa xuân 1826 tân cử nhân khoa thi Hương 1825 vào dự thi Hội và thi Đình, mùa thu năm ấy, sau khi mang 6 cờ biển vua ban cho tiến sĩ “thiếu tuấn đăng khoa” hồi hương vinh quy bái tổ ở thôn Tự Tháp ven bờ tây Hoàn Kiếm hồ, ông trở lại Huế tập sự trong Hàn Lâm viện, đến mùa đông 1827 được bổ ra ngoài làm Tri phủ Bình Hòa (từ 1832 là Khánh Hòa); xuân 1829 được gọi về triều thăng chức Lang trung bộ Binh, đến tháng 8 cùng năm thăng làm Tham hiệp trấn Thái Nguyên, nhưng chưa được một năm, tháng 5 - 1830 đã bị cách chức vì để xổng tù. Phải chờ đợi ở ngôi nhà gia truyền ven hồ Gươm đến đầu tháng 8 -1830, ông Nghè họ Vũ được lệnh “lai Kinh hậu chỉ”, nghĩa là vào Huế đợi chiếu chỉ của Vua định đoạt số phận. Đó là lần thứ tư, cũng là lần cuối cùng Vũ Tông Phan vào Huế.

Thứ Ba, 18 tháng 7, 2017

Vũ Thế Khôi: NAM PHONG TẠP CHÍ VỚI VẤN ĐỀ GIÁO DỤC

Nhà giáo Vũ Thế Khôi đang trình bày báo cáo tại cuộc tọa đàm. Ảnh: FB V.T.K.

NAM PHONG TẠP CHÍ VỚI VẤN ĐỀ GIÁO DỤC

Vũ Thế Khôi

Bài trình bày tại cuộc tọa đàm nhân kỷ niệm 100 năm Tạp chí Nam Phong ra đời.
Tọa đàm do Tạp chí Xưa & Nay tổ chức tại Hà Nội, ngày 15.07.2017.

Trong luận văn khoa học (ngót bốn chục trang A4), tổng kết 15 năm điền dã khảo cứu về Hướng Thiện hội đền Ngọc Sơn (hình thành trước 1836 và hoạt động trong suốt thế kỷ XIX) như một cơ sở văn hóa - xã hội sâu xa của phong trào Duy tân - Nghĩa thục, trên cơ sở 3 sơ đồ về sự truyền thừa tư tưởng giáo dục dân tộc, nhân bản và hướng Thiện (xem Phụ lục), chúng tôi đã đề xuất khái niệm “HẬU Đông Kinh Nghĩa Thục”. Ngôi nghĩa thục trung ương trên phố Hàng Đào chỉ hoạt động được 7 tháng thì bị đàn áp, nhưng ảnh hưởng của tư tưởng KHAI SÁNG THAY VÌ BẠO ĐỘNG NON do các lãnh tụ Duy tân-Đông Kinh nghĩa thục khởi xướng, vẫn tiếp tục tác động sâu rộng và dài lâu trong khắp Nam Bắc. Đó là nhờ có các tư thục của ông đồ làng - những cơ sở văn hoá - xã hội rộng khắp của tầng lớp “Nho sĩ bình dân” (thuật ngữ do nhà văn hoá Nguyễn Khắc Viện đề xuất, đối lập với “Nho sĩ quan lại”) - âm thầm hoạt động trong các làng xã, phường thôn . Nay các ngôi trường đó được tiếp nhận đường lối “giáo dục quốc dân” của ĐKNT, thực sự mang tính cánh mạng, chứ không phải là “cải lương”, như quy kết của một số nhà nghiên cứu mang cái dớp của phái "Proletkult" ("văn hóa vô sản") mà Lenin đã phê phán. Gọi là “cách mạng “ vì ĐKNT chủ trương thay hẳn nền giáo dục Nho học cổ hủ cốt đào luyện “thần dân bù nhìn chỉ biết làm theo lệnh trên”, bằng một sách lược tân học văn minh (“Văn minh tân học sách”) “khai dân trí”, “chấn dân khí” nhằm đào tạo những công dân biết độc lập suy nghĩ và tự hành động.

Thứ Năm, 22 tháng 3, 2012

NIỀM VUI LỚN: MỘT NGÀY NHẬN ĐƯỢC 2 BẢN SÁCH QUÝ

Trong ngày hôm nay, Lâm Khang Nguyễn Xuân Diện nhận được 2 ấn phẩm vô cùng quý báu do Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích gửi từ Hoa Kỳ và nhà giáo Vũ Thế Khôi đến trao tận tay.

Chúng tôi chân thành cám ơn và xin trân trọng giới thiệu với chư vị
.
 
 Cuốn khảo cứu, dịch chú bản Lưu Hương ký, do Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích (Hoa Kỳ) thực hiện.
Bản sách do GS Nguyễn Ngọc Bích gửi tặng Nguyễn Xuân Diện

 Bìa 4 của cuốn sách

 Cuốn sách có lời đề tặng rộng lượng của Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích

 Giáo sư đã dành ra 30 trang để thuật lại câu chuyện văn bản Lưu Hương ký lưu lạc 40 năm trời ngay trên đất Việt Nam; cùng việc miêu tả chân diện mục của văn bản Lưu Hương Ký
.
 
Bức thư Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích gửi Nguyễn Xuân Diện đính kèm vào bản sách gửi tặng
Phụ lục:
Về quá trình lưu lạc 40 năm của Lưu Hương ký, mời chư vị muốn tìm hiểu, xin vào đọc đủ 74 entry tại Blog cũ của Nguyễn Xuân Diện, tại đây.


Cuốn sách hồi ký "Thưở lập thân" của Giáo sư Vũ Đình Hòe, xuất bản ngay sau khi cụ tạ thế.
Sách do trưởng nam Cụ Vũ Đình Hòe là nhà giáo Vũ Thế Khôi biên tập và tổ chức xuất bản.
Nhà giáo Vũ Thế Khôi tặng Nguyễn Xuân Diện, ngày 22.3.2012

Đọc thêm:
MỪNG THỌ CỤ VŨ ĐÌNH HÒE 100 TUỔI


Ngày mai, nhà giáo Vũ Thế Khôi, trưởng nam của Cụ Vũ Đình Hòe sẽ bay vào Tp. Hồ Chí Minh để ăn Tết cùng cha. Cụ Vũ Đình Hòe là Bộ trưởng Bộ Giáo dục, rồi sau là Bộ trưởng Bộ Tư pháp của chính phủ Cụ Hồ. Hiện nay, Chính phủ Cụ Hồ chỉ còn hai vị còn sống là Đại tướng Võ Nguyên Giáp và cụ Vũ Đình Hòe.

Tôi lòng thành sửa soạn chút quà mọn để mừng Cụ Vũ Đình Hòe tròn 100 tuổi. Quà mừng gồm cuốn sách "Nghiên cứu Tư tưởng Nho Việt Nam từ hướng tiếp cận liên ngành" trong đó có bài viết của tôi và một bức thư pháp.

Bức thư pháp do Thiền Phong Phạm Văn Tuấn (Viện Hán Nôm) viết. Chuyết Chuyết Trần Trọng Dương (tác giả bài "Khảo về Đại Cồ Việt") sửa soạn giấy mực và đứng bên cạnh để hầu nghiên bút. Thiền Phong và Chuyết Chuyết đều là những tay thư pháp nổi danh trong làng thư pháp Hà Nội, đều đứng trong nhóm "Nhị thập bát tú"(hai mươi tám ông sao) của thư pháp Bắc Hà.

Thiền Phong giỏi lối chữ Lệ. Bức thư pháp gồm các chữ: 

HẠC THỌ 
Tân Mão niên, xuân nguyệt 
Phụng Vũ Đình Hòe kỳ di thọ khảo 
Hậu học Lâm Khang Nguyễn Xuân Diện cung hạ.

Dịch nghĩa:

HẠC THỌ (tuổi hạc)
Mùa xuân năm Tân Mão
Cung kính mừng Cụ Vũ Đình Hòe thượng thọ tuổi 100
Hậu học Lâm Khang Nguyễn Xuân Diện bái mừng!

Bức thư pháp viết đều bằng lối chữ "lệ". Chữ "Hạc" viết bằng lối chữ "lệ", để ẩn ý "hạc lệ", nghĩa là tiếng hạc kêu. Tiếng hạc kêu lanh lảnh, trong trẻo trên thinh không, khó ai trông thấy hạc, mà ai cũng nghe tiếng hạc. Đó là tiếng vọng của "Thanh Nghị" nói riêng và cuộc đời của Vũ Đình Hòe.

Bên trong bức chữ còn có một "nhàn chương" (dấu ấn) mang các chữ "Ngã ái hư tĩnh"(Ta yêu sự hư tĩnh). [Bức chữ có đầy đủ dấu nhàn chương chỉ để dành riêng cho Cụ Vũ Đình Hòe, nên không đưa lên Nguyễn Xuân Diện-Blog).

Nhà giáo Vũ Thế Khôi cho biết: "Cụ Vũ Đình Hòe đã thốt lên "Hậu sinh khả úy" khi đọc lời giãi bày của cháu về bức Hạc Thọ, mà chú phóng to lên cho Cụ đọc"

Nguyễn Xuân Diện-Blog hân hoan giới thiệu cùng chư vị