楓橋夜泊
月落烏啼霜滿天,
江楓漁火對愁眠。
姑蘇城外寒山寺,
夜半鐘聲到客船
Phong Kiều dạ bạc
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hoả đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Dịch nghĩa:
Trăng lặn, quạ kêu, sương phủ đầy trời.
Hàng phong bên sông, ngọn đèn thuyền chài ở trước người đang ngủ buồn.
Ngoài thành Cô Tô là chùa Hàn San,
Tiếng chuông lúc nửa đêm vẳng đến thuyền khách.
Tản Đà dịch:
Đêm đỗ thuyền ở bến Phong Kiều
Trăng tà chiếc quạ kêu sương
Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn.
Đây là bài thơ của Trương Kế đời Đường, TQ. Tương truyền, ông làm bài này khi đến bến Phong Kiều và ngủ lại ở đó. Khi làm xong 2 câu đầu thì mãi ko viết được nữa. Lúc ấy sư cụ chùa Hàn Sơn cũng tức cảnh sinh tình làm thơ về trăng nhưng làm được 2 câu thì tắc, không kết được. Bấy giờ sư cụ khơi trầm thắp nhang xin Phật, thì kết ngay được một bài tứ tuyệt rất hay. Sư cụ mừng quá, sai chú tiểu lên đánh chuông tạ ơn Phật. Chùa không có gõ chuông lúc nửa đêm, nhưng đêm ấy tiếng chuông ngân nga giữa đêm khuya khiến mọi người đều lạ.