Hiển thị các bài đăng có nhãn Triều Lê. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Triều Lê. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 10 tháng 12, 2024

MUỐN CÓ NGƯỜI TÀI, TRƯỚC PHẢI DẸP BỌN TIỂU NHÂN


NGƯỜI XƯA NÓI VỀ VIỆC TIẾN CỬ, CHỌN LỰA VÀ SỬ DỤNG NHÂN TÀI
Thưa chư vị,
Chúng tôi xin giới thiệu ở đây bài văn làm trong kỳ thi Đình (làm tại sân triều đình) - do nhà vua ra đề bài, chấm bài, để phân hạng các tiến sĩ. Người đỗ đầu (đủ 10 phân) là Trạng nguyên. Đề bài thường hỏi về các vấn đề lớn của đất nước và về việc trị nước. Bài thi đó gọi là Sách văn đình đối. 

Bài văn dưới đây là sách văn đình đối đã mang lại lại danh hiệu Trạng Nguyên cho Nguyễn Trực (1417 - 1473) trong kỳ thi Đình năm Nhâm Tuất (1442), niên hiệu Đại Bảo thứ 3. Nguyễn Trực là vị Trạng nguyên đầu tiên của triều Lê. Tấm bia ghi về khoa thi này là tấm bia đầu tiên ở Văn Miếu, được dựng năm 1484.

Đề bài của vua Lê Thái Tông yêu cầu rằng: "Đức Thái tổ Cao hoàng đế ta lấy được thiên hạ, nhiều phen xuống chiếu cầu hiền mà không có một ai trúng tuyển. Trẫm từ khi lên ngôi tới nay, gắng sức trị nước, thế mà việc chọn nhân tài vẫn mịt mở thăm thẳm. Sao người quân từ khó tìm, kẻ tiểu nhân khó biết như vậy? Các ngươi hãy đem hết hiểu biết của mình trả lời, trẫm sẽ đích thân xem xét". Đấy! Lòng vua chân thành là vậy! Đời nay có theo kịp đời xưa chăng? 

Thứ Hai, 30 tháng 10, 2023

Nhật ký: THĂM LAM KINH

THĂM LAM KINH

Nguyễn Xuân Diện

Lam Kinh là chính là Lam Sơn, một vùng núi và là nơi phát tích của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Lam Kinh có diện tích quy hoạch 200 héc ta, thuộc địa bàn hai huyện Thọ Xuân và Ngọc Lặc tỉnh Thanh Hóa và cách TP Thanh Hóa hơn 50 km về phía Tây Bắc. 
 
Năm 1430, hoàng đế Lê Lợi cho đổi Lam Sơn thành Tây Kinh (tức Lam Kinh). Ba năm sau, các cung điện được xây dựng ở đây, có lẽ ban đầu là nơi tổ chức thiết triều, như một kinh đô thứ hai. Nhưng cũng trong năm đó, sau khi hoàng đế Lê Lợi băng hà, di hài được đưa về đây để an táng tại Vĩnh Lăng, thì Lam Kinh chính thức trở thành một sơn lăng. Và những cung điện to lớn được xây dựng các năm sau đó chủ yếu để phục vụ cho vua và hoàng tộc mỗi khi về thăm quê, bái yết sơn lăng như một biệt điện, hành cung. 
 
Trải qua 6 thế kỷ thăng trầm, qua nhiều biến cố, Lam Kinh trở thành phế tích.
 

Thứ Năm, 16 tháng 3, 2023

TÔN TẠO ĐỀN NHÀ LÊ: CỤ NGUYỄN TRÃI HAY ÔNG HOÀNG MƯỜI?

CỤ NGUYỄN TRÃI HAY ÔNG HOÀNG MƯỜI?
 
TS. Nguyễn Xuân Diện
 
Trong ba bức ảnh trên, bức tranh Ức Trai Nguyễn Trãi là tranh lụa cổ vốn ở đền thờ Cụ ở Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội). Bức tranh này được in trong SGK, trên các sách báo và trở nên vô cùng quen thuộc với tất cả mọi người Việt Nam. 
 
Trong khi tại Thái miếu Nhà Lê (còn gọi là đền Nhà Lê) ở Phường Đông Vệ, TP Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá có một khám thờ và tượng “Công thần Nguyễn Trãi” thì lại là một Nguyễn Trãi hoàn toàn khác, mình khoác áo vàng. 
 
Tượng Nguyễn Trãi ở Di tích Quốc gia (Xếp hạng năm 1995) Thái miếu Nhà Lê có vẻ giống như tượng Quan Hoàng Mười trong các đền phủ của tín ngưỡng thờ Mẫu. 
 
Khi ngắm nhìn tượng Nguyễn Trãi ở Thái miếu Nhà Lê trong tôi có rất nhiều suy nghĩ:
 
1- Có tài liệu lịch sử nào cho biết rằng Thái miếu có phối thờ Nguyễn Trãi (và Lê Lai) cùng 27 vị vua nhà Hậu Lê? 
 
2- Tại sao lại có Nguyễn Trãi và Lê Lai được phối thờ ở đây. Đối với Nguyễn Trãi, ông đã từng bị án “tru di tam tộc”.

Thứ Sáu, 12 tháng 2, 2021

QUA 6 THẾ KỶ, BÀI VĂN CÒN NGUYÊN GIÁ TRỊ

QUA 6 THẾ KỶ, BÀI ĐÌNH ĐỐI CỦA TRẠNG NGUYÊN NGUYỄN TRỰC VẪN NGUYÊN GIÁ TRỊ

Hoàng Quốc Hải                                    

Trạng nguyên Nguyễn Trực ( 1417- 1474 ) nổi tiếng tài năng, đức độ và khiêm nhường. Trong sự nghiệp của  ông, chính sử nói cũng lắm, mà dã sử nói cũng nhiều, đủ biết ông được đời yêu trọng.              

Nghe nói đương thời Nguyễn Trực hay thơ, giỏi văn, trứ tác khá nhiều, vậy mà ngày nay ta chỉ còn được thấy trọn vẹn bài Sách vấn nổi tiếng trong cuộc thi đình khoa Nhâm tuất ( 1442 ) của ông. Thật ra chỉ xét riêng bài Văn sách này cũng đủ biết tài năng và nhân cách của ông.

Thứ Hai, 23 tháng 7, 2018

CHUYỆN HAI BÀ HOÀNG CÙNG TÊN, CÙNG LÀ VỢ VUA LÊ THẦN TÔNG

Tượng Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc. (Bảo tàng Mỹ thuật VN).
Chuyện đời...

Nhà văn Trần Thanh Cảnh
BĐS Việt Nam

Là chuyện đời của hai người đàn bà cùng họ tên, cùng chồng. Một người quê vùng Kinh Bắc. Một người sinh sống ở kinh thành, về ở, rồi chết cũng chôn nơi đây.

Họ đều có tên là Trịnh Thị Ngọc Trúc. Trong Đại Việt Sử Ký toàn thư còn ghi đầy đủ. Chồng họ là ông vua Lê Thần Tông đời Lê Trung Hưng. Ông vua này trị vì nước ta từ những năm 1619 - 1662. Giữa họ chỉ có điều khác nhau là một bà được phong hoàng hậu, còn một bà thì không.

Thứ Năm, 2 tháng 11, 2017

CHÚA TRỊNH SÂM BAN LỆNH DUY TRÌ MỘT CỔ TỤC Ở XỨ ĐOÀI


Thông báo Hán Nôm học 2015:
.
TỤC ĐÁNH CÁ THỜ Ở XỨ ĐOÀI QUA MỘT LỆNH CHỈ 
CỦA TĨNH ĐÔ VƯƠNG TRỊNH SÂM

TS. Nguyễn Xuân Diện

Vừa qua, chính quyền và nhân dân thôn Vật Yên, xã Vật Lại, huyện Ba Vì, Hà Nội có nhờ chúng tôi dịch giúp một số văn bản Hán Nôm, trong đó có một tờ lệnh chỉ[1] do Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm[2] ban cho dân thôn vào năm Cảnh Hưng năm thứ 28 (1767). Văn bản gốc hiện đang được lưu giữ tại địa phương.

Thứ Tư, 4 tháng 10, 2017

THỜI THỊNH TRỊ HỒNG ĐỨC CÓ MỘT ĐÊM TRUNG THU KHÔNG TRĂNG

"ĐÊM TRUNG THU KHÔNG TRĂNG"
Một bài thơ Nôm thời Hồng Đức

Nguyễn Đăng

Sách Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề ghi chép về Bảng nhãn Nguyễn Toàn An, có đoạn viết: 

Ông người làng Thời Cử, huyện Đường An (nay thuộc huyện Mỹ Văn, tỉnh Hải Hưng), thuở hàn vi phải sung làm lính cắt cỏ nuôi ngựa trong cấm cung. 

Một đêm trung thu, vua Lê Thánh Tông cùng quần thần hội họp trước sân điện đón trăng. Chẳng ngờ đêm ấy trăng thu không tỏ, nhà vua bèn ra đề: “Đêm thu vô nguyệt” (Đêm trung thu không trăng), sai các quan ngâm vịnh. Bữa ấy Nguyễn Toàn An đến phiên hầu tiệc, ông cảm xúc nảy nở ra tứ thơ, bèn mạnh dạn dâng lên. Bài thơ có hai câu thơ kết là: 

Chủ Nhật, 19 tháng 2, 2017

VĂN HÓA ĐẠI VIỆT TRONG THẾ ĐỐI THOẠI VỚI TRUNG HOA

.
Văn hóa Đại Việt trong thế đối thoại với Trung Hoa
- Vai trò của các chúa Trịnh thời Lê Trung Hưng

Nguyễn Xuân Diện & Trang Thanh Hiền

Mở đầu

Thời gian gần đây, đã có nhiều cuộc hội thảo về Chúa Trịnh thu hút được sự quan tâm của giới học giả nhiều lĩnh vực. Nhiều vấn đề về chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục, quân sự … của thời đại Lê Trịnh (hoặc từng vị Chúa Trịnh) được các nhà nghiên cứu đưa ra thảo luận, đánh giá.

Thứ Tư, 17 tháng 10, 2012

NẾU KHÔNG TỰ LƯỢNG PHẬN MÌNH...


Nếu không tự lượng phận mình …

Bùi Xuân Đính 

Nguyễn Quý Đức (1648 - 1720), người làng Đại Mỗ, huyện Từ Liêm (thành phố Hà Nội), đỗ Đình nguyên - Thám hoa khoa Bính Thìn, niên hiệu Vĩnh Trị, đời Vua Lê Hy Tông (năm 1676), đảm nhận nhiều chức trách quan trọng dưới hai đời vua Lê : Hy Tông (1676 - 1705) và Dụ Tông (1705 - ?), cao nhất là Tham tụng (Tể tướng), được cử đi sứ sang nhà Thanh. Ông là nhà chính trị tài ba, nhà văn hóa, nhà thơ, nhà sử học. Sử cũ ghi lại, ông “là người rộng rãi, trung hậu và trầm tĩnh, từ cách cư xử đến cách thù tiếp đều tỏ ra vui vẻ và dễ dàng, nhưng khi bàn luận chính sự, hễ thấy việc gì còn chưa thoả đáng thì kiên trì ý kiến đến vài bốn lần, vững chắc không thể lay chuyển được. Ông làm quan Tham tụng, đứng đầu bách quan hàng hơn mười năm, làm chính sự cốt ở khoan hòa và trung hậu, được nhiều người suy tôn và noi theo. Dư luận phần nhiều khen ngợi ông. Sau khi mất, ông được truy tặng chức Thái tể, sai quan đến trông nom việc tang, lại phong làm Phúc thần. Con ông là Nguyễn Quý Ân, cháu nội là Nguyễn Quý Kính đều là những bậc đại thần của triều Lê - Trịnh, đều được phong Phúc thần, nhiều làng xã thuộc huyện Từ Liêm thờ làm thành hoàng, gọi là “Tam vị đại vương”.