Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Trãi. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Trãi. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 8 tháng 8, 2024

GS. Trần Quốc Vượng: NGUYỄN TRÃI TRONG BỐI CẢNH VĂN HÓA VN


NGUYỄN TRÃI TRONG BỐI CẢNH VĂN HÓA VIỆT NAM

GS Trần Quốc Vượng 

I/ Nguyễn Trãi (1380-1442) sống và hoạt động trong một thời kỳ đầy biến động, đầy hoạn nạn và âu lo của lịch sử Việt Nam. Ông là con đẻ của thời đại ấy và là ngôi sao Khuê lấp lánh trên bầu trời lịch sử Việt Nam thời đại ấy.

Về chính trị xã hội, Nguyễn Trãi đã sống 20 năm cuối triều Trần (một quyền lực truyền thống đã xa đọa và gần như đã nằm trong tay không chế của Hồ Quý Ly), 7 năm dưới triều Hồ (một quyền lực đang xây dựng dang dở), 20 năm dưới thời thuộc Minh và chống Minh thuộc (một thời kỳ đầy bão táp của bạo lực bành trướng và đô hộ Trung Quốc, đầy bão của bạo lực quần chúng, của toàn thể dân tộc được tổ chức, vùng dậy đấu tranh chống bánh trướng và đô hộ Trung Quốc, giải phóng dân tộc, dành độc lập, tự do) và 15 năm đầu triều Lê, với những lộn xộn sau chiến tranhvà đảo lộn thân phận xã hội quá nhanh của một triều đại dân tộc lớn cuối cùng của của lịch sử Việt Nam, đã có xu hướng chuyên chế “ kiểu châu Á”.

Thứ Năm, 16 tháng 3, 2023

TÔN TẠO ĐỀN NHÀ LÊ: CỤ NGUYỄN TRÃI HAY ÔNG HOÀNG MƯỜI?

CỤ NGUYỄN TRÃI HAY ÔNG HOÀNG MƯỜI?
 
TS. Nguyễn Xuân Diện
 
Trong ba bức ảnh trên, bức tranh Ức Trai Nguyễn Trãi là tranh lụa cổ vốn ở đền thờ Cụ ở Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội). Bức tranh này được in trong SGK, trên các sách báo và trở nên vô cùng quen thuộc với tất cả mọi người Việt Nam. 
 
Trong khi tại Thái miếu Nhà Lê (còn gọi là đền Nhà Lê) ở Phường Đông Vệ, TP Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá có một khám thờ và tượng “Công thần Nguyễn Trãi” thì lại là một Nguyễn Trãi hoàn toàn khác, mình khoác áo vàng. 
 
Tượng Nguyễn Trãi ở Di tích Quốc gia (Xếp hạng năm 1995) Thái miếu Nhà Lê có vẻ giống như tượng Quan Hoàng Mười trong các đền phủ của tín ngưỡng thờ Mẫu. 
 
Khi ngắm nhìn tượng Nguyễn Trãi ở Thái miếu Nhà Lê trong tôi có rất nhiều suy nghĩ:
 
1- Có tài liệu lịch sử nào cho biết rằng Thái miếu có phối thờ Nguyễn Trãi (và Lê Lai) cùng 27 vị vua nhà Hậu Lê? 
 
2- Tại sao lại có Nguyễn Trãi và Lê Lai được phối thờ ở đây. Đối với Nguyễn Trãi, ông đã từng bị án “tru di tam tộc”.

Thứ Ba, 5 tháng 4, 2022

NGUỒN GỐC HAI CHỮ "VĂN HIẾN" TRONG BÀI "BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO"


Chung quanh hai chữ “Văn Hiến”
trong bài “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi:
Ai Đã Gọi Việt Nam Là Một Nước Văn Hiến?


Phạm Cao Dương

Văn hiến chi bang 

Câu văn “Duy ngã Đại Việt chi quốc thực vi văn hiến chi bang” mà học giả Trần Trọng Kim, trong Việt Nam Sử Lược dịch là: “Như nước Việt ta từ trước vốn xưng văn hiến đã lâu là một câu văn không một người Việt Nam gọi là có học nào không một lần có dịp được đọc và ghi nhớ. Câu này nằm ngay trong phần đầu của bài Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi, vị đệ nhất công thần triều Lê hồi đầu thế kỷ XV, thời dân tộc ta mới đánh đuổi quân Minh ra khỏi bời cõi, giành lại nền độc lập cho nước nhà.

Chủ Nhật, 21 tháng 2, 2021

HẬN NAM QUAN - Kịch thơ của Hoàng Cầm


Hận Nam Quan

Hoàng Cầm

Một đêm giăng mờ lạnh lẽo. Tiếng tiêu nào trên ngàn xa văng vẳng trong sương. Trên một khu rừng gần Ải Nam Quan, chi chít cây cối, có một bóng đen vạch cây, rẽ lá tìm đường.

Gần chỗ ấy, Nguyễn Phi Khanh bị giam trong một cái cũi lớn. Lúc đó đã nửa đêm. Bốn bề tịch mịch. Duy có tiếng tiêu vẫn réo rắt, não nùng. Thỉnh thoảng có tiếng mõ cầm canh xa xa. Hồi lâu, Phi Khanh hơi cử động và ngồi dậy.

Thứ Sáu, 31 tháng 1, 2020

Lê Văn Sinh: GƯƠNG SOI


 
GƯƠNG SOI

Năm Mậu thân (1428) kết thúc cuộc chiến mười năm chống xâm lược Minh, Lê Lợi lên ngôi vua, đặt niên hiệu Thuận Thiên.

Năm Quý sửu (1433), vua băng, ở ngôi được 6 năm.

Cùng năm đó, Hoàng Thái tử Nguyên Long (Thái Tông Văn Hoàng đế) nối ngôi cha. Năm sau, đặt niên hiệu Thiệu Bình .

Năm Đinh Tỵ (1437), Thiệu Bình thứ 4, Thái tông sai Nguyễn Trãi và Lương Đăng soạn lễ nhạc. Nhân đó, "Hành Khiển Nguyễn Trãi (chức quan tương đương Thứ trưởng ngày nay - LVS), dâng biểu vẽ khánh đá và tâu rằng: ' Kể ra đời loạn dùng võ, thời bình chuộng văn. Nay đúng là lúc nên làm lễ nhạc. Song không có gốc thì không thể đứng, không có văn thì không thể hành. Hòa bình (1) là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc. Thần vâng chiếu soạn nhạc không dám không dốc hết tâm sức. Nhưng vì học thuật nông cạn, sợ rằng trong khoảng thanh luật khó được hài hòa. Xin bệ hạ yêu nuôi muôn dân, để chốn xóm thôn không còn tiếng oán hận buồn than, như thế mới không mất cái gốc của nhạc.' Vua khen ngợi và tiếp nhận. Sai thợ đá huyện Giáp Sơn lấy đá ở núi Kính Chủ để làm " (2). 

Thứ Ba, 30 tháng 10, 2018

Ý KIẾN TRÁI CHIỀU VỀ VIỆC VẼ RA XÂY ĐỀN NGUYỄN TRÃI MỚI


Đền thờ Nguyễn Trãi tại làng Nhị Khê. Ảnh: PV. 
Ý kiến trái chiều việc xây thêm đền thờ Nguyễn Trãi 
VNE 
Thứ hai, 29/10/2018, 20:20 (GMT+7) 
Nhiều người cho rằng đền thờ Nguyễn Trãi tại làng Nhị Khê nhỏ hẹp không xứng với bậc danh nhân nên cần xây mới.

Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi quê ở tỉnh nào?

Huyện Thường Tín (Hà Nội) đang tham vấn ý kiến các nhà khoa học xây dựng Khu lưu niệm anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi.

Thứ Tư, 10 tháng 10, 2018

NHẠC GIAO HƯỞNG PHỤC VỤ CHO AI?


Chu Mộng Long

NHẠC GIAO HƯỞNG PHỤC VỤ CHO AI?

Bà Quyết Tâm coi như đã thành công khi thuyết phục Hội đồng nhân dân TP Hồ Chí Minh thực hiện quyết tâm xây nhà hát giao hưởng trị giá trên cả ngàn tỉ đồng.

Theo tôi, khách quan mà nói, một công trình văn hóa mang tầm nhân loại được xây dựng tại thành phố hòn ngọc Viễn Đông là xứng đáng, nếu hiện tại đúng là hòn ngọc Viễn Đông.

Nghệ thuật đỉnh cao mang lại lợi ích ngàn đời chứ không thể tính toán ích lợi trước mắt.

Thứ Bảy, 25 tháng 8, 2018

VÂN ĐỒN - LỜI TIÊN TRI VÀ CẢNH TỈNH CỦA NGUYỄN TRÃI


Lời tiên tri và cảnh tỉnh của Nguyễn Trãi

Nguyễn Xuân Hưng
8 -8-2018
 


Bài thơ “Vân Đồn” (雲屯) của Nguyễn Trãi bằng chữ Hán như sau:

路入雲屯山復山, 
天恢地設付奇觀。 
一盤藍碧澄明鏡,
萬斛鴉青鬌翠鬟。
宇宙頓清塵海岳,
風波不動鐵心肝。 
望中岸草萋萋綠, 
道是藩人駐舶灣。

Phiên âm:
 

Lộ nhập Vân Đồn sơn phục sơn
Thiên khôi địa thiết phó kỳ quan
Nhất bàn lam bích trừng minh kính
Vạn hộc nha thanh đỏa thuý hoàn
Vũ trụ đốn thanh trần hải nhạc
Phong ba bất động thiết tâm can
Vọng trung ngạn thảo thê thê lục
Đạo thị phiên nhân trú bạc loan.

Dịch nghĩa:


Đường vào Vân Đồn núi non trùng điệp
Trời đất cao rộng rõ là cảnh diệu kỳ
Cả một mặt phẳng màu xanh biếc, nước trong như gương sáng
Hàng vạn ô màu huyền xanh như mái tóc rũ
Vũ trụ bỗng thể hiện rõ ràng qua dáng núi và biển
Sóng gió chẳng lay chuyển được tâm can vững chắc
Nhìn vào thấy bờ cỏ màu lục xanh dờn
Thấy nói người thiểu số xưa từng đỗ thuyền trong vịnh.

Thứ Sáu, 6 tháng 10, 2017

NHỮNG BỨC TRANH LỤA CỔ NHẤT VIỆT NAM


NHỮNG BỨC TRANH LỤA CỔ NHẤT VIỆT NAM

Trang Thanh Hiền

Tranh lụa Việt Nam có thể đã có một lịch sử lâu đời, nhưng những tác phẩm vẽ trên chất liệu lụa cổ nhất hiện còn được lưu giữ đến ngày nay là ba tác phẩm chân dung Nguyễn Trãi, Phùng Khắc Khoan và Trịnh Đình Kiên. Chúng có niên đại khá muộn khoảng thế kỷ XVIII - XIX thuộc giai đoạn nghệ thuật thời Hậu Lê. Đây cũng là giai đoạn mà các tranh chân dung đặc biệt phát triển, và thường do các hoạ sĩ cung đình vẽ.

Thứ Bảy, 19 tháng 7, 2014

MỘT CUỐN TỪ ĐIỂN RẤT QUÝ, RẤT CÔNG PHU VỪA ĐƯỢC ẤN HÀNH

.
CÙNG KHƠI ĐỈNH TRẦM 
TƯỞNG VỌNG ĐẠI THI HÀO NGUYỄN TRÃI

Lâm Khang Nguyễn Xuân Diện
Tôi xin trân trọng giới thiệu với tất cả những ai trân quý và có lòng mong muốn hiểu nhiều hơn nữa về văn hóa và ngôn ngữ của Đại Việt một công trình rất công phu, rất giá trị của bạn tôi: Tiến sĩ Trần Trọng Dương, cuốn Nguyễn Trãi Quốc âm từ điển.

Ở Việt Nam, đây là lần thứ 3 có một cuốn từ điển riêng về một tác phẩm. Hai từ điển trước là Từ điển Truyện Kiều (của Đào Duy Anh) và Từ điển Lục Vân Tiên (Nhóm Nguyễn Quảng Tuân).

Cuốn từ điển gồm 478 trang, cỡ chữ nhỏ li ty, trong cuốn sách khổ 16 x 24 cm. Sách được Trần Trọng Dương (sinh năm 1980) hoàn thành trong 5 năm (2010 – 2014) bằng tất cả tấm lòng nâng niu trân trọng đối với di cảo của Đại thi hào Nguyễn Trãi và Chữ Nôm – thứ chữ do người Việt Nam sáng tạo dựa trên ký tự chữ Hán để ghi âm tiếng Việt khiến người Trung Hoa không đọc được. 5 năm lầm lụi với các phiếu từ điều, trong hoàn cảnh ốm đau, vợ thất nghiệp và đang bụng mang dạ chửa, khi ngoài kia Thăng Long đã cập đến đại lễ 1.000 năm tuổi với cờ phướn rợp đất, trống phách vang trời, với các gói dự án được chi tiêu bạt mạng và vô lối. Trong niềm đau ấy, Trần Trọng Dương đã đề từ bằng mấy câu thơ cho cuốn sách của mình: 

Thứ Ba, 30 tháng 8, 2011

NHỮNG BỨC TRANH LỤA CỔ NHẤT VIỆT NAM

Chùm bài về mỹ thuật cổ:
Bài 1: Những bức tranh lụa cổ nhất Việt Nam
Trang Thanh Hiền

Tranh lụa Việt Nam có thể đã có một lịch sử lâu đời, nhưng những tác phẩm vẽ trên chất liệu lụa cổ nhất hiện còn được lưu giữ đến ngày nay là ba tác phẩm chân dung Nguyễn Trãi, Phùng Khắc Khoan và Trịnh Đình Kiên. Chúng có niên đại khá muộn khoảng thế kỷ XVIII - XIX thuộc giai đoạn nghệ thuật thời Hậu Lê. Đây cũng là giai đoạn mà các tranh chân dung đặc biệt phát triển, và thường do các hoạ sĩ cung đình vẽ.

Các việc vẽ tranh như vậy vào triều Lê Trịnh đã được đặt thành những qui tắc chặt chẽ do Hoạ tất tượng cục (nơi lo các việc về mỹ thuật) đưa ra. Và không phải ai cũng được vẽ chân dung, chủ yếu là các quan lại, khanh hầu… Các bức tranh thường được vẽ ngay khi các nhân vật này còn sống và sẽ dùng nó để lưu giữ trong các từ đường sau khi họ khuất núi. Riêng bức Nguyễn Trãi hiện nay chưa xác định được niên đại cụ thể, nhưng có thể ông đã được người đời sau vẽ lại theo trí tưởng tượng, mặc dầu nhìn vào bức chân dung này người ta có thể dễ dàng hình dung ra một nhân vật trung hậu nhưng chịu nhiều oan khuất và dường như không hề có tính chất thần thánh hóa trên gương mặt nhân vật lịch sử này.
 
Chân dung Nguyễn Trãi
Các tranh chân dung thời này đa phần được vẽ trên giấy dó cao cấp, một số rất ít được vẽ trên lụa. Ba tác phẩm trên nằm trong số những tranh đặc biệt đó. Chất liệu lụa được sử dụng để vẽ tranh cũng khác xa với loại lụa mà các hoạ sĩ trường Cao đẳng Đông Dương sau này. Chúng thường là loại lụa khá dày, và thường không cần bồi phần hậu. Điều này cũng giúp cho các tác phẩm dường như không hề bị mối hoặc bọ cắn trong suốt nhiều thế kỷ. Tuy nhiên do vẽ những lớp màu dày trên mặt lụa và thường dùng theo dạng tranh cuộn, nên hiện trạng của chúng ngày nay ít nhiều đã bị bong tróc. Các màu của tranh lụa cũng như tranh giấy dó cổ xưa cũng khá phong phú. Vào thế kỷ XVII, XVIII, do triều đình chúa Trịnh ít nhiều đã có quan hệ với Tây phương, nên các màu trên các tranh giai đoạn này một phần được du nhập từ phương Tây vào như màu nước được dùng khá phổ biến. Ngoài ra các họa sĩ cung đình vẫn sử dụng một số màu có tính chất truyền thống như các màu được lấy từ tự nhiên, mực nho, bột đá, chu sa… Một số màu là màu bột của Trung Quốc. Màu thường được pha với một loại dầu thực vật hoặc hồ nếp để tạo độ kết dính. Ngoài ra, các hoạ sĩ còn sử dụng các loại vàng bạc xay nhuyễn để tạo các họa tiết như trên trang phục ở tranh Nguyễn Trãi. Kiểu đưa thêm các màu bằng kim loại quí này vào tranh cũng được dùng khá phổ biến, chúng có kỹ thuật tương tự như vẽ trên các sắc phong, với truyền thống khá lâu đời (khoảng thời Lê Sơ thế kỷ XV. 

Chân dung Trịnh Đình Kiên
Cũng do đã có sự giao lưu nhất định với Tây phương, nên trong mỹ thuật Việt Nam giai đoạn này ít nhiều đã có những sự pha trộn giữa thẩm mỹ phương Đông và phương Tây, mặc dầu cái căn cốt vẫn là mạch nguồn truyền thống. Chúng ta có thể thấy được các biểu đạt rất rõ rệt kiểu phương Đông là lối nhìn ngay ngó thẳng, và hoàn toàn không có sự diễn tả không gian xa gần như ở tranh vẽ Nguyễn Trãi, hoặc lối vẽ theo kiểu không gian ước lệ như bức vẽ ông Trịnh Đình Kiên. Tác phẩm này có niên đại muộn hơn tranh Nguyễn Trãi, nên không gian phẳng dẹt đã được thêm vào chiếc bình phong vẽ thuỷ mặc ở phía sau lưng. Các nếp áo của vị Thụy Trung hầu này cũng được miêu tả như có khối nổi, chứ không đơn thuần là các nét đen tạo điểm phân cách như trên trang phục của Nguyễn Trãi. Đặc biệt là khuôn mặt và bàn tay, cách miêu tả có vờn khối này là sản phẩm của sự pha trộn của hai dòng thẩm mỹ Đông Tây, chứ không đơn giản là dạng gợi tả bằng nét kiểu phương Đông cổ truyền.

Mặc dầu là ít ỏi, nhưng các tác phẩm này phần nào giúp chúng ta hiểu biết một cách sâu sắc hơn về một nền nghệ thuật trong quá khứ, mà ở đó tranh lụa đã có được một vị thế nhất định.