Thứ Tư, 29 tháng 10, 2025

NGUYỄN TÂY SƠN VÀ NGUYỄN GIA LONG NGÔI ĐỀN THỐNG NHẤT - Phần 2


Bài của Trung Hoang


Nguyễn Ánh bước vào lịch sử ở chính khúc quanh đó. Ông không phải là người mở đường, ông là người gom đường. Ông không cần đánh một trận Ngọc Hồi–Đống Đa, vì khi ông tới hồi quyết định, ngoại xâm trực diện đã bị đẩy lùi; nhưng ông phải đánh một thứ chiến tranh dài hơi: tiêu hao, liên kết, kiểm soát cửa biển và đồng bằng, từng bước siết lại trung độ miền Trung, rồi khép cung với Bắc Hà. Quan trọng hơn những chiến dịch là việc ông dựng nổi một bộ khung để quốc gia có thể vận hành sau tiếng súng: luật lệ được pháp điển hóa thành Hoàng Việt luật lệ năm 1815, đo đạc địa bạ để biến lãnh thổ từ ý niệm thành sổ sách, chuẩn hóa đơn vị hành chính để một mệnh lệnh trung ương có đường đi tới thôn ấp, củng cố thủy quân và thực thi chủ quyền ngoài khơi để biên giới không chỉ là đường núi mà còn là chuỗi đảo.
 
Khi Gia Long lên ngôi năm 1802, đó không phải động tác “phục quốc” của một triều vong, mà là hành vi lập quốc theo nghĩa nghiêm ngặt: hợp nhất một dải đất Bắc – Nam vào một khuôn quản trị chung, đem một danh xưng pháp lý mới đặt lên một thực thể chính trị có khả năng tự vận hành trong hòa bình tương đối. Không ai có quyền ăn mày hiện tại để kết án quá khứ; cũng như không ai có quyền rút sạch bi kịch con người khỏi bức tranh kiến lập nhà nước. Lịch sử đòi ta giữ đồng thời hai mệnh đề: công trình thống nhất – pháp điển – hành chính là sự thật, và cái giá nhân đạo phải trả trong chuyển tiếp quyền lực cũng là sự thật. Cả hai phải được ghi nhớ, để ký ức tập thể vừa có xương sống của luật – chế – cương vực, vừa có mạch máu của nỗi đau – lòng trắc ẩn.

Lịch sử, nếu chỉ bị chẻ vụn thành những mảnh ghép rời rạc để phục vụ cho nhu cầu bênh – chống, sẽ đánh mất chính linh hồn của nó: dòng chuyển động âm thầm nhưng bền bỉ của một cộng đồng đi tìm hình hài quốc gia. Cái nhìn trưởng thành về quá khứ không bắt đầu từ câu hỏi ai đúng ai sai, mà bắt đầu từ một kỷ luật tư duy: đặt các biến cố vào đúng quỹ đạo của thời đại đã sinh ra chúng; nhìn con người trong giới hạn và nhiệm vụ của khoảnh khắc họ buộc phải đảm nhận; hiểu rằng ý chí và thể chế vốn không cùng xảy ra trong một ngày.

Vì vậy, cách đọc trưởng thành không phải là chọn phe giữa Tây Sơn và Gia Long, mà là nhận ra nguyên lý vận động: một dân tộc đi tới quốc gia thường qua hai pha kế tiếp và đối nghịch – pha thanh lọc, phá thế cũ; pha kiến lập, định hình mới. Tây Sơn gánh phận việc thứ nhất, Gia Long gánh phận việc thứ hai. Đánh giá họ trên cùng một thước đo là bất công với cả hai; nhìn họ như hai nhịp của cùng một tiến trình thì công bằng tự xuất hiện.
 
Chúng ta hãy tự hỏi: Nếu Tây Sơn thất bại trước 1789, độc lập có thể giữ không?; nếu Gia Long thất bại sau 1802, thống nhất có thể thực hiện không? Không. Chắc chắn không.

Lịch sử, rốt cuộc, đã chọn đường ít tệ nhất cho bài toán thống nhất: lửa đến trước, hình đến sau. Lửa làm nóng, hình giữ ấm. Một quốc gia đứng được không phải nhờ mỗi chiến công rực rỡ, mà nhờ khả năng biến ký ức chiến công ấy thành luật, thành tổ chức, thành biên giới có thể đo vẽ và bảo vệ. Từ dải phù sa sông Hồng đến cực Nam Cà Mau, từ bờ biển Thuận An đến vòng san hô Hoàng Sa, sự tồn tại dài lâu không đến từ một bậc anh hùng, mà đến từ chuỗi vai lịch sử đã dám làm phần việc của mình trong giới hạn của thời đại.

Nhận thức trưởng thành vì thế không bám lấy khuynh hướng, không mượn lịch sử để đánh nhau bằng ngôn từ; nó học cách đứng thẳng trước cả hai tượng đài, để nói hai câu đơn giản mà khó: cảm ơn ngọn lửa đã trả lại ý chí tự chủ; cảm ơn hình khối đã cho ý chí ấy một thân thể để ở lâu trong thời gian. Chúng ta không cần tha thứ để hòa giải; chúng ta cần hiểu để không lặp lại chu kỳ phân liệt dưới những nhãn mới. Khi một cộng đồng đủ sức xây một đền thờ chung cho hai người từng đối đao mà cùng làm nên quốc gia, cộng đồng ấy đã bước ra khỏi ám ảnh tự thương tổn và bước vào tuổi trưởng thành của ký ức. Lịch sử, đến cuối cùng, không phải là bản cáo trạng hay bản tán dương; lịch sử là biên bản của một hành trình, nơi những mũi dao chém vào gỗ không nhằm hủy hoại tấm gỗ, mà để khắc lên đó một dáng hình có thể nhận ra từ xa là chính chúng ta.

Còn một khía cạnh vô cùng hệ trọng khác: Trong bối cảnh vẽ ra ở trên, việc nhiều người vẫn cho rằng, vẫn bám lấy một sự định kiến rằng Nguyễn Ánh là kẻ bán nước, liệu có phải là một cái nhìn đúng?
Tôi sẽ nói thẳng, theo cách điềm đạm của sử học, không dựa vào cảm xúc và cũng không dựa vào những khẩu hiệu đã làm nghẹt thở nhận thức lịch sử nhiều thập kỷ qua: muốn gọi một ai là “kẻ bán nước” thì phải chỉ ra được cả động cơ lẫn hành vi thực tế dẫn đến sự đánh đổi chủ quyền để đổi lấy lợi ích riêng, cùng với hệ quả pháp lý – lãnh thổ đã được đương sự tự nguyện ký thác cho ngoại bang; nếu không chỉ ra được những điều ấy, mọi cáo buộc đều không đứng vững. Trần Ích Tắc là một ví dụ cổ điển của mô hình ấy: giữa thế kỷ XIII, ông ta rời bỏ cộng đồng chính trị của mình, cầu viện Nguyên Mông để mưu đồ địa vị cá nhân, sẵn sàng chấp nhận vị thế phụ thuộc của đất nước dưới ách ngoại bang; ở đây có cả động cơ tư lợi, có cả hành vi quy thuận, có cả hệ quả tinh thần và chính trị rõ rệt.
 
Đặt Nguyễn Ánh cạnh mô hình đó để gán cùng một nhãn là một sự nhầm lẫn căn bản về bản chất lịch sử, bởi ở Nguyễn Ánh không hề có cấu phần cốt lõi nào của hành vi “bán nước”: ông không mưu cầu một ngôi vị dưới bóng cường quyền ngoại bang, ông không ký thác chủ quyền lãnh thổ cho ai, và sau khi giành được chính quyền ông đã làm điều ngược lại với logic “cầu vinh” — ông dành gần trọn một thập kỷ kế tiếp để củng cố một nhà nước tập quyền, pháp điển hóa luật lệ, đo đạc lãnh thổ, xác lập chủ quyền biển đảo và chốt lại một khung vận hành có thể đứng được bằng chính nó.

Nếu lần vào mạch thời gian, sẽ thấy cái gọi là “bán nước” bị thực tế tự nó phủ nhận. Từ sau những biến cố 1777 ở Gia Định, cho đến khi chiếm lại Phú Xuân 1801 và tiến ra Thăng Long 1802, Nguyễn Ánh sống một đời chính trị liên tục hai mươi bốn, hai mươi lăm năm trong chiến tranh – thất bại – tích lũy – quay lại, với một chiến lược dài hơi hiếm gặp ở khu vực: xây dựng và hiện đại hóa thủy quân, tổ chức hậu cần đường sông và đường biển, kiểm soát những cửa vào – đồng bằng – lưu vực, tiến dần từ Nam ra Bắc theo một trật tự quân sự – địa lý chặt chẽ.
 
Một kẻ “cầu vinh” sẽ không có đủ độ dai dẳng của thời gian để theo đuổi đến cùng một dự án chính trị mệt mỏi như thế, lại càng không có nhu cầu đổ vốn sinh lực vào những hạ tầng nhà nước khô khan như pháp điển, địa bạ, đơn vị hành chính và mạng lưới cai trị.
 
Người ta có thể phản đối sự lựa chọn đồng minh của ông trong những năm tháng kiệt quệ, nhưng không thể vì thế mà đánh tráo động cơ. Vay mượn công nghệ và nhân lực quân sự phương Tây, kể cả dựa vào trung gian của Pigneau de Béhaine và những giao ước từng được soạn thảo, là cách thức phổ biến của chính trị châu Á cuối thế kỷ XVIII; bản thân những sắp đặt ấy cũng chưa bao giờ chuyển hóa thành một chế độ nhượng địa hay bảo hộ theo nghĩa pháp lý. Khi đã nắm được chính quyền, ông không thiết lập quan hệ lệ thuộc; trái lại, ông xác lập quan hệ bang giao trên nền tảng chủ quyền, ông di lý quốc hiệu và thiết chế ngoại giao để nhà nước mới xuất hiện trong trật tự khu vực như một chủ thể độc lập, và ông triển khai nhất quán các công việc nội trị mà một người “đi tìm bóng che” không đời nào thấy cần: ban hành Hoàng Việt luật lệ năm 1815 như một khuôn pháp lý thống nhất, chỉ đạo đo đạc và lập địa bạ để biến lãnh thổ từ ý niệm thành sổ sách, chuẩn hóa đơn vị hành chính theo trật tự trung ương – địa phương để mệnh lệnh có đường đi đến xã thôn, củng cố thủy quân và thực thi chủ quyền ngoài khơi với những mốc thực chứng từ 1816 ở Hoàng Sa rồi liên tục dưới các đời sau.
 
Những dữ kiện đó, xét đến cùng, đều đi theo hướng ngược với động cơ “bán nước”: chúng không làm suy giảm mà làm dày lên năng lực chủ quyền của nhà nước.

Vấn đề hay bị đánh tráo ở đây là sự hiện diện của người Pháp trong những bước ngoặt đầu đời Nguyễn Ánh bị xem như nguyên nhân trực tiếp của cuộc thuộc địa hóa nhiều chục năm sau, rồi từ đó quay ngược để quy kết “bán nước”. Cách lập luận ấy không đứng vững về quy luật quốc tế lẫn chuỗi thời gian: chế độ thuộc địa thế kỷ XIX là kết quả của một kết cấu quyền lực toàn cầu đang vươn tay vào châu Á gần như mọi ngõ ngách, bất kể nơi đó có hay không những giao hảo ban đầu; không thể lấy một mối quan hệ mua sắm – huấn luyện – cố vấn trong bối cảnh nội chiến để quy chiếu sang một cơ chế xâm lược – sáp nhập nhiều thập kỷ sau rồi khép lại bằng bản án đạo đức cho một cá nhân. Lịch sử đòi hỏi sự công bằng tối thiểu: phân biệt những tầng nguyên nhân khác nhau, rạch ròi giữa hành vi chiến thuật để sinh tồn của một lực lượng nội bộ với những quyết định cưỡng đoạt của một đế quốc trong một thời đại đã khác.

Cũng cần thừa nhận một cách chín chắn rằng: sự hậu đãi hay vị thế của một số giáo sĩ hoặc nhóm người phương Tây dưới thời Gia Long có thể làm nhiều người hôm nay bất an khi đọc lại, và việc sử dụng nhân lực – khí giới ngoại quốc trong nội chiến dễ tạo ra cảm giác “mời giặc về nhà”. Nhưng ở bình diện cấu trúc, không có biểu hiện nào cho thấy nhà nước do Gia Long dựng lên là một nhà nước chấp nhận vị thế phụ thuộc: ông không nhượng lãnh thổ, không ký kết một chế độ bảo hộ, không đặt quân đội dưới quyền điều khiển ngoại quốc, không biến ngoại thương thành đặc quyền độc chiếm của một cường quốc; trái lại, ông ưu tiên những công việc cần thiết để bảo tồn sự độc lập thực tế của một quốc gia vừa mới hợp nhất.

Đem những chi tiết ấy đặt cạnh mô hình Trần Ích Tắc sẽ thấy hai quỹ đạo đạo đức – chính trị hoàn toàn khác nhau: bên kia là quy thuận để được phong, bên này là cầu viện để có thể tự đứng; bên kia là lựa chọn chủ quyền ngoại bang làm khung cho bản thân, bên này là sử dụng nguồn lực bên ngoài để hoàn tất một dự án nội sinh.

Sau rốt, một tiêu chuẩn giản dị mà nghiêm ngặt có thể dùng để thử độ vững của mọi cáo buộc: hãy hỏi “sau khi đạt được mục tiêu, người đó đã để lại cái gì cho năng lực chủ quyền của nhà nước?”; nếu câu trả lời là một nhà nước nhỏ đi, tước bỏ dần những năng lực bản thể, thì lời buộc tội mới có cơ sở; nếu câu trả lời là một nhà nước lớn hơn, chặt hơn, có luật, có sổ, có biên giới thực thi và một bộ máy vận hành ổn định, thì cáo buộc ấy tự nó tan. Trường hợp Nguyễn Ánh, nhìn vào 1802–1815 và những hệ quả trực tiếp của giai đoạn ấy, câu trả lời đã rõ. Có thể không đồng ý với mọi lựa chọn cụ thể, có thể phê bình cái giá nhân đạo của chuyển giao quyền lực, có thể tiếc nuối những cơ hội canh tân bị bỏ lỡ ở các đời sau, nhưng không thể chụp lên ông chiếc mũ “bán nước” mà không bóp méo ngôn ngữ đến mức phản sự thật.

Nhận thức lịch sử trưởng thành không phải là làm sạch một nhân vật để yêu mến cho yên lòng, mà là trả họ về đúng hình hài trong tiến trình: Nguyễn Huệ giải phóng quốc gia khỏi thế phân liệt và khỏi họa ngoại xâm gần kề; Nguyễn Ánh hoàn tất công việc lập quốc theo nghĩa nghiêm cẩn của nhà nước – lãnh thổ – pháp luật.

 Nếu ai đó có ý tưởng hay hình dung một đền thờ chung dành cho cả hai, tôi sẽ nhiệt thành ủng hộ. Đền thờ đó sẽ đó không có lời xin lỗi nào dành cho quá khứ và cũng không có lời ca tụng nào dành cho hiện tại; ở đó chỉ có sự công bằng tối thiểu của trí tuệ. Đền thờ đó là để học hỏi với khát vọng trưởng thành - là để đứng trước Nguyễn Huệ để nhớ rằng tự chủ là điều kiện tồn tại, đứng trước Gia Long để hiểu rằng thể chế là điều kiện kéo dài. Và ở giữa hai pho tượng ấy, những lời kết tội “bán nước” rơi khỏi vai lịch sử một cách tự nhiên, không phải vì chúng ta cố gắng bào chữa, mà vì chính chuỗi hành động – kết quả của một đời chính trị hai mươi mấy năm đã phủ nhận chúng.

PHỦ NHẬN HOÀN TOÀN.

By Trung Hoang

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét