Thứ Hai, 23 tháng 1, 2012

NGUYỄN XUÂN DIỆN-BLOG CHÚC MỪNG NĂM MỚI NHÂM THÌN


Thưa chư vị,

Chúng ta vừa trải qua giây phút giao thừa linh thiêng. Vũ trụ giao hòa trong cuộc chuyển giao huyền bí. Và khí ấm dương hòa đã bắt đầu lan tỏa. Bên bàn thờ, trong khói trầm thơm ngát, tổ tiên về chứng giám. Trong mỗi ngọn chùa, nhà thờ, đền đài, miếu điện...các vị thần linh đã hiển linh giữa nhân gian, dõi theo mỗi việc ta làm, mỗi lời ta  nói, để rồi âm phù cho chúng ta. Có hạnh phúc nào hơn, khi ta được làm con người giữa thế gian!

365 ngày qua, chúng ta đã đi qua biết bao sướng khổ của kiếp người, đã từng khóc cười cùng nhau, không hò hẹn mà đã thành tri âm tri ngộ. Xin cảm tạ đất nước ông bà tổ tiên đã cho chúng ta hạnh ngộ bên hiên trà này, để rồi thành ra "khó gặp nhau mà cũng khó xa"(Lý Thương Ẩn).

Trong giờ phút tưởng vọng tổ tiên, chúng ta cùng nhớ lại mùa hè rực lửa vừa qua, chúng ta đã có cùng nhau mối quan tâm đến vận mệnh đất nước, đã hồi hộp dõi theo mỗi bước chân đi, mỗi lời hô ứng.

Chúng ta cùng nhớ lại những giây phút lo lắng cho nhau như anh em ruột thịt, mỗi khi biết tin ai đó đang găp chuyện chẳng lành. Rồi sẻ chia với nhau qua từng con chữ, từng hình ảnh. Đã nếm trải những cay - đắng - ngọt - bùi cùng nhau, tương thân tương ái, tương kính tương lân.

Bây giờ, Xuân mới đã bước lên thềm nhà, đã vào trong từng mái nhà. Ta nắm tay nhau, nắm tay Xuân để cùng hò hẹn, cùng yêu thương và sẻ chia.

Hiên trà nhỏ bé này, đã là nơi gặp gỡ của chúng ta, tự nhiên như là như thế! Trong giây phút mới mẻ, tinh khôi của những thời khắc đầu năm, Lâm Khang chủ nhân xin nghiêng mình cảm tạ chư vị đã ghé thăm trong suốt năm qua, kể cả ở ngôi nhà cũ (nguyenxuandien.blogspot.com) và ngôi nhà các vị đang ghé thăm đây. Trong giây phút bối rối này, xin nắm tay chư vị và nói lời cảm ơn chân thành, cùng lời chúc tốt lành nhất!

Nhân ngày đầu năm, xin cầu nguyện để tất cả những ai đã từng dù chỉ một lần ghé thăm hiên trà này luôn được bằng an, hạnh phúc và thành công trong cuộc sống và công việc. Xin cảm tạ chư vị đã dành cho hiên trà này tình cảm ấm áp, chia sẻ động viên trong thời gian qua và cả thời gian tới. 

Mùa Xuân đã về trên đất nước Việt Nam! Xin cầu nguyện tổ tiên ban tặng hồng phúc cho tất cả chúng ta!
Lâm Khang Nguyễn Xuân Diện bái đề!

Chủ Nhật, 22 tháng 1, 2012

ĐÊM GIAO THỪA: LẠI NÓI VỀ CHUYỆN CHỮ TÂM CỦA NGƯỜI TRÍ THỨC

LẠI NÓI VỀ CHUYỆN CHỮ TÂM CỦA NGƯỜI TRÍ THỨC
Đào Tiến Thi
Nhân chủ đề TÀI và TÂM mà TS. Nguyễn Thị Từ Huy nêu ra (Blog Nguyễn Xuân Diện ngày 21-1-2012 (28 Tết), tôi muốn góp thêm một chút. Trong bài của chị Từ Huy (T.H), chữ “tài” và chữ “tâm” thực tế không phải là “tài” và “tâm” nói chung mà là “tài” và “tâm” của người TRÍ THỨC. Còn bài này chỉ bàn về chữ TÂM của người trí thức mà thôi.
Nhân chị T.H nhắc đến bài thơ Bán vàng của Nguyễn Duy, nên thay cho mở bài, tôi xin chép hầu quý độc giả một đoạn. (Tôi thuộc bài thơ này ngay khi nó đăng lần đầu ở báo Văn nghệ khoảng 1987 - 1988):
Tâm hồn ta là một khối vàng ròng
Đành đem bán bớt đi từng mảnh nhỏ
Mảnh này vì con, mảnh này vì vợ
Mảnh này vì cha mẹ, em ta
Giữ ngọc gìn vàng biết mấy công phu
Ta giàu lắm mà con ta đói lắm
Ta vương giả mà vợ ta lận đận
Cha mẹ ta trong lụt bão trắng trời
Ta mơ màng, ta uốn éo, ta lả lơi
Để mặc kệ mái nhà xưa dột nát
Mặc kệ áo quần thằng cu nhếch nhác
Mặc kệ bàn tay mẹ nó xanh xao
Ta rất gần bể rộng với trời cao
Để xa cách những gì thân thuộc nhất
Nồi gạo hết lúc nào ta chả biết
Thăm thẳm nỗi lo, mắt vợ u sầu
Viên thuốc nào dành để lúc con đau
Vợ nằm đó xoay sở mần răng nhỉ ?
Cơn hoạn nạn bỗng làm ta tĩnh trí
Ngọn gió tha hương lạnh toát da gà
Cái ác biến hình còn lởn vởn quanh ta
Tai ách đến bất thần không báo trước
Tờ giấy mong manh che trở làm sao được
Một câu thơ chống đỡ mấy mạng người…
Nhân vật trữ tình ở đây là một nhà thơ, tức là người trí thức. Anh ta tự nhận “Tâm hồn ta là một khối vàng ròng” nhưng mà rồi “Đành đem bán bớt đi từng mảnh nhỏ/ Mảnh này vì con, mảnh này vì vợ/ Mảnh này vì cha mẹ, em ta…”
Thế mới biết cuộc mưu sinh nó ác lắm. Xuân Diệu cũng từng viết:
Nỗi đời cơ cực đang giơ vuốt
Cơm áo không đùa với khách thơ
Bởi vậy, tuy tôi chia sẻ với nỗi bức xúc của chị T.H về lối sống thực dụng “sát sạt” của nhiều trí thức hiện nay, nhưng tôi vẫn nhìn ở sự thông cảm nhiều hơn.
Một ông giáo sư dù tài giỏi đến mấy thì cũng phải sống cuộc đời thường như tất cả mọi người, không phải là thánh. Cho nên, cái ông giáo sư mà chị T.H nói đến, theo tôi, cũng chưa chắc (chưa chắc thôi) đã là người xấu. Bởi vì tuy việc đọc nhận xét luận văn của ông có chế độ của nhà nước nhưng cái giá này quá bèo. Nếu đọc cho kĩ thì rõ ràng nó chẳng tương xứng tí nào. Cho nên theo lệ thường đã từ rất lâu rồi, bất cứ ai đưa đọc luận văn, dù luận văn cao học (thạc sỹ) hay nghiên cứu sinh (tiến sỹ) đều có khoản thù lao thêm cho thầy. Và tôi nghĩ thế cũng là chính đáng. Vấn đề là nhận thế nào cho phải chăng. Theo tôi, ông thầy không đòi hỏi, mà nếu trò có đưa nhiều thì nên trả bớt lại, nhất là với trò nghèo, và nhất là với trò nghèo mà lại giỏi. Càng không nên vì tiền nhiều tiền ít mà nhận xét sai lạc luận văn. Lương tâm là ở chỗ ấy, chứ không phải cứ nhận tiền là mất lương tâm. Tôi có mấy giáo sư dạy mình hồi làm thạc sỹ, sau này luôn động viên tôi đi làm tiếp tiến sỹ, nhưng vì hoàn cảnh khó khăn nên tôi ngại đi. Có lần trong bàn tiệc có nhiều giáo sư bậc thầy, một giáo sư bảo tôi: “Nếu chú mày đi làm tiến sỹ, các thầy ở đây đều hết sức giúp đỡ, không ai lấy tiền của mày đâu”. Tôi nghĩ đó là một thái độ thành thực, sòng phẳng và tốt bụng. Tôi có một anh bạn là phó giáo sư ở một viện nghiên cứu nọ, một lần nhân đề cập chủ đề này, anh bảo: “Mình vẫn thường nhận tiền thù lao đọc phản biện. Nhận tiền thù lao này không những không xấu mà còn chính đáng. Còn ông nào không thích nhận thì tùy, thì cũng tốt thôi. Nhưng mình không chấp nhận có một ông nọ không nhận nhưng lại cầm phong bì đến cơ quan để bêu riếu người học trò đó trước mọi người”.
Đối với các bác sỹ, tầng lớp mà bây giờ dư luận xã hội hay chê trách, nhưng tôi không thấy họ xấu đến như thế. Lương họ còn thấp hơn cả lương giáo viên, việc thì lại vất vả hơn giáo viên. Và cũng chẳng dễ có việc làm thêm như giáo viên. Vậy thì lấy lý do gì để đòi hỏi quá nhiều ở họ? Lấy lý do gì để áp đặt vào họ cái gọi là Y ĐỨC, trong khi lại chẳng áp đặt những cái khác, cần thiết hơn, thực thi hơn, như QUAN ĐỨC, LẠI ĐỨC, CẢNH SÁT ĐỨC,… Mỗi lần đến bệnh viện, tuy cũng không ít những việc làm tôi bực mình, nhưng tôi thấy thương các thầy thuốc nhiều hơn là sự khó chịu. Hai mươi chín Tết năm ngoái, tôi đến bệnh viện Hòe Nhai (Hà Nội) để hỏi về tình trạng bệnh của vợ tôi (đang điều trị tại nhà), bác sỹ Đ.N.L vẫn rất chu đáo giải thích tình trạng bệnh của vợ tôi, hướng dẫn cách dùng thuốc, cách ăn uống hợp lý,… Và tôi thấy xung quanh các bác sỹ, các y tá vẫn làm việc tất bật như ngày thường (trong khi hầu hết các cơ quan đã nghỉ Tết), khiến tôi rất cảm động.
Trên kia là phần cảm thông của tôi. Cảm thông về những người làm khoa học nhưng đồng lương không đủ sống, vẫn phải lo toan kiếm sống bằng cách khác để con cái không đến nỗi tủi thân thua thiệt, nhưng chính họ lại chịu sự xét đoán cao hơn mọi người.
Tuy nhiên, tôi cũng xét đoán người trí thức khắt khe hơn TS. Nguyễn Thị Từ Huy ở chỗ khác. Cái TÂM của người trí thức theo tôi không thể chỉ trong ứng xử đời thường, trong những việc thuộc về VI MÔ như chị T.H nêu. Cái TÂM của người trí thức còn phải hướng tới những vấn đề VĨ MÔ, tức những vấn đề của đất nước, của nhân dân, và của thời đại nữa.
Theo tiêu chí đó, theo tôi hiện nay nước ta có 4 hạng trí thức:
1. Hạng đau đáu với vận mệnh đất nước và nhân dân. Xin lấy mấy câu của nhà văn Phạm Ngọc Luật viết về hạng trí thức này thay cho nhận xét của tôi: “Họ không mũ ni che tai. Không lạnh tanh máu cá. Không chép miệng triết lý vặt. Họ là những trí thức dấn thân. Họ nói và làm có thể không theo một khuôn phép thông lệ. Có thể nó đắng hơn mướp đắng, cay hơn ớt, xốc hơn mù tạt, nhưng không giả”.
Hạng thứ nhất này hiện nay chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ (không biết có nổi một phần nghìn hay không) và hiện nay đánh giá về họ có nhiều ý kiến trái ngược nhau. Thông thường, trong cộng đồng, họ bị chê là “hâm”, là “ngu”, là “điếc không sợ súng”, nhưng đấy chỉ là phần nổi của tảng băng trôi. Trong thâm tâm sâu thẳm, mỗi công dân vẫn nhìn họ với thái độ kính phục (tuy rằng đa số chỉ “kính nhi viễn chi” mà thôi), cho nên theo tôi họ là linh hồn của đất nước, nhân dân nhìn vào họ để lấy chút niềm tin vào cuộc sống. Vì những hoạt động của họ là vì đất nước và nhân dân, cho nên mặc dù nhà cầm quyền nhiều khi không ưa họ nhưng có lẽ vẫn thấy sự có mặt của họ là cần thiết, nhất là trong một số vấn đề “nhạy cảm” mà nhà nước thì không tiện hiện diện. Thử hỏi nếu không có họ thì làm sao hồi năm 2010, Hội Địa lý Hoa Kỳ sửa tên địa danh Hoàng Sa, Trường Sa vốn lúc đầu mang tên Trung Quốc? Nếu không có họ thì làm sao mới đây tạp chí Nature và tạp chí Science tuyên bố không cho đăng bản đồ Biển Đông có hình lưỡi bò?
2. Hạng có quan tâm, có “biết cả”, cũng đau khổ, cũng bức xúc ít hoặc nhiều nhưng nhìn chung không động tay động chân một việc gì cho sự nghiệp chung cả. Lý lẽ của họ là “chả làm gì được đâu”, và họ quay sang giữ lấy sự an toàn và hạnh phúc cho riêng mình, không chấp nhận bất cứ thứ hệ lụy nào do “hành động cao cả” mang lại. Hạng thứ hai này có lẽ là đông đảo nhất trong giới trí thức hiện nay. Điều đáng chú ý là họ còn lương tâm, thậm chí nhiều người rất tốt, nhưng họ chỉ dùng một nửa lương tâm thôi, tức là chỉ dành cho những việc thuộc phạm vi gia đình, anh em, bè bạn,... Tuy nhiên, ngay cả những đối tượng đó, sự tương trợ cũng chỉ khi nào nó không gây hệ lụy cho họ. Trong trường hợp một đồng nghiệp cùng đơn vị, cơ quan bị đánh, dù đúng mười mươi, nhưng nếu sếp quyết tâm đánh thì họ cũng không dám bảo vệ. Vì vậy, yêu nước thương dân đối với họ là khái niệm quá xa xỉ, không thể với tới, không dám với tới. Với cách định nghĩa tuyệt đối “trí thức là những người làm những việc không liên quan gì đến mình” thì thực chất họ cũng không còn là trí thức nữa, mà chỉ là công chức, viên chức thôi. Nhưng ngay cả với tư cách công chức, viên chức, thì họ cũng chỉ đáng ghi nhận ở bản chất lương thiện. Nhưng nếu người lương thiện xét một cách đầy đủ, không phải là người ngồi nhìn cái ác hoành hành thì họ cũng không hẳn là lương thiện nữa. Cho nên dễ thấy một điều trên cả xã hội hiện nay: người tốt thì còn nhiều nhưng việc tốt thì quá ít.
3. Hạng không quan tâm các vấn đề xã hội, chỉ mải làm ăn, rất giỏi thu vén lợi ích cá nhân. Nếu có ai nói đến những vấn đề “bức xúc”, “nhạy cảm” thì họ tránh ngay, bảo “quan tâm đến nó làm gì, nhức đầu lắm”. Thực ra bảo họ không quan tâm đến chính trị hay bảo họ “vô cảm” thì chỉ đúng một nửa. Họ có thể không biết ông chủ tịch nước bây giờ là ai, hay có biết thì chỉ biết cái tên là cùng, chứ chẳng biết con người, học vấn, đạo đức, xu hướng tư tưởng,… của vị nguyên thủ quốc gia của mình thế nào, nhưng họ lại biết rất rõ về các sếp của mình, từ sếp trực tiếp cho đến sếp của sếp, từ sếp ông đến sếp bà: sếp ông thích cà vạt màu gì, sếp bà thích nước hoa gì, sinh nhật của con gái sếp là ngày nào, v.v.. Hạng thứ ba này theo tôi chiếm một tỷ lệ khá lớn, chỉ sau hạng thứ hai. Điều đáng buồn cho họ chưa phải là thái độ bàng quan, vô cảm hay thực dụng mà cái đáng buồn là ở chỗ: họ đã đổ vỡ hoàn toàn niềm tin. Nhiều người có địa vị, có học hàm học vị sáng choang, có cả nhiều tiền của nữa nhưng chả còn chút niềm tin gì. Họ sống trong sự trống rỗng, buồn tẻ nhưng đôi khi để khỏa lấp cái trống rỗng, buồn tẻ đó, họ vênh váo với thiên hạ bằng những thứ họ có (địa vị, học hàm học vị, tiền của chẳng hạn)
4. Hạng thứ tư, hạng trí thức thoái hóa hoàn toàn, dùng chất xám để buôn chính trị, hạng người mà một nhà thơ đã gọi là “điếm cấp cao”:
Điếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng
Điếm cấp cao bán miệng nuôi…thân (hay trôn)
Họ thường là những người thông minh, họ có một cái đầu nhạy cảm với mọi vấn đề của cuộc sống, cho nên đón ý quyền lực cũng rất tinh. Chỉ có điều họ dùng cái bẩm chất thông minh, nhạy cảm ấy hoàn toàn cho lợi ích cá nhân. Nếu hạng thứ ba phải mua địa vị, học hàm, danh hiệu bằng tiền thì hạng thứ tư này hoàn toàn bằng cái lưỡi rắn. Ví dụ, để tiến thân, cái lưỡi rắn dám phun nọc độc vào những người chân chính đang “có vấn đề”.
Hạng này cho đến nay chỉ là thiểu số nhưng có xu hướng đang phát triển.
Vẫn biết cuộc sống muôn màu muôn vẻ, trí thức thì cũng là người, có tốt có xấu, nhưng tôi vẫn cảm thấy buồn, nếu so sánh tầng lớp trí thức hiện nay với tầng lớp trí thức trước Cách mạng tháng Tám (chứ chưa dám so với trí thức các nước khác). Tầng lớp trí thức hiện nay về số lượng đông gấp hàng trăm lần so với tầng lớp trí thức trước Cách mạng. Học hàm, học vị thì rực rỡ mà trí thức thời trước không thể nào dám đọ. Nhưng so sánh về tính độc lập tư tưởng, về khả năng tác động vào đời sống xã hội, về tính tự chủ tự lập trong đời sống mưu sinh thì trí thức ngày nay thật khó sánh với cha ông cách đây chưa lâu. Chỉ cần để ý sự kiện đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu (1925), để tang Phan Châu Trinh (1926), phong trào đón tiếp Bùi Quang Chiêu và đòi thả Nguyễn An Ninh (1926) cũng đủ thấy vai trò to lớn của trí thức trong các phong trào xã hội thời ấy như thế nào.
Đ.T.T.
Đêm Giao thừa Tân Mão sắp sang Nhâm Thìn

KỶ NIỆM TÂN MÃO - thơ Hoàng Xuân Phú


Kỷ niệm Tân Mão

Tặng những người đã lên tiếng
bảo vệ chủ quyền biển đảo,
bảo vệ ngư dân và
bảo vệ quyền công dân

Ta lên tiếng
Họ biết ta là ai
Họ phản ứng
Ta biết họ là ai
Qua thử thách
Ta biết ta là ai

Vẫn vấn vương
Lo nỗi lo mất mát biên cương
Nặng tình thương
Đau nỗi đau chơi vơi nơi biển cả
Chả chịu chìm
Trong đớn hèn, ích kỷ
Còn biết sĩ
Để không cúi rạp mình
Giám tư duy
Để nghĩ suy những điều phải trái

Tân Mão qua
Ta thanh thản
Mừng
Ta chưa mất ta

Hoàng Xuân Phú
Hà Nội, 22.1.2012

RỒNG ĐÁ Ở ĐỀN LÊ VĂN THỊNH - thơ Chu Hảo

 Rồng đá
ở đền Lê Văn Thịnh *



Chu Hảo



Tai nghễnh ngãng không nghe kẻ sỹ
Mắt mù mờ không thấy hiền tài
Phũ phàng đầy đọa người trái ý
Ngàn năm còn mãi nỗi oan sai

Giận dữ ai nổi cơn thịnh nộ
Cắn xé thân mình răn đe ai
U mê mãi rồi cũng sám hối
Nguyên khí đâu mở lối Rồng bay




Kinh Bắc TẾT Nhâm Thìn 2012

dau-can


*) Lê Văn Thịnh, người Kinh Bắc, đỗ thủ khoa trong kỳ thi Nho học Tam trường đầu tiên ở Việt Nam do Vua Lý Nhân Tông tổ chức vào năm 1075. Ông làm quan trong triều đến chức Thị Lang Bộ Binh, có công lớn trong việc bàn nghị phân chia cương vực với Triều đình Nhà Tống để giành lại 6 huyện biên giới ( nay thuộc Cao Bằng ).Theo Đại Việt sử ký ( thời Nhà Trần ) và Đại Việt sử ký toàn thư ( thời Hậu Lê ) thì ông là một nghịch thần, có phép " hóa hổ" để mưu sát vua trên hồ Dâm Đàm ( Hồ Tây ngày nay ). Sau này có nhiều ý kiến cho rằng đó là một vụ án oan sai : Vua đã nghe lời xúc xiểm của bọn gian thần ghen tức với tài năng và đức độ của Lê Văn Thịnh mà đày đọa ông - một hiền tài. Ông đã bị Vua đầy lên miền sơn cước thượng lưu sông Hồng và chết trong quên lãng... Đây mãi vẫn là một nghi án, nhưng dân gian đời sau đã xây đền thờ Lê Văn Thịnh ngay trên nền ngôi nhà nơi Ông sinh ra ở núi Thiên Thai ( Bảo Tháp, Đông Cứu, Thuận Thành, Bắc Ninh) như để giải thoát cho nỗi oan khuất của Ông. Khoảng đầu những năm 90 TK trước, tình cờ người trông nom đền phát hiện ra một pho tượng Rồng đá cao khoang 0,8m, dài khoảng 1m. Đây thực sự là một tuyệt tác nghệ thuật: người nghệ sỹ khuyết danh ( có lẽ ở thời Hậu Lê ) đã khắc họa hình ảnh con Rồng " miệng cắn thân, chân xé mình " hết sức sinh động để người xem phải sửng sốt cảm nhận nỗi ân hận đắng cay của bạo chúa đã gây ra oan nghiệt. Rồng bạo chúa đã được người nghệ sỹ tài ba đặc tả với một bên tai không có lỗ.Cũng có ý kiến cho rằng Rồng đá này là biểu tượng của chính Lê Văn Thịnh. Chỗ hiểu khác nhau này xin dành cho bạn đọc lựa chọn theo cảm nhận của riêng mình.

CHÀO XUÂN NHÂM THÌN - thơ Nguyễn Trọng Vĩnh

Lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh. Chiều 27 Tết.
 Chào Xuân Nhâm Thìn
Nguyễn Trọng Vĩnh

Nhâm Thìn – “năm tuổi”*, tuổi càng cao
Sức khỏe nhùng nhằng cũng chửa sao!
Đầu óc tinh tường, chưa lú lẫn
Mặt mày tươi tỉnh, vẫn hồng hào
Đau lòng: Đất nước đương sa sút
Thương cảnh: Dân nhà phải lao đao
Có phải tại người chèo lái dở
Tưởng nên xem xét đổi đi nào!
N.T. V

*“Năm tuổi”: tôi tuổi Bính Thìn, Nhâm Thìn là “năm tuổi”.

Thứ Bảy, 21 tháng 1, 2012

QUÀ TẶNG BẠN ĐỌC: GIAI PHẨM TẾT NHÂM THÌN



Thưa chư vị,
Số TẾT của Nguyễn Xuân Diện - Blog đã đăng tải các bài sau, 
chư vị thích đọc bài nào, xin bấm vào bài đó để đọc:  
- Tảo mộ - tạp văn của Nguyễn Xuân Diện 
- Tết Ông Táo – truyền thuyết và nghi lễ 

- Mưa Xuântạp văn của Nguyễn Xuân Diện 
- Cây nêu ngày Tết, bài của Cao Ngọc Hóa. 
- Chồi Xuân - tạp văn của Nguyễn Xuân Diện 
- Rau Xuân - tùy bút của Kim Anh

- Chợ Tết xưa - Thơ Đoàn Văn Cừ và bưu ảnh cổ 
- Chân dung chợ Việt xưa khảo cứu của Trịnh Quang Dũng

 - Thú chơi tranh Tết của người Việt - Trang Thanh Hiền
 - Chữ trong tranh Đông Hồ - Phùng Hồng Kổn
- Tranh làng Sình, nét đẹp của văn hóa dân gian xứ Huế - Trang Thanh Hiền

- Ý nghĩa mâm ngũ quả ngày Tết - bài sưu tầm
- Triết lý Bánh Chưng Tết Việt - bài của Nguyễn Nhã 

- Các bài văn cúng trong dịp Tết Nhâm Thìn và hướng xuất hành - NXD sưu tầm 
- Tâm lý ngày Tết - Thượng Chi Phạm Quỳnh

- Vô minh và vô cảm - Chu Hảo
- Tâm và tài - Nguyễn Thị Từ Huy

- Tắm tất niên đón may mắn -  TT & VH
- Đêm giao thừa nhớ Mẹ - tùy bút của Trần Mạnh Hảo
- Tết trong ký ức tuổi thơ - tùy bút của Phùng Hoàng Anh.
- Mừng thọ cụ Hoàng Thị Tú Tâm 100 tuổi - Giáo sư Trần Đình Sử viết về mẹ

Chùm thơ Xuân:
- Chào Xuân Nhâm Thìn - Nguyễn Trọng Vĩnh
- Rồng đá ở đền Lê Văn Thịnh - Chu Hảo
- Kỷ niệm Tân Mão - Hoàng Xuân Phú
- Chùm thơ Khai bút của Trần Mạnh Hảo
- Thơ viết trước giao thừa - Trần Trương 
- Chùm thơ Khai bút Xuân Nhâm Thìn của độc giả 4 phương
- Trăn trở đêm giao thừa - Nguyễn Trọng Vĩnh 
- Ngày xuân khai bút - Nguyễn Đăng Hưng 

Chùm bài:
- Hồng phúc Việt Nam - Bùi Công Tự
- "Khép lại quá khứ, Không ngoái lại quá khứ” - Khai bút của Nguyễn Trung
- Lại nói chuyện về chữ Tâm của người trí thức - Đào Tiến Thi 
- Thư Sài Gòn: Thư Xuân chúc Tết bạn yêu nước ở xa 

Chùm bài về Rồng:
- Con Rồng đá kỳ lạ ở Chi Nhị - Nguyên Ngọc
- Chín con của rồng - Nguyễn Ngọc Thơ
- Rồng trong kho tàng mỹ thuật cổ - Lê Thiết Cương
- Giải mã hình rồng có đôi tay phụ nữ ở đền Vua Đinh - Trang Thanh Hiền
- Chuyện con Rồng xưa và nay - Thanh Phương (RFI)
 
Chùm bài về lễ hội Mùa Xuân:
- Nguyễn Xuân Diện trả lời PV RFA về Lễ Hội Mùa Xuân.
- Lễ hội Đền Và - Nguyễn Xuân Diện
- Du xuân miền quan họ: ngủ bọn ở nhà chứa - Nguyễn Xuân Diện

Chùm bài về Chiến thắng Đống Đa:
- Hồi ức về chiến thắng Đống Đa 1789 - Trọng Thành (RFI)
- Số phận Lê Chiêu Thống và đoàn tòng vong trên đất Trung Quốc - Đào Tiến Thi

Hết

Nguyễn Thị Từ Huy: TÂM VÀ TÀI

TÂM VÀ TÀI
Nguyễn Thị Từ Huy
“… không phải người Việt Nam không đủ tài để nhận ra hậu quả, không phải không đủ tài để đề xuất các giải pháp. Nhưng các giải pháp được lựa chọn, các quyết định được đưa ra, không phải xuất phát từ chữ Tâm. Do đó mà cái tài cũng bị triệt tiêu, bất chấp những nỗ lực tuyệt vọng của một số người.”
Cuối năm là thời điểm người ta nghĩ nhiều về tương lai. Vì năm mới thường mang theo những viễn tưởng về cuộc sống ở phía trước, về những gì mới mẻ và tốt đẹp. Tôi cũng không thoát khỏi tâm trạng chung đó. Và tôi thấy tương lai phụ thuộc vào hai chữ mà dường như Nguyễn Du đã đặt cạnh nhau trong thế đối lập: Tâm/Tài, trong câu thơ mà có lẽ tất cả những ai đã trải qua ghế nhà trường, và thậm chí không đến trường, cũng đều biết: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Tuy nhiên, hai chữ đó có thực sự là bị đặt vào thế đối lập không ?

Trước hết cần ý thức được rằng, trong một thế giới rất phát triển như thế giới của chúng ta ở thời điểm hiện nay, nếu chúng ta không có tài, tức là không có các năng lực trí tuệ, không có khả năng vươn tới sự bình đẳng với các nước khác, thì chắc chắn tương lai sẽ chẳng có gì đảm bảo. Vậy trong thế giới ngày nay cái tâm có ít quan trọng hơn cái tài không?

Trong câu thơ Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài, ý tưởng của Nguyễn Du khá rõ ràng: cần phải hiểu rằng cái tâm quan trọng hơn cái tài.

Tôi lấy một ví dụ ở lĩnh vực giáo dục để nói rằng nếu thiếu cái tâm thì cái tài cũng chẳng thể giúp người giáo viên thực hiện được trách nhiệm giáo dục.

Làm sao người thầy còn thực hiện được chức năng giáo dục khi bản thân ông ta không hành động đúng theo các “mệnh lệnh”1 của đạo đức? Một giáo sư gây khó dễ để buộc sinh viên phải mang tiền đến nhà mình rồi mới chịu đọc luận án của người sinh viên, cái luận án do chính mình hướng dẫn, thật khó hình dung giáo sư đó sẽ thực hiện bổn phận giáo dục của người giáo viên như thế nào, cho dù rằng trên lớp hay thậm chí trong những đối thoại hằng ngày ông ấy có ý thức dùng bài giảng hay những câu chuyện với mục đích giáo dục sinh viên. Hay thậm chí cả khi ông ấy lên án các hiện tượng cần phê phán trong xã hội, thì đối với những sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh mà ông đã nhận tiền, những lời phê phán ấy có giá trị ra sao ? Thậm chí nữa, cả khi ông ấy ca ngợi những điều tốt đẹp thì liệu những điều tốt đẹp ấy có bị sinh viên phán xét lại qua cái lăng kính nơi phản chiếu hành vi nhận tiền của ông, hay là họ dẹp những điều tốt đẹp ấy sang một bên, hay họ xem đó như là những món đồ trang sức ? Hay họ không còn có phản ứng gì nữa ? Họ tiếp tục nghe những điều tốt đẹp và tiếp tục đem tiền đến nhà thầy để cảm ơn thầy đã nói với họ những điều tốt đẹp ấy, và hơn thế, còn cho họ những con điểm đẹp.  Rồi đến lượt họ, họ sẽ nhận phong bì của học trò để lại tiếp tục rao giảng những điều tốt đẹp và lên án những điều xấu xa. Đây chính là tình huống tệ nhất. Các hành vi phản giáo dục của người thầy đã lãnh trọn hậu quả của chúng, đã thực thi những hiệu lực tồi tệ của chúng, cho dù ông có nói giỏi bao nhiêu chăng nữa. Nói giỏi là cái tài của người giáo viên, nhưng cái tâm thể hiện ở hành động nhận hối lộ từ học trò của ông ấy.

Tuy nhiên, hai chữ Tâm và Tài của Nguyễn Du có thể được diễn giải theo một cách khác. Có lẽ cần phải hiểu rằng chính cái tâm quyết định cái tài có phát triển được hay không. Cái tài sẽ không phát huy hiệu lực của nó khi không có cái tâm.

Nếu hiểu cái tâm tách biệt khỏi cái tài và quan trọng hơn cái tài, thì có thể giả định tình huống: nghèo cũng được, khủng hoảng cũng được nhưng chỉ cần giữ cái tâm là được. Nếu hiểu cái tâm quyết định cái tài, thì có thể giả định tình huống: sự nghèo hèn trên diện rộng, sự khủng hoảng, tình trạng tồi tệ, bất công, tội ác là do thiếu cái tâm mà ra. Vì cái tâm quyết định sự lựa chọn và hành động. Cái tâm sẽ quyết định rằng các giải pháp hữu hiệu (vốn là kết quả của cái tài) được thực hiện hay bị chối từ. Hãy nhìn sự xuống cấp của nền kinh tế, của nền giáo dục, của văn hóa, sự xuống cấp và khủng hoảng không thể chối cãi được của xã hội chúng ta hiện nay, nguyên nhân, theo tôi, không phải vì người Việt Nam bất tài. Giáo dục suy vi không hẳn vì giáo viên bất tài, và nếu giáo viên trở nên bất tài thì không hẳn vốn dĩ từ đầu đã bất tài. Giáo dục suy vi vì có những điều ai cũng biết là đúng và cần phải thực hiện, nhưng lại từ chối không thực hiện. Động cơ thúc đẩy sự từ chối đó không phải là vì thiếu tài, và không phải là vì thiếu người tài.

Các vấn đề về kinh tế không được giải quyết, hay sản xuất (điện, than, khoáng sản) bị thua lỗ, không phải vì không có các giải pháp hiệu quả. Mà các giải pháp hiệu quả hoặc đã không được đề xuất (do nghĩ rằng có đề xuất cũng chẳng ai nghe), hoặc đã đề xuất mà không được sử dụng. Hoặc các giải pháp hiệu quả bị loại trừ, các giải pháp tồi tệ thì được lựa chọn một cách cương quyết. Thực tế cho thấy rằng không ít những giải pháp thua lỗ đã được lựa chọn với một quyết tâm cao độ, bất chấp mọi sự phân tích hợp lý. Như vậy không phải người Việt Nam không đủ tài để nhận ra hậu quả, không phải không đủ tài để đề xuất các giải pháp. Nhưng các giải pháp được lựa chọn, các quyết định được đưa ra, không phải xuất phát từ chữ Tâm. Do đó mà cái tài cũng bị triệt tiêu, bất chấp những nỗ lực tuyệt vọng của một số người.

Nguyên nhân khiến cho cái tài của chúng ta hoặc không được sử dụng, hoặc bị cùn mòn, bị lãng phí đi, một phần (một phần thôi, dĩ nhiên) nằm trong câu trả lời mà Nguyễn Du đã đưa ra từ hai trăm năm trước. Và tại sao ông hỏi “Không biết ba trăm năm lẻ nữa/Thiên hạ ai người khóc Tố Như?”? Nếu chúng ta tiếp tục duy trì tình trạng như hiện nay, nếu mỗi cá nhân đem cái tâm của mình bán dần như bán vàng (tôi mượn một ý thơ của Nguyễn Duy), hay là bán dần như bán đất, cốt chỉ để đảm bảo cho sự tồn tại mang tính vật chất, hay sự tồn tại của chính vật chất (bởi vì nhà cửa, ô tô, tiền bạc trong tài khoản dĩ nhiên tồn tại lâu hơn con người, chúng đâu có chết, rút cục khi thân xác trở lại thành hư không thì chỉ còn chúng tồn tại mà thôi), thì ba trăm năm lẻ nữa (tính từ thời điểm câu thơ Nguyễn Du ra đời) còn có cái tâm nào nữa để khóc Tố Như đây? Khóc thực sự chứ không phải khóc theo kiểu ông giáo nói giỏi nhưng nhận phong bì cũng giỏi ở ví dụ trên đây.

Năm tới là năm Rồng, có khả năng cho chúng ta cất cánh không? Có lẽ chẳng có vận may nào ngoại trừ những cố gắng thay đổi thực trạng của xã hội hiện nay được mỗi người thực hiện một cách có ý thức và ủng hộ ý thức của những người khác.
————-
1. Hai khái niệm đạo đức của Kant: mệnh lệnh nhất quyết và mệnh lệnh giả thuyết.
Nguồn: Tia Sáng.

Chu Hảo: VÔ MINH VÀ VÔ CẢM

Vô minh và vô cảm
Chu Hảo

Ngày nay ít ai còn nghi ngờ rằng những thành tựu tuyệt vời của khoa học và công nghệ đã không làm cho Trái đất-ngôi nhà chung của chúng ta tươi đẹp hơn, Xã hội loài người trở nên nhân bản hơn, và Con người có cuộc sống hạnh phúc hơn... ít ra là so với kỳ vọng của nhân loại từ sau thời Phục hưng (TK 14) và nhất là sau thời kỳ Khai sáng (TK 18). Văn minh vật chất rõ ràng ngày càng cao, nhưng văn minh tinh thần có vẻ như đang xuống thấp, nhất là nhìn từ góc độ văn hóa-đạo đức xã hội. Tri thức tràn trề mà vẫn Vô minh, lòng trắc ẩn không còn đủ để ngăn ngừa sự Vô cảm. Ở phương Đông cũng thế mà phương Tây cũng thế; nước giầu và nước nghèo đều thế cả; xứ mình cũng không phải là ngoại lệ...

Hơn 2500 năm trước Đức Phật đã chứng ngộ và tuyên giảng Tứ diệu đế (Bốn sự thật cao minh) là : KHỔ (mọi nỗi khổ đau đều có nguyên nhân), TẬP (nguyên nhân gây nên khổ đau là tham, sân, si), DIỆT (có thể loại trừ được các mầm độc gây nên khổ đau ấy) bằng ĐẠO (tu hành tâm linh tích cực). Nếu mọi người trên thế gian này đều làm được đúng điều Phật dạy thì cõi Niết bàn ngay trên trần gian này đã có từ lâu. Tiếc thay số người tin vào điều Phật dạy không nhiều, những người thực sự làm theo Phật chắc chắn là ít hơn, số tu hành tâm linh đến mức chứng ngộ còn hiếm hoi hơn nữa. Chắc đó cũng là quy luật của sự phát triển. Bởi lẽ, nếu cõi Niết bàn chỉ có toàn những điều Chân Thiện Mỹ thì nó không thể tồn tại trên trần thế, vì ở chốn nhân gian có giả mới có Chân, có ác mới có Thiện, có xấu có Đẹp (Mỹ). Nhân loại chỉ mong cái tốt Đẹp nhiều hơn cái xấu xa , cái Thiện thắng cái ác, và cái Chân thực lấn át cái giả dối. Ngoài Đạo Phật, các tôn giáo khác đều có lý do tồn tại chính đáng khi tôn sùng các giá trị Chân-Thiện-Mỹ và răn đe Tham-Sân-Si để Hành tinh xanh này tươi đẹp hơn, Xã hội loài người nhân bản hơn và Con người có cuộc sống hạnh phúc hơn…

Tham (tham lam, vụ lợi, ích kỷ, …) và Sân (nóng giận, đố kỵ, ghen tỵ…) xem ra có vẻ dễ được khắc chế hơn là Si (dốt nát, mê muội, cuồng tín…). ThamSân làm sói mòn lòng trắc ẩn và gia tăng sự vô cảm. Chúng dễ được khắc chế hơn vì không ai không nhận ra sự Tham và sự Sân của mình, chỉ còn khó là ở chỗ có muốn và có đủ năng lực kiềm chế chúng không? Nói cho cùng thì ThamSân cũng là do Si mà ra, càng Si thì càng dễ ThamSân. Nhưng Si thì nhiều khi không thể tự nhận biết, bởi nó chính là sự Vô minh; tự khai minh (để rũ bỏ Vô minh) cũng khó như là tự nâng mình lên khỏi mặt đất. Cái vô minh của một cá nhân hay một tập thể có quyền lực có thể tạo ra cái Si cộng đồng thông qua tác động tâm lý đám đông hoặc dùng quyền lực áp đặt. Niềm tin u mê vào tính siêu việt của tộc người Germain của dân tộc Đức để biện minh cho việc tàn sát dân tộc khác trong thời kỳ Hitler cầm quyền là một minh chứng điển hình cho cái Si cộng đồng đã đẫn đến tội ác diệt chủng. Trước đó lịch sử loài người cũng đã từng chứng kiến một niềm tin u mê vào tính ưu việt của một giai tầng xã hội là động lực của cuộc cách mạng bạo lực để kỳ thị và loại trừ các giai tầng khác, đặc biệt là trí thức. Cái Si cộng đồng này đã sụp đổ ở nguyên quán là Liên bang Xô viết cũ, nhưng tàn dư của nó vẫn còn đó, ở đôi nơi…

Sự cố chấp, thực lòng hay dối trá cũng vậy thôi, vào một ý thức hệ lỗi thời nào đó cũng là một biểu hiện của sự Vô minh. Không tin vào Dân, không dựa vào Dân ; không đặt quyền lơị của dân tộc lên trên mọi giáo điều chủ thuyết, mọi lợi ich nhóm ... đều là Si, là Vô minh cả. Vô minh trực tiếp dẫn đến Vô cảm. Cái Vô cảm đáng sợ nhất mà chúng ta đang hàng ngày chứng kiến là sự Vô cảm của rất nhiều bộ phận trong hệ thống quyền lực trước sự bất công thê thảm mà biết bao người dân thường đang phải gánh chịu; trước sự tàn phá thậm tệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên; trước sự xuống cấp một cách nguy hại của văn hoá - giáo dục - đạo đức xã hội ...

Những biểu hiện Vô minhVô cảm như thế chỉ có thể bị hạn chế, bị đẩy lui trong một thể chế dân chủ, với một nền giáo dục nhân văn . Thể chế dân chủ đảm bảo những quyền tự do cơ bản của con người, trong đó quyền tự do bầy tỏ chính kiến của mình để làm phong phú, đa dạng và đổi mới tư duy của toàn xã hội để gạt bỏ mọi giáo điều ý thức hệ, có lẽ là quan trọng nhất. Tự do có thể là khát vọng bẩm sinh của con người, nhưng Dân chủ thì phải được giác ngộ, được rèn luyện gian truân trong thực tiễn cuộc sống mới dần dần có được. Nền giáo dục đào tạo ra những con người có tri thức hữu dụng và lòng trắc ẩn để tránh xa Vô minhVô cảm phải được xây dựng theo một triết lý hết sức nhân bản. Chẳng hạn như đề xuất của triết gia hiện đại người Pháp - Edgar Morin về sứ mạng và mục tiêu của giáo dục:

1) Hình thành những khối óc được rèn luyện tốt; đào tạo những con người có đủ năng lực tổ chức và liên kết các trí thức để mưu cầu hạnh phúc cho bản thân mình và cho toàn xã hội chứ không phải nhồi nhét kiến thức theo kiểu chất vào kho.

2) Giáo dục về hoàn cảnh con người, làm cho mọi người có ý thức sâu sắc thế nào là một con người. Dạy cho thế hệ trẻ cách sống, chuẩn bị cho họ biết cách đối mặt với những khó khăn và những vấn đề chung của cả loài người.

3) Thực tập tư cách công dân của đất nước và của toàn thế giới; có năng lực đối thoại, khoan dung trong thế giới phức hợp và đa dạng.

Để có một thể chế dân chủ hơn, một nền giáo dục lành mạnh hơn, xã hội không chỉ trông chờ vào vào sự thực thi nghĩa vụ của các cơ quan và tổ chức lãnh đạo quyền lực, mà còn hy vọng vào sự dấn thân của tầng lớp trí thức tinh hoa của dân tộc – những người không chỉ có trình độ học vấn – chuyên môn cao, mà trước hết phải có ý thức trách nhiệm xã hội, dám công khai bày tỏ và bảo vệ chính kiến của mình.

Ngày xưa Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) là một trí thức dấn thân theo kiểu của ông : trong cuộc đời ngắn ngủi của mình ông đã gửi lên Vua Tự Đức 30 bản tấu trình đề xuất kế hoạch canh tân đất nước và khoảng 60 bản điều trần về đủ mọi thứ khác. Nhưng Vua không nghe thì đành chịu! Cùng thời với ông, Fukuzawa Yukichi (1835-1901) đã nổi lên như một ngôi sao sáng trong giới trí thức Nhật Bản thời ấy. Ông không chỉ tấu trình cho Nhật hoàng mà tìm mọi cách truyền bá tư tưởng canh tân cho đồng nghiệp, học trò và toàn xã hội. Có thể nói ông là rường cột tinh thần cho phong trào Minh trị duy tân. Sự phát triển theo các con đường khác nhau, và kết quả cũng khác nhau, của Việt Nam và Nhật Bản có lẽ đã bắt đầu từ đó. Nửa thế kỷ sau, có một lớp chí sỹ của phong trào Duy Tân và Đông kinh nghĩa thục, đứng đầu là cụ Phan Châu Trinh, đã dũng cảm đi theo con đường của Fukuzawa, chủ trương làm cách mạng văn hóa và giáo dục. Nhưng đã thất bại vì chính quyền thuộc địa đàn áp dã man.
Ngày nay chính quyền luôn luôn được khẳng định là của nhân dân, vì vậy điều kiện tấu trình, điều trần cũng như triển khai thực hiện những đóng góp cụ thể, đã thuận lợi hơn nhiều, tầng lớp trí thức tinh hoa của dân tộc chẳng lẽ chỉ có trăn trở và kiến nghị thôi sao? Đấy là nỗi băn khoăn của rất nhiều người Việt Nam tâm huyết, ở trong nước cũng như ở nước ngoài, đang dấn thân vì sự phát triển của Đất nước, vì tương lai của Dân tộc.

Nguồn: Diễn đàn.

GHI CHÉP: NGÀY CUỐI NĂM Ở CỐNG RỘC - TIÊN LÃNG

 Ngày cuối năm ở Cống Rộc
Tam Tứ

Luật sư Vũ Lợi và hai nhà báo Lê Tự và Hoàng Linh và tôi xuất phát từ Hà Nội từ rất sớm. Do lái xe biết đường nên đã chọn đường ngắn nhất để tới huyện Tiên Lãng, Hải Phòng, đến ngã ba cống Rộc thuộc địa phận xã Vinh Quang mới có 8 giờ sáng. Xe dừng ở ngã ba, chúng tôi đi bộ lên con đê chắn sóng, phía sau đê là bạt ngàn cây bần, cây sú, cây vẹt chắn sóng lá xanh tốt, thân cây khỏe khoắn.

Chúng tôi hỏi thăm dân thôn đi đường để gặp vợ con anh Đoàn Văn Vươn và các gia đình bị can đã bị khởi tố tội giết người trong vụ việc Cưỡng chế 40,6 ha diện tích mặt đầm nuôi thả thủy sản mà anh Vươn đã được giao đất và trồng cây chắn sóng, lấn biển gần hai mươi năm nay.

Dân ở đây ai cũng sợ sệt, nhìn thấy mấy người lạ, đeo máy ảnh to, chụp ảnh với khuôn mặt đăm chiêu. Nhà báo Lê Tự là dân Kiến An, Hải Phòng nên khi giao tiếp với khẩu ngữ địa phương, một vài đàn ông trong thôn hết dần nghi ngờ và bắt chuyện. Có một cô gái làm nghề trồng hoa nhanh nhẹn rút máy điện thoại gọi nhưng cô nói máy tắt chú ạ. Cô gọi cho chị Nguyễn Thị Thương - vợ anh Đoàn Văn Vươn.

Chúng tôi ngồi nghỉ uống nước ở một quán nhỏ và hỏi chuyện người dân ở đây, ai cũng né tránh, không dám trả lời và không dám bắt chuyện. Hết một tuần trà, chúng tôi thấy một phụ nữ đi trên chiếc xe máy màu đỏ, phía sau là một phụ nữ nữa, họ đến tìm chúng tôi và tự giới thiệu: em là Nguyễn Thị Thương - vợ của anh Đoàn Văn Vươn. Còn cô này là Phạm Thị Báu, ở nhà chồng gọi là Hiền - vợ Đoàn Văn Quý, em trai Đoàn Văn Vươn. Hình như có ai đó gọi điện thoại để vợ hai bị can ra gặp các nhà báo.

Chúng tôi đề nghị hai chị dẫn chúng tôi đến khu vực đầm nhà anh Vươn, nơi có cuộc cưỡng chế vừa xảy ra ngày 6/1/2012 vừa rồi. Hai chị đi trước dẫn đường, xe chúng tôi theo sau. Đến nơi đã có một số bà con người thôn Chùa trên, xã Vinh Quang cũng có mặt. Chị Thương kể cho chúng tôi với vẻ mặt buồn bã, chị chỉ về phía khu đất mà nửa tháng trước đây là ngôi nhà hai tầng, tổ ấm của gia đình chị, chỉ còn là khu đất trống trải, gạch vỡ, bê tông sắt thép đã được dọn sạch như muốn nói đấy chỉ còn là bãi đất trống. Bây giờ chị Thương không được đi vào khu đất ấy nữa. Chị không được quyền, các nhà chức trách địa phương nói với chị và các nàng dâu của họ Đoàn thế. Cấm không được vào khu đất ấy. Khu đầm nhà anh Đoàn Văn Vươn đã có ba người chủ mới đến tiếp quản, họ đã cho những kẻ vô lương tâm vào khai thác cá tôm, những thủy sản mà gia đình chị phải đổ mồ hôi nước mắt chăn thả và gần hai mươi năm trời lầm lũi trồng cây lấn biển.



Cụ bà gần tám mươi tuổi, người thôn Chùa trên, xã Vinh Quang cũng không dấu được nỗi uất ức, nghẹn ngào. Cụ nói năm nay tôi gần tám mươi, chưa bao giờ thấy cảnh này, như một lũ cướp ngày, thật ác độc, ai lại đi phá, san bằng nhà người ta… năm hết, tết đến rồi, chồng thì ngồi tù, vợ con li tán ở nhờ người thân như đi trốn, không dám gặp ai. Tôi chẳng sợ gì sất, tôi cũng gần đất xa trời rồi. Chúng tôi là dân đen, hãy cứu lấy chúng tôi. Cụ nói với chúng tôi bằng giọng đau sót rồi cụ ngân ngấn nước mắt, tôi may mắn lưu lại được bức hình của cụ sau khi lau những giọt nước mắt kia. Tôi hỏi tên cụ nói nói: tôi tên là Chanh, Vũ Thị Chanh, người thôn Chùa trên, xã Vinh Quang này đây.

Rồi chúng tôi theo hai người vợ của các bị can đến ngôi nhà một hội viên Hội nuôi thủy sản huyện Tiên Lãng thuộc xã Hùng Thắng, huyện Tiên Lãng, cách khu đầm chừng 3 km. Các chị đang phải ăn đậu ở nhờ ở đây trong tình thương yêu đùm bọc của những người cùng hội cùng thuyền. Ông chủ nhà là Vũ Văn Luân, thư ký hội nuôi thủy sản Tiên Lãng. Ông tâm sự với chúng tôi: đầm nhà ông cũng có lệnh thu hồi và cưỡng chế, nếu sự việc nhà anh Vươn không diễn biến như thế thì đầm nhà ông cũng vào tay người khác rồi. Nói chuyện với chúng tôi, ông tỏ ra là người nắm vững luật đất đai, các loại thông tư, chỉ thị nghị quyết… ông nghiên cứu khá kỹ nên ông cứ vanh vách dẫn điều nọ, khoản kia cứ như đang hành nghề luật sư vậy. Một lát sau, hai hội viên khác cũng đến gặp đoàn chúng tôi. Đó là ông Đặng Văn Thế và ông Lương Văn Trong.

Ông Lương Văn Trong là phó chủ tịch Hội nuôi thủy sản Tiên Lãng đã rất bức xúc cung cấp mọi thông tin của cuộc cưỡng chế cho chúng tôi. Và cho chúng tôi xem 1 lá đơn kiến nghị của bà con dân thôn của các xã trong huyện Tiên Lãng ký tên để gửi cho ông Phó chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng về việc ông ta phát ngôn: ngôi nhà của anh Đoàn Văn Vươn bị phá là do nhân dân bức xúc!

Chúng tôi còn được nghe nhiều lắm những thông tin từ chính bốn người vợ của các bị can tâm sự. Họ nói trong tiếng khóc nghẹn ngào, trong sự lo lắng không biết sức khỏe của thân nhân mình hiện như thế nào. Chỉ vài ngày nữa là Tết. Tết này, có lẽ là tết đầu tiên gia đình của họ bị ly tán. Tâm trạng hoảng loạn, sống trong sợ hãi đeo bám họ, làm họ ăn không ngon, ngủ không yên. Riêng với chị Nguyễn Thị Thương vợ anh Vươn và hai cháu Đoàn Xuân Quỳnh, Đoàn Văn Hiếu, con trai anh Vươn thì Tết này thật bi thảm. Ngôi nhà bị phá, trong tay không còn cái gì, tất cả vật dụng gia đình, chăn màn, quần áo, phương tiện nghe nhìn,… phút chốc đã thành mây khói. Chị trắng tay. Thật khủng khiếp. Khi gặp được chị, chúng tôi hỏi, chị cứ như cố lảng tránh để không phải đụng tới vết thương xé da xé thịt vẫn đang âm ỉ cào cấu suy nghĩ và con người chị từng ngày, từng giờ.

Thấu hiểu hoàn cảnh và nỗi đau của các gia đình bị can, luật sư Vũ Lợi, giám đốc Công ty Luật TNHH Hòa Lợi đã nhận bào chữa miễn phí cho phiên tòa xử các bị can đang bị giam với tội danh giết người. Bốn chị vợ của các bị can: Nguyễn Thị Thương, vợ Đoàn Văn Vươn, Phạm Thị Tươi, vợ Đoàn Văn Sịnh, Phạm Thị Báu (tức Hiền), vợ Đoàn Văn Quý, Lê Thị Thao, vợ Đoàn Văn Vệ đã ký vào đơn đề nghị, luật sư Vũ Lợi đã ký tên, đóng dấu vào Giấy giới thiệu gửi các cơ quan chức năng để được tham gia biện hộ. Văn bản này sẽ được chuyển vào trại tạm giam để lấy ý kiến của các bị can. Ơn trời cho mọi việc được xuôn sẻ.

Về đến đất Tiên Lãng Hải Phòng chiều đông cuối năm, được đứng trước khu vực đầm nhà anh Vươn, được nhìn thấy khu đất mà trước đấy là ngôi nhà 2 tầng của gia đình anh Vươn, nay chỉ còn là một bãi đất như bãi đất hoang, tôi chợt lạnh người khi nghĩ: người ta có thể đối sử với đồng loại mình sao lại dã man ác độc vậy. Dù bất cứ là nguyên do gì thì quyết định phá nhà anh Vươn là không thể tha thứ. Hành vi này ngoài công luận, luật pháp còn có trời xanh soi sét, soi sáng, bọn người ác độc chắc phải nhận quả báo, tôi nghĩ thế.

Ngày 19/1/2012
Tam Tứ
_______________________________

Nguyễn Xuân Diện:
Chiều 27 Tết, Nhà báo, nghệ sĩ nhiếp ảnh Trần Định đã tới nhà riêng NXD, chuyển tiền ủng hộ gia đình anh Đoàn Văn Vươn của các vị sau:

I. Ba anh em họ Trần, mỗi người giúp 500.000 đ: 
 
1. GS. TS Trần Xuân Hoài, nguyên Viện trưởng Viện Vật lý ứng dụng, Viện Khoa học VN;
2. TSKH. Trần Xuân Nam
3. Nhà báo, nghệ sĩ nhiếp ảnh Trần Xuân Định (Trần Định)
mỗi người giúp 500.000 đ

II. Các vị:
1. Ông Lương Tiến Hiển (Việt kiều Đức) giúp: 500.000 đ
2. Ông Trần Hà Linh, cán bộ Cty thiết bị giáo dục giúp: 500.000 đ
3. Anh Cường Sẹo và bạn bè: 100.000 đ

Tổng số tiền do Nhà báo Trần Định chuyển đến: 2.600.000 đ (hai triệu sáu trăm ngàn)
Ông Trần Định cho biết mọi người đều muốn số tiền này phải được chuyển đến Nguyễn Xuân Diện trước giờ giao thừa để mọi người được ăn Tết an vui.

Xin chân thành cảm ơn Ông Trần Định và các vị.

GĐ ANH VƯƠN VÀ BÀ CON ĐỊA PHƯƠNG GỬI ĐƠN TỐ GIÁC

Toàn cảnh khu đầm
Ngày 18.1.2012, Gia đình anh Đoàn Văn Vươn và bà con nhân dân địa phương đã gửi đơn tố giác:

"Về việc ông Đỗ Trung Thoại - Phó chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng, ông Đỗ Hữu Ca - Giám đốc Công an thành phố Hải Phòng phủ nhận hội đồng cưỡng chế huyện Tiên Lãng, chiếm đoạt, hủy hoại tải sản nhà tôi, và đổ cho dân là một điều thiếu đạo đức, dung túng bao che việc làm của cấp dưới"

 


__________________________________
Dân vào tù, quan chối tội
Nhà thơ Trần Trương

Khổ quá, tết đến sát sân nhà rồi mà chính quyền và các đoàn thể xã Vinh Quang, UBND Huyện Tiên lãng vẫn cứ loanh quanh chối tội và đổ diệt cho người dân và gia đình anh Đoàn văn Vươn là người gây ra tội; nên phải vào tù. Nhà cửa, bàn thờ tổ tiên của họ bị đá bay , san phẳng, thế mà họ, là Đảng, là chính quyền, là mặt trận, là dân vận là đoàn thanh niên cộng sản Hồ chí Minh, đồng tâm hô: “Đoàn văn Vươn chống lại chính quyền”. Ôi chao, cả trăm người vũ khí, chó béc-giê, rồi xã hội đen, xe ủi, súng ống tiến vào bắt và đánh vài ông nông dân vô tội, vậy tết  rồi họ chả thèm đoái hoài gì tới họ, lại hùa nhau từ thành phố tới thôn làng bảo vệ mấy ông quan tham. Nhà ông chủ tịch huyện cao đẹp sơn xanh, sơn đỏ, hàng rào nguy nga đồ sộ giả dụ mấy ông nông dân kia nổi dậy phá cái cửa nhà ông thôi thì chắc chắn vào tù ngay, thế mà ông chủ tịch huyện ra lệnh phá nhà người ta thì vẫn nhơn nhơn ngoài vòng pháp luật. Tôi thành thật hoan nghênh Mặt trận tổ quốc VN đã nhanh chóng vào cuộc và có những phát ngôn chính thức ,phần nào làm cho người dân đã có sự tin tưởng, rồi đây trung ương không thể để cho các quan Hải Phòng và Tiên Lãng chối tội mãi được, mọi người đang chờ sự công minh của pháp luật. Chỉnh đốn Đảng lần này phải ra roi, thật mạnh và rất cần những ông Bao Công để có thể Cẩu đầu Trảm những kẻ lợi dụng Đảng, nấp vào uy tín Đảng để làm trò ma mãnh và bòn rút của dân. Xin hỏi các quan Tiên lãng, nếu là các quan đúng, thế thì tết này chắc các vị ăn tết TO chúc tụng nhau vui vẻ lắm nhỉ? Rồi đây gia đình ,họ hàng anh Vươn phải xử tử hết để đỡ vướng mắt các vị, chắc các vị sẽ hả lòng, bởi bọn Vươn là kẻ ngụ cư, anh em tao là quan huyện, xã, sao dám chống lại “nhà nước” của chúng tao?
*Bài do tác giả gửi trực tiếp tới NXD-Blog.

Thứ Sáu, 20 tháng 1, 2012

THÔNG TIN MỚI NHẤT TỪ NƠI ĐẦU SÓNG TIÊN LÃNG


Thưa chư vị,

Cách đây ít phút, tôi vừa nhận được thông tin về vụ Tiên Lãng (chữ Hán, Tiên Lãng: Nơi đầu sóng). Theo đó, Thành ủy Hải Phòng đã công bố kỷ luật khiển trách đối với ông Đỗ Trung Thoại, Phó Chủ tịch UBND TP Hải Phòng.

Hai anh em Lê Văn Hiền và Lê Văn Liêm là Chủ tịch huyện Tiên Lãng và Chủ tịch xã Vinh Quang đã bị đình chỉ công tác và chức vụ. Hải Phòng chỉ đạo vụ việc này cần được giải quyết nghiêm, nếu không sẽ không nghỉ Tết.

Thông tin cũng cho biết, từ hôm nay, tại khu vực cưỡng chế, các lán trại của lực lượng an ninh xã Vinh Quang đã rút. Tuy nhiên, lực lượng "xã hội đen" tiếp tay cho chính quyền huyện, xã thì vẫn cố thủ.

Tin cho biết, có khả năng 3 anh em anh Đoàn Văn Vươn sẽ được tại ngoại và về ăn Tết với gia đình.

Nguyễn Xuân Diện Blog.
________________

17h24: Nguồn tin cho biết, các thông tin trên hiện chưa kiểm chứng được. Hiện nay, chưa ai trông thấy các văn bản xử lý kỷ luật đã nêu, cũng chưa thấy có quan chức nào của TP Hải Phòng hoặc huyện Tiên Lãng xác nhận.