Hiển thị các bài đăng có nhãn Tia Sáng. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tia Sáng. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 18 tháng 12, 2019

Nguyễn Thụy Phương: VỀ GIÁO DỤC THUỘC ĐỊA ĐÔNG DƯƠNG

Đại học Đông Dương, Hà Nội 1920 - 1929. Ảnh : Flickr

Huyền thoại đỏ và huyền thoại đen 
về giáo dục thuộc địa Đông Dương

Nguyễn Thụy Phương

Tia Sáng
10/12/2019 07:05

Lời tòa soạn: Tranh cãi gay gắt gần đây xung quanh vai trò, đóng góp của chữ quốc ngữ với sự phát triển văn hóa dân tộc hay đó là "công cụ xâm lăng" cũng như "công" hay "tội" của linh mục Alexandre de Rhodes để rồi đề xuất lấy tên ông đặt cho một con đường ở Đà Nẵng đã nhận sự phản ứng dữ dội từ nhiều trí thức ở đây cho thấy rằng để nhìn nhận về những di sản của giáo dục dưới thời thuộc địa là không đơn giản. Trong loạt bài hai kỳ dưới đây, TS Nguyễn Thụy Phương (trường ĐH Geneva), nhà nghiên cứu về giáo dục thời thuộc địa và hậu thực dân cố gắng phân tích một cái nhìn hệ thống về những thảo luận trái chiều về giáo dục thuộc địa ở Đông Dương.

Thứ Hai, 24 tháng 10, 2016

NHÌN LẠI LỊCH SỬ BÁCH VIỆT VÀ QUÁ TRÌNH HÁN HÓA BÁCH VIỆT


NƯỚC ĐẠI VIỆT TRONG QUÁ TRÌNH HÁN HOÁ

Đây là chủ đề đối thoại do Giáo sư Chu Hảo chủ trì với sự tham gia của nhà nghiên cứu Trần Gia Ninh. Chương trình diễn ra vào lúc 14h30 chiều thứ Bảy, ngày 22/10/2016, tại Salon Văn Hoá Cà Phê Thứ Bảy, số 3A phố Ngô Quyền, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. 
--------------------------

Thứ Bảy, 11 tháng 7, 2015

CÒN AI TIN VÀO HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM NỮA KHÔNG?


Ban chấp hành Hội Nhà văn Khóa IX gồm 6 ngón tay trên một bàn tay. Nguồn: TNc
Còn ai tin vào nhà văn Việt Nam nữa không?

Inrasara*


Đại đa số nhà văn Việt Nam hôm nay từ chối làm nhà trí thức theo nghĩa mạnh nhất của từ này. Thì lấy đâu tác phẩm của hắn nhận được sự chú ý xứng đáng từ cộng đồng, nói chi chuyện cá nhân hắn được cộng đồng tôn trọng. Còn kêu ca than vãn công chúng lạnh nhạt với văn học thì không gì tệ hại hơn.

Thứ Hai, 29 tháng 6, 2015

TỰ DO THÔNG TIN - NỀN TẢNG CHO MỘT XH MINH BẠCH

Đoàn Việt Nam trong buổi làm việc với ông Christopher Graham, Cao ủy Thông tin
Vương quốc Anh, ngày 21/5/2015 (Ảnh do tác giả cung cấp)

Tự do thông tin:
Nền tảng cho một xã hội minh bạch


Nguyễn Minh Thuyết

Thông tin đóng vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống bởi nó liên quan trực tiếp đến quyền lợi của người dân trong mọi lĩnh vực. Thông tin đồng thời cũng là “ô-xi của nền dân chủ”, như khẳng định của Chiến dịch Toàn cầu về Quyền tự do ngôn luận. Tự do thông tin - bao gồm tự do tìm kiếm, lưu giữ, truyền đạt và sử dụng thông tin dưới mọi hình thức - được coi là một trong những quyền cơ bản của con người.

Thứ Hai, 1 tháng 6, 2015

DÂN CHỦ TRỰC TIẾP VỚI DỰ LUẬT TRƯNG CẦU DÂN Ý

TS Nguyễn Sỹ Phương, CHLB Đức
31-05-2015
.
Dự luật Trưng cầu dân ý, vừa qua đã được thảo luận tại Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đề cập nhiều vấn đề về phạm vi, nội dung, điều kiện, tiêu chí, quy mô, quy trình trưng cầu ý dân và được đưa vào chương trình Quốc hội họp kỳ này. Tinh thần Dự luật đã được Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng khẳng định dứt khoát: “Sau khi trưng cầu, ý dân phải là quyết định cuối cùng” vốn thuộc nội hàm khái niệm “Dân chủ trực tiếp“.

*Dân chủ trực tiếp (DCTT) và Dân chủ gián tiếp (DCGT)

Đó là 2 hai thành tố cấu thành khái niệm “Dân chủ“ mà bất kỳ nhà nước nào trong thời đại này đều phải giải quyết, để thể hiện được nhà nước đó do dân làm chủ, tức “của dân do dân vì dân“.

Khái niệm DCTT dùng để chỉ: 1- Phương sách “trưng cầu dân ý“, 2- Được thực hiện trong một hệ thống chính trị, qua đó những người có quyền bầu cử được tự do bỏ phiếu đối với những quyết định chính sách: – cần đến họ, hoặc: – họ cần. Với nội hàm trên, có thể coi trưng cầu dân ý như bầu cử tự do. Chỉ khác nhau ở chỗ: Bầu cử tự do nhằm chọn người thay mặt mình quyết định chính sách nhà nước, nên được gọi là DCGT (hiểu theo nghĩa qua người thay mặt); Còn với trưng cầu dân ý, tự người dân quyết định chính sách đó đúng như Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng phát biểu, vì vậy mới có tên gọi DCTT.

Thứ Năm, 16 tháng 10, 2014

QUYỀN IM LẶNG - NGUYÊN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ THỰC THI

TS Nguyễn Sỹ Phương, CHLB Đức

15-10-2014


Vừa qua, Dự thảo Luật Tổ chức Viện KSND và Tòa án ND đã gây tranh cãi trong dư luận xã hội khi bác bỏ quyền im lặng, phủ định một quyền cơ bản mang tính phổ quát thế giới!


H1
*Phần I: Những vấn đề đặt ra


Tháng trước, UBTV Quốc hội họp cho ý kiến về Dự Luật Tổ chức Viện KSND và TAND. Gây tranh cãi thu hút truyền thông nhất là 4 quyền trong lĩnh vực tố tụng, tư pháp, 1- quyền im lặng, 2- quyền có luật sư, 3- quyền tranh tụng bình đẳng và 4- quyền được xét xử độc lập. Trong đó, điểm mấu chốt của cả 4 quyền trên đều ít nhiều liên quan tới vai trò luật sư. Luật TTHS ở nước ta và trên thế giới ngày nay đều quy định “Quyền nhờ (có) luật sư”. Lý do không có gì cao siêu cả, cực kỳ đơn giản, bệnh nhân cần bác sỹ, sinh nở cần bà đỡ, học hành cần thầy cô… thì vướng quan sự cần luật sư là lẽ đương nhiên, thuộc về quyền cơ bản. Nhưng ở ta thực tế bất khả thi, bởi thiếu cả chế tài buộc nhà chức trách phải bảo đảm quyền đó cho họ, lẫn điều kiện thực hiện, nghi phạm bị cách ly hoàn toàn, quá trễ để gặp được luật sư vốn chỉ được chấp thuận khi người nhà mời, phải được cấp giấy chứng nhận bào chữa, phải chờ tới lịch hỏi cung. Nếu hình dung nghi phạm như bệnh nhân cấp cứu, luật sư là bác sỹ sẽ thấy hậu hoạ bất khả kháng. Chưa nói, người nghèo thiếu tiền mời luật sư và khó tìm được luật sư thiện nguyện, con “bệnh“ chỉ nằm chờ chết. Mặt khác, nghề luật sư đối kháng với cơ quan điều tra tố tụng vốn chẳng thích gì luật sư, khó được họ ủng hộ chưa nói cản trở một khi thiếu chế tài đối với cơ quan này, như phát biểu của VKS và TA Triệu Sơn thách thức “để xem luật sư làm được gì“ trong vụ án ông Nguyễn Bá Qúy mới đây là một điển hình. Vì vậy, tranh cãi nảy lửa về Dự luật trên là đương nhiên, không chỉ liên quan tới số phận bất kỳ ai, cả thường dân lẫn quan chức dù cao cấp tới đâu, một khi gặp rủi ro quan sự đều phải đối mặt, mà còn là bằng chứng không thể bác bỏ để khẳng định một nhà nước thực tế có tính pháp quyền hay không?

Thứ Năm, 4 tháng 9, 2014

QUANH VỤ KIỆN GS NGUYỄN ĐĂNG HƯNG, GIÁO SƯ HOÀNG TỤY LÊN TIẾNG


Để xây dựng một tạp chí khoa học đẳng cấp quốc tế

GS. Hoàng Tụy 
trả lời phỏng vấn báo Tia Sáng


Dư luận ồn ào gần đây về việc tranh chấp quyền sở hữu tạp chí Asian-Pacific Journal of Computational Engineering giữa GS. Nguyễn Đăng Hưng và Đại học Tôn Đức Thắng đã ít nhiều ảnh hưởng tiêu cực tới uy tín của giới khoa học Việt Nam, đồng thời cho thấy có những sự hiểu sai về quyền sở hữu một tạp chí đẳng cấp quốc tế. Để làm rõ vấn đề này, nhóm phóng viên Tia Sáng đã có cuộc phỏng vấn GS. Hoàng Tụy, người từng tham gia ban biên tập của một số tạp chí toán học quốc tế. 

Thứ Ba, 18 tháng 3, 2014

CẢM NHẬN CỦA TÔI SAU KHI ĐỌC BÀI VIẾT CỦA GS. PIERRE DARRIULAT

CẢM NHẬN CỦA TÔI SAU KHI ĐỌC BÀI VIẾT 
CỦA GS. PIERRE DARRIULAT
 
GS Nguyễn Đăng Hưng

GS. Pierre Darriulat
Tôi rất cảm động sau khi đọc bài của GS. Pierre Darriulat! Việc đầu tiên là tôi phải chân thành cám ơn người đồng nghiệp này! Tôi có đọc ông trước đây một số bài rồi, nhưng qua bài này tôi có những cảm xúc, không những thú vị mà còn có thể nói là xúc động! 

Thậy vậy, tôi không ngờ ông hiểu và yêu đất nước Việt Nam chúng ta đến vậy!

Vâng, phải “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, một khẩu hiệu của đảng CS Việt Nam ra đời đã gần 30 năm, giai đoạn Việt Nam đang lâm vào khủng hoản ngút ngàn và muốn thoát ra chỉ có một cách là “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật”. 

Tuy nhiên vế cuối cùng của khẩu hiện này, nói rõ sự thật thì hình như chưa, chưa được thực hành đúng mức, chưa được thể hiện đến nơi đến chốn. Có lẽ đó là hệ lụy của tình trạng tệ hại hiện nay!

Trong bài này GS. Pierre Darriulat đã nói rõ sự thật, sự thật về tình trạng giáo dục và đào tạo hiện hành, về phong cách quản lý nghiên cứu khoa học, những sự thật đau lòng mà sau gần 30 năm đổi mới, nó vẫn còn tồn đọng, thậm chí ngự trị bao trùm tại Việt Nam. 

Ba mươi năm đã đủ cho Hàn Quốc vốn kém mở mang đã trở thành một cường quốc kinh tế và khoa học công nghệ. Đây chính là sự thật đau xót, cháy bỏng tâm can đông đảo người Việt Nam!

Thứ Ba, 13 tháng 8, 2013

TS. Trần Trọng Dương: GIÁ TRỊ CỦA TƯ DUY SỬ HỌC

GIÁ TRỊ CỦA TƯ DUY SỬ HỌC
Trần Trọng Dương

Sử học là một trong những phân môn của khoa học xã hội và nhân văn đem lại những LỢI ÍCH VỀ TƯ DUY, nhưng trong nhiều thập kỷ qua môn sử học không được đưa vào trong nhà trường, thay vào đó là một biến tướng sai lạc của nó: môn lịch sử.

Sử học là gì? Có thể nói một cách ngắn gọn, sử học là khoa học về lịch sử, hay cao hơn là khoa học về nhận thức lịch sử. Lịch sử là toàn bộ những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ, nhưng không ai dám chắc chắn và khẳng định rằng mình có thể nhận thức được đúng đắn toàn bộ về nó. Cái lịch sử mà chúng ta biết đến chỉ là những kết quả sau những chuỗi dài của hoạt động nhận thức, trong đó không tránh khỏi có sự chủ quan, phiến diện, nếu không muốn nói có khi là sai lầm. Sai lầm trong nhận thức lịch sử được tạo nên bởi nhiều nguyên nhân. Có thể là sai lầm khi ta chỉ có một số dữ liệu giả tạo, hoặc trầm trọng hơn, là sai lầm về mặt phương pháp luận và mục đích luận. Sai lầm về phương pháp luận là sai lầm về mặt tư duy, còn sai lầm do mục đích luận là sai lầm về đạo đức khoa học. Để tránh sai lầm trong nhận thức lịch sử, người làm sử học tuyệt đối không được mang trong mình một một đích nào khác ngoài mục đích thuần túy duy nhất là NHẬN THỨC LỊCH SỬ. Khi biện hộ rằng vì có lợi cho mục đích dân sinh, có lợi cho mục đích chính trị mà ta phải chứng minh một dữ kiện lịch sử nào đó, thì việc chứng minh ấy đã tiềm ẩn sẵn nguy cơ bị thiên lệch, không đúng với thực tế. 

Thứ Bảy, 6 tháng 7, 2013

Trần Xuân Hoài: ĐẠO LUẬT VÀ ĐẠO LÝ

ĐẠO LUẬT VÀ ĐẠO LÝ 
Trần Xuân Hoài

Hiến pháp là đạo luật gốc của xã hội vì vậy khi xây dựng Hiến pháp phải lấy Đạo lý làm tiêu chí khởi thủy. Đạo lý không phải và không thể là ý chí của một người, một nhóm người, một tổ chức. Nó phải được toàn nhân loại thừa nhận. Đó là đạo lý phổ quát.
Luật pháp là chuyện trọng đại hàng đầu của một nhà nước. Chỉ riêng thuật ngữ thôi cũng đã phải cân nhắc kỹ lưỡng. Các sinh viên luật trẻ tuổi đang tranh luận kịch liệt về phân biệt thuật ngữ "luật", "bộ luật" và "đạo luật". Điều này xin dành cho các vị hàn lâm áo mão cũng như các cây đa cây đề về luật pháp trả lời cho các bạn trẻ, và cũng là để các vị tự vấn mình.

Tìm trong tiếng Việt, có hai thứ văn bản được gọi là “Đạo”. Thứ nhất là Đạo sắc phong của vua. Ví như bản hiệu “Tiết hạnh khả phong” vua ban cho bà góa trẻ thờ chồng trọn đời. Cái thứ hai là Đạo luật. Chữ “Đạo” ở cả hai trường hợp cùng một ý, có lẽ xuất phát từ chữ Đạo(*), gốc Hán-Việt là cờ tiết, biển hiệu nhà vua. Chắc các cụ nhà ta ngày xưa ghép từ gốc Hán tạo ra hai thứ văn bản có chữ Đạo này với ý cái văn bản nào được vua ban, thì gọi là đạo. Như vậy, đạo luật phải chăng là hàm ý của vua ban luật cho dân. Điều suy đoán đó có thể đúng, có thể sai. Nhưng trên thực tế thì cung cách làm luật, tư duy làm luật, cách thảo luận và thông qua luật của nước ta ngày nay vẫn mang đậm dấu ấn của việc ban cho dân cái luật. Nói khác đi, luật là để cho đối tượng bị luật điều chỉnh chấp hành, còn người thảo ra và thi hành luật đó thì không thể bị ràng buộc. Chỉ lấy một thí dụ nhỏ, luật đã soạn ra, được thông qua rồi, mà còn phải chờ thông tư, nghị định mới thi hành được là một kiểu ban luật như vậy.. Đọc văn bản luật giấy trắng mực đen rồi nhưng hiểu luật thế nào, giải thích thế nào… thì không được phép, nếu không có văn bản dưới luật của bên thực thi luật ban hành.. Chưa nói đến việc thực thi hay không, thực thi thế nào, có đúng luật hay không là hoàn toàn tùy thuộc vào bên thực thi luật, cho thế nào dân được thế ấy.

Thứ Ba, 15 tháng 1, 2013

SỰ BIẾN ĐỔI CỦA NỘI DUNG "DÂN CHỦ" TRONG HÀNH TRÌNH HIẾN PHÁP

Nội dung “dân chủ” trong hành trình Hiến pháp Việt Nam có nhiều biến đổi
.
Biểu đồ phản ánh sự thăng trầm của từ “dân chủ” trong các bản Hiến pháp Việt Nam.

Bằng phương pháp khảo sát ngôn ngữ mạch lạc, trong sáng, tác giả Trần Xuân Hoài đã làm rõ “vật liệu” cơ bản được xây dựng trong hiến pháp thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đều bắt đầu là những khái niệm đã được thừa nhận mặc nhiên trong xã hội như: nhà nước do dân làm chủ, con người được tự do, được bình đẳng về quyền lợi, được mưu cầu hạnh phúc… Các giá trị cốt lõi này đã tạo nên sự bền vững của hiến pháp như các tiên đề Euclid giúp cho các quốc gia không tốn tiền “cải cách” giáo trình môn hình học cơ sở trong suốt hơn 2.000 năm qua.

Thứ Bảy, 5 tháng 1, 2013

NGUYỄN SĨ DŨNG: HIẾN PHÁP LÀ MỘT BẢN KHẾ ƯỚC XÃ HỘI

Khế ước xã hội

04:50-03/01/2013
Nguyễn Sĩ Dũng *

Về mặt kỹ thuật, nói Hiến pháp là một khế ước xã hội, thì không có nghĩa là cả xã hội phải tham gia soạn thảo văn bản này. Việc soạn thảo Hiến pháp vẫn phải do giới tinh hoa của dân tộc đảm nhận.

Hiến pháp trước hết cần được nhìn nhận như một bản khế ước xã hội. Dưới đây là những lý do cơ bản vì sao.

Trước hết, nếu tất cả chúng ta đều sinh ra tự do, nhưng đều phải phối hợp hành động để tồn tại, thì những nguyên tắc, những khuôn khổ hành xử chung là bắt buộc phải có. Vấn đề là chúng ta bắt buộc phải có những nguyên tắc, những khuôn khổ chung này bằng cách nào. Cách thứ nhất là chúng ta tự thỏa thuận về chúng. Cách thứ hai là chúng ta bị áp đặt về chúng. Theo cách thứ nhất, chúng ta vẫn tiếp tục là những con người tự do. Theo cách thứ hai chúng ta không còn là những con người tự do nữa.

Hiến pháp là đạo luật cơ bản với những nguyên tắc, những khuôn khổ hành xử chung nhất (kể cả những nguyên tắc, khuôn khổ hạn chế quyền tự do của cá nhân). Vì vậy, chúng ta chỉ có thể vẫn là những con người tự do nếu chúng ta được tự thỏa thuận về Hiến pháp.
.
Thứ hai, một bản Hiến pháp chỉ thực sự hiệu năng khi nó trở thành một thứ “kinh thánh” thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Muốn được như vậy thì nó không thể bị áp đặt. Bạn yêu tha thiết đứa con của mình nhiều khi không hẳn chỉ vì nó xinh đẹp, mà chủ yếu là vì nó do bạn sinh ra. Thế thì Hiến pháp cũng vậy. Bản Hiến văn phải là đứa con tinh thần của chúng ta, là sự kết tinh của trí tuệ, đạo đức và văn hóa tâm linh của tất cả những công dân sống trên đất nước Việt Nam. Chúng ta sản sinh ra Hiến pháp, thỏa thuận với nhau về các quy định của Hiến pháp, về các quyền và nghĩa vụ của mình, thì chúng ta tuân thủ và đấu tranh đến cùng để bảo vệ Hiến pháp. 
.
Ba là, chúng ta là gần 90 triệu người, 54 dân tộc, nhiều tôn giáo và thành phần xã hội khác nhau. Chúng ta rất chung, mà cũng rất riêng. Lợi ích của chúng ta cũng có nhiều điểm rất chung và có những điểm rất riêng. Chỉ một bản khế ước xã hội với sự tham gia xây dựng và thỏa thuận của tất cả mọi người và giữa tất cả mọi người, cái chung và cái riêng của tất cả chúng ta mới được cân nhắc đủ thận trọng, đủ cân bằng. Chỉ có như vậy, chúng ta mới củng cố được khối đại đoàn kết của mình và có được sự phát triển bền vững, hài hòa. Không có Hiến pháp tốt một cách chung chung, chỉ có Hiến pháp tốt theo nghĩa được tuyệt đại đa số người Việt chúng ta chấp nhận.
.
Bốn là, với tư cách là một bản khế ước xã hội, Hiến pháp mới có thể tạo cho tất cả người Việt chúng ta một vị thế bình đẳng- bình đẳng với nhau và bình đẳng với Nhà nước. Tất cả chúng ta đều có những quyền và nghĩa vụ như nhau. Nhà nước được chúng ta phân chia quyền lực chỉ ở mức độ và trong phạm vi cần thiết để phụng sự cho công chúng. Nhà nước được chúng ta phân chia cho quyền lực và phải chịu trách nhiệm trước chúng ta, chứ không phải Nhà nước ban phát quyền cho chúng ta và chúng ta phải phục vụ Nhà nước. Đây cũng là lý do tại sao Hiến pháp thường quy định cụ thể hơn chế tài đối với các cơ quan Nhà nước hơn là các công dân.
.
Về mặt kỹ thuật, nói Hiến pháp là một khế ước xã hội, thì không có nghĩa là cả xã hội phải tham gia soạn thảo văn bản này. Việc soạn thảo Hiến pháp vẫn phải do giới tinh hoa của dân tộc đảm nhận. Vấn đề là những người này phải thể hiện bản hiến văn như một khế ước xã hội, và người dân phải được tham gia thảo luận, đóng góp ý kiến và phê chuẩn bản hiến văn đó.
.
Nguồn: Tia sáng
* TS Nguyễn Sĩ Dũng hiện là Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội.

Thứ Sáu, 4 tháng 1, 2013

BÙI NGỌC SƠN: LẠI BÀN VỀ BÀI HỌC TỪ HIẾN PHÁP 1946

Lại bàn về bài học từ Hiến pháp 1946

Bùi Ngọc Sơn

22/09/2011 11:23

Trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành sửa đổi hiến pháp, nhiều học giả và một số nhà hoạt động chính trị đề nghị kế thừa những giá trị của Hiến pháp năm 1946 của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bài viết này bàn về cơ sở của những giá trị đó và gợi mở một số điều cho tương lai sửa đổi hiến pháp ở Việt Nam. 

1.Điều gì làm nên giá trị của Hiến pháp 1946?

Những giá trị nội dung của bản Hiến pháp 1946 có thể được tóm lược ở mấy điểm sau đây: nguyên tắc chủ quyền lập hiến thuộc về nhân dân; phân công quyền lực mạch lạc giữa ba cơ quan Nghị viện nhân dân, Chính phủ, và Tòa án; những hình thức kiểm soát quyền lực như chế độ bất tín nhiệm Nội các, chế độ phủ quyết tương đối các luật của ngành lập pháp; chế độ tư pháp độc lập; các dân quyền cơ bản.

Tại sao bản Hiến pháp 1946 lại có thể đạt được những giá trị như vậy? Một số ý kiến có thể cho rằng điều này bắt nguồn từ chỗ bản hiến pháp được soạn thảo bởi những con người ưu tú của dân tộc vào thời điểm đó dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh- Chủ tịch Ủy ban Dự Thảo Hiến pháp. Điều này có phần đúng, nhưng có những lý do có tính chất bản chất hơn.

Một bản hiến pháp thành văn, nếu thực sự chính đáng, không gì hơn là sự biểu đạt thành ngôn ngữ của luật cơ bản một trật tự, một trạng thái và những mong muốn thực tế của một cộng đồng chính trị. Hơn một trăm năm trước đây, GS Christopher Tiedeman (1857-1903), một nhà hiến pháp học kinh điển của nước Mỹ, đã cho rằng: “các hiến pháp chỉ hiệu quả khi các nguyên tắc của nó cắm rễ trong đặc tính của quốc gia, và do đó, là một sự phản ánh trung thành của ý chí quốc gia.”[1] Tiedeman gợi lại rằng lịch sử nhân loại không thiếu những trường hợp hiến pháp được áp đặt một cách tùy tiện lên người dân và do vậy không hiệu quả do không phản ánh những mong muốn thực sự của người dân. Để minh chứng, nhà hiến pháp học này đưa ra trường hợp Locke soạn thảo hiến pháp cho người Carolinas mà những nguyên tắc của nó không phù hợp với người bản địa và trường hợp Napoleon Bonaparte soạn thảo hiến pháp cho những vùng chiếm đóng[2].

Thứ Năm, 3 tháng 1, 2013

NGUYỄN SĨ DŨNG: SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP, HÃY HỌC NGAY Ở HIẾN PHÁP NĂM 1946

Học ở Hiến pháp năm 1946

Nguyễn Sĩ Dũng

21/09/2011 09:03
Để nghiên cứu, sửa đổi Hiến pháp năm 1992, về kỹ thuật lập hiến, về tư tưởng Nhà nước pháp quyền, có lẽ, chúng ta không cần phải học hỏi ở đâu xa, mà học ngay ở Hiến pháp năm 1946.  
Hiến pháp 1946 là một bản hiến văn hết sức ngắn gọn, súc tích. Toàn bộ bản hiến văn chỉ gồm 70 điều. Sự ngắn gọn này đạt được là nhờ vào việc Hiến pháp chỉ tập trung quy định những vấn đề thuộc phạm vi điều chỉnh của luật hiến pháp, mà cụ thể là các quyền tự do, dân chủ; các nguyên tắc và cách thức tổ chức các cơ quan quyền lực Nhà nước. Đây thực sự là một bản kế ước xã hội về việc phân chia quyền: quyền của các công dân và quyền của Nhà nước; quyền giữa các cơ quan Nhà nước với nhau.
Nếu Nhà nước pháp quyền là Nhà nước được tổ chức trên những nguyên tắc và thủ tục sao cho lạm quyền không thể xảy ra và quyền tự do, dân chủ của nhân dân được bảo vệ, thì Hiến pháp 1946 đã phản ánh đúng tinh thần đó.
Trước hết, để lạm quyền không thể xảy ra thì Hiến pháp đã được đặt cao hơn Nhà nước. Về mặt thủ tục, điều này có thể đạt được bằng hai cách: 1. Hiến pháp phải do Quốc hội lập hiến thông qua; 2. hoặc Hiến pháp phải do toàn dân thông qua. Hiến pháp 1946 đã thực sự do một Quốc hội lập hiến thông qua. Theo quy định của Hiến pháp 1946, nước ta không có Quốc hội mà chỉ có Nghị viện nhân dân với nhiệm kỳ 3 năm. Như vậy, đáng ra nếu không có chiến tranh, sau khi thông qua Hiến pháp, Quốc hội sẽ tự giải tán để tổ chức bầu Nghị viện nhân dân. Nghị viện nhân dân không thể tự mình sửa đổi hiến pháp. Mọi sự sửa đổi, bổ sung đều phải đưa ra toàn dân phúc quyết (Điều 70).

Thứ Hai, 10 tháng 9, 2012

09h HÔM NAY: THUYẾT TRÌNH VỀ "TRÚC LÂM ĐẠI SĨ XUẤT SƠN CHI ĐỒ"


Giấy mời dự thuyết trình và triển lãm
Trân trọng kính mời Ông/Bà tới dự buổi thuyết trình - triển lãm Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn chi đồ do Tạp chí TIA SÁNG và Không gian Sáng tạo Trung Nguyên tổ chức, với phần trình bày của Ths. Phạm Văn Tuấn, Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Thời gian: 9 giờ, Thứ Hai ngày 10 tháng 9 năm 2012
Địa điểm: Cà phê Sách Trung Nguyên - 52 Hai Bà Trưng, Hà Nội
Rất hân hạnh được đón tiếp!

TÓM TẮT NỘI DUNG
Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn chi đồ được coi là một tuyệt phẩm hội họa về vị hoàng đế lỗi lạc của Đại Việt khi ông đi từ động Vũ Lâm (Ninh Bình) ra Thăng Long. Nguyên bản tác phẩm hiện được lưu tại Bảo tàng Liêu Ninh – Trung Quốc mà mới đây, một bản chép lại của tác phẩm đã được bán đấu giá 1,8 triệu USD.

Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn chi đồ không chỉ là một họa phẩm hoàn mỹ mà nó còn chứa đựng trong đó vô vàn những thông điệp của quá khứ. Buổi thuyết trình sẽ là một nỗ lực nhằm phần nào giải đáp những câu hỏi như Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn chi đồ có mối quan hệ thế nào với lịch sử Việt Nam, với thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, bức tranh đã vẽ những ai, vẽ như thế nào, trang phục của người Việt thời Trần ra sao, và vì sao bao danh nhân đại bút Trung Hoa đã thêm bút nối lời cho tác phẩm.
Tại đây chúng ta cũng có thể chiêm ngưỡng dung nhan của Phật hoàng Trần Nhân Tông qua bản chụp phần lòng tranh được phóng khổ lớn.
Báo chí đưa tin về buổi thuyết trình:
04:36-10/09/2012
Thuyết trình về “Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ”
Nhị Giang

Ths. Phạm Văn Tuấn tại buổi thuyết trình
Sáng 10/9, Ths. Phạm Văn Tuấn, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã có buổi thuyết trình tại Cà phê Sách Trung Nguyên, Hà Nội, về “Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ”, bức thư họa mô tả cảnh Hoàng đế Trần Nhân Tông đi từ động Vũ Lâm (Ninh Bình) ra Thăng Long, được cho là do họa sĩ Trần Giám Như người Trung Quốc vẽ năm 1363.
 
Là báu vật trong kho tàng của Hạng Nguyên Biện - một giám thưởng gia nổi tiếng vào đời Minh sang đời Thanh, nó được giữ trong Cố Cung như một quốc bảo. Có thể thấy điều này qua rất nhiều ấn chương của Càn Long, Gia Khánh hay Tuyên Thống. Năm 1922, Phổ Nghi  - Hoàng đế cuối cùng nhà Thanh - tuy đã thoái vị nhưng vẫn ở trong Tử cấm thành, bí mật “tuồn” ra ngoài hơn 1.300 bảo vật, trong đó có cả bức thư họa này. Lưu lạc trong chiến cuộc, đến năm 1949, số báu vật nói trên mới được đưa vào Bảo tàng Đông Bắc (nay là Bảo tàng Liêu Ninh) lưu giữ, công chúng không mấy dịp được chiêm ngưỡng nữa. Bức Trúc Lâm đại sĩ cũng vì thế mà biệt tích. Năm 2004, Bảo tàng Liêu Ninh triển lãm và công bố các báu vật bị thất tán thời Phổ Nghi, nhưng cũng phải đến bản sao được bán đấu giá 1,8 triệu USD vào tháng 4-2012, công chúng mới được thấy rõ diện mạo bức tranh.
 
Bức tranh được cho là hoàn thành vào năm 1363 bởi họa sư Trần Giám Như, sau đó được các danh sĩ đời Minh viết thêm lời bình dẫn, tôn vinh. Thư pháp đặc sắc của họ hợp cùng họa phẩm tạo nên một chỉnh thể nghệ thuật thư – họa, có tổng chiều dài lên đến 9.61m trong đó 3.1m là phần lòng tranh. Tranh có hơn 80 nhân vật trong đó nhân vật chính trong bức họa là Phật hoàng Trần Nhân Tông ngồi trên cáng từ động Vũ Lâm xuất du xuống núi. Các tùy tùng, trừ những quan văn võ trong triều thì còn lại đều đi chân đất. Có một số tăng nhân Ấn Độ đi cùng, với đặc trưng về dị tộc rất đặc thù. Có hạc dẫn đường ở phía trước đoàn của vua, Voi trắng chở kinh đi ở sau cùng. Phía trước voi có người cưỡi trâu là đạo sĩ Lâm Thời Vũ. Phía đoàn đón rước có vua Trần Anh Tông cùng các tuỳ tùng cung nghinh Phật hoàng khi người xuống núi.


Phần tranh vẽ Phật hoàng Trần Nhân Tông ngồi võng xuống núi.
Bên cạnh những thông tin mà một số nhà nghiên cứu đã đưa ra về bức tranh, người thuyết trình cung cấp thêm một số chi tiết về Trần Giám Như – tác giả bức tranh quý hiếm này. Trần Giám Như là họa sư đời Nguyên, một thượng thủ về tranh vẽ truyền thần, học trò của Triệu Mạnh Phủ, và cũng đã nhiều lần vẽ chân dung cho Triệu Mạnh Phủ. Người đề tên tranh là Trần Đăng, một người giỏi chữ triện hàng đầu vào thời đó…

Buổi thuyết trình đã nhận được nhiều câu hỏi cũng như những thông tin bổ xung và gợi ý về những hướng nghiên cứu mới đối với bức tranh  từ phía cử tọa là những nhà nghiên cứu Hán Nôm, các thư pháp gia, hoạ sỹ, và báo chí.

Ảnh chụp phần lòng tranh với kích thước gần bằng kích thước thật cũng được trưng bày tại buổi thuyết trình do tạp chí Tia Sáng tổ chức này.
Nguồn: Tia Sáng.

Chi tiết bức họa người TQ vẽ vua Trần Nhân Tông giá 1,8 triệu USD
Cập nhật lúc :6:01 PM, 10/09/2012
 
(ĐVO) Thạc sĩ Phạm Văn Tuấn, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã có buổi thuyết trình về “bức thư họa mô tả cảnh Hoàng đế Trần Nhân Tông đi từ động Vũ Lâm (Ninh Bình) ra Thăng Long có tên "Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ”-  được nhiều nhà nghiên cứu cho là do họa sĩ Trần Giám Như người Trung Quốc vẽ năm 1363.
 
Ths. Phạm Văn Tuấn
Là báu vật trong kho tàng của Hạng Nguyên Biện - nhà sưu tầm nổi tiếng vào đời Minh sang đời Thanh rồi được giữ trong Cố Cung như một quốc bảo. Có thể thấy điều này qua rất nhiều ấn chương của Càn Long, Gia Khánh hay Tuyên Thống.

Năm 1922, Phổ Nghi - Hoàng đế cuối cùng nhà Thanh - tuy đã thoái vị nhưng vẫn ở trong Tử cấm thành, bí mật “tuồn” ra ngoài hơn 1.300 bảo vật, trong đó có cả bức thư họa này. Lưu lạc trong chiến cuộc, đến năm 1949, số báu vật nói trên mới được đưa vào Bảo tàng Đông Bắc (nay là Bảo tàng Liêu Ninh) lưu giữ, công chúng không mấy dịp được chiêm ngưỡng nữa. Bức Trúc Lâm đại sĩ cũng vì thế mà biệt tích.
Hình ảnh đạo sĩ Lâm Thời Vũ trong tranh.
Năm 2004, Bảo tàng Liêu Ninh triển lãm và công bố các báu vật bị thất tán thời Phổ Nghi, nhưng cũng phải đến bản chép lại được bán đấu giá 1,8 triệu USD vào tháng 4/2012, công chúng mới được thấy rõ diện mạo bức tranh. Hiện không có thông tin về tác giả và thời điểm chép lại bức tranh
Bức tranh gốc hiện lưu tại Bảo tàng tỉnh Liêu Ninh có kích thước 28X961(cm) với phần lòng tranh có kích thước 28X316(cm). Bức ảnh chụp phần lòng tranh này có kích thước 22X240(cm). Bức tranh gốc hiện lưu tại Bảo tàng tỉnh Liêu Ninh có kích thước 28X961(cm) với phần lòng tranh có kích thước 28X316(cm). 2 ảnh trên chỉ là 1 phần của bức tranh.
Bức tranh được cho là hoàn thành vào năm 1363 bởi Trần Giám Như, sau đó được các danh sĩ đời Minh viết thêm lời bình dẫn, tôn vinh.

Thư pháp đặc sắc của họ hợp cùng họa phẩm tạo nên một chỉnh thể nghệ thuật thư – họa, có tổng chiều dài lên đến 9.61m trong đó 3.1m là phần lòng tranh. Tranh có hơn 80 nhân vật trong đó nhân vật chính trong bức họa là Phật hoàng Trần Nhân Tông ngồi trên cáng từ động Vũ Lâm xuất du xuống núi. Các tùy tùng, trừ những quan văn võ trong triều thì còn lại đều đi chân đất. Có một số tăng nhân Ấn Độ đi cùng, với đặc trưng về dị tộc rất đặc thù. Có hạc dẫn đường  ở phía trước đoàn của vua, Voi trắng chở kinh đi ở sau cùng. Phía trước voi có người cưỡi trâu là đạo sĩ Lâm Thời Vũ. Phía đoàn đón rước có vua Trần Anh Tông cùng các tuỳ tùng cung nghinh Phật hoàng khi người xuống núi. 
 Bên cạnh những thông tin mà một số nhà nghiên cứu đã đưa ra về bức tranh, người thuyết trình cung cấp thêm một số chi tiết về Trần Giám Như – tác giả bức tranh quý hiếm này. Trần Giám Như là họa sư đời Nguyên, một thượng thủ về tranh vẽ truyền thần, học trò của Triệu Mạnh Phủ, và cũng đã nhiều lần vẽ chân dung cho Triệu Mạnh Phủ. Người đề tên tranh là Trần Đăng,

Bức tranh gốc hiện lưu tại Bảo tàng tỉnh Liêu Ninh có kích thước 28X961(cm) với phần lòng tranh có kích thước 28X316(cm). Bức ảnh chụp phần lòng tranh này có kích thước 22X240(cm).

Nguồn: Đất Việt

Thứ Năm, 6 tháng 9, 2012

KÍNH MỪNG NHÀ VĂN NGUYÊN NGỌC ĐẠI THỌ 80 TUỔI

Lời dẫn: Nhà văn Nguyên Ngọc, một nhà văn nổi tiếng của Việt Nam, một nhân sĩ trí thức có phẩm cách thanh cao và tình yêu bền chặt như một định mệnh với Tây Nguyên, một người bạn lớn của giới trí thức tinh hoa và của thanh niên đất Việt, năm nay tròn 80 tuổi. 

Ông là một ngọn núi quanh năm phủ mờ sương mây. Ông là một cổ thụ bốn mùa che rợp bóng mát. Cao mà không cô đơn. Nghiêm mà Từ. Xa mà Gần. Khó gặp mà khó xa. Nguyên Ngọc lừng lững tạc một chân dung đổ bóng dài trên nền văn hóa và văn học Việt Nam suốt nửa thế kỷ qua. Khi đã bảy tám mươi Xuân, Nguyên Ngọc - như một gộc cây vẫn vắt kiệt tâm trí để dâng đời những hoa thơm quả ngọt của trí tuệ, của lòng bác ái, của sự tận tâm. Đúng như câu thơ cổ: "Lão thụ trước hoa vô sửu chi"(Cổ thụ đơm hoa mà cành nào cũng đẹp). Mỗi cành ấy là các bản dịch, các bài báo, bài trả lời PV, các luận văn lớn nhỏ về văn hóa và giáo dục, các diễn văn, thư từ, các bài giảng, các bài thuyết trình...Tất cả cho thấy hoạt động phong phú và đóng góp đa diện và rất cụ thể của ông đối với nước nhà. 

Nhân dịp Mừng Đại thọ 80 tuổi của Nhà văn Nguyên Ngọc kính mến, chúng tôi thành kính gửi đến Ông lời cầu chúc dồi dào sức khỏe, sức sáng tạo. Và xin chia sẻ với bạn đọc tại đây, chùm bài viết Ông - một người mà chủ Blog này đã coi là một Biểu tượng đẹp đẽ của lòng nhân ái, khoan dung, của sự bền bỉ và tận tụy, của sự dấn thân và hiến dâng những mùa Xuân cho Đất Nước Đứng Lên.  

************************************** 
Bát tuần rồi Nguyên Ngọc ơi!
Phạm Duy Hiển

Thật nực cười khi nghĩ rằng Nguyên Ngọc phải tiếp tục cho ra những tiểu thuyết, những sử thi thời hậu chiến, thì mới xứng đáng là nhà văn lớn. Tại sao làm những việc mà Nguyên Ngọc dốc sức trong mấy năm nay lại chưa xứng tầm một nhà văn lớn? 

Gần đây rộ lên một chủ đề rất lý thú: Tại sao văn học Việt Nam chưa có tác phẩm lớn? Biết phận mình ngoại đạo, tôi chỉ háo hức theo dõi, không dám ho he. Nghĩ bụng không riêng gì văn học, tất thảy… từ khoa học tự nhiên, xã hội đến nghệ thuật, nhân văn đều thấp lè tè. Không có rừng, chỉ lau lách chen chúc với cây bụi. Trên mảnh đất không thể mọc lên cây cao, sum suê, cho dù có gieo lên những hạt giống tốt nhất. Đi tìm nguyên nhân thiếu tác phẩm văn học lớn ắt sẽ bắt gặp mảnh đất ấy.

Tình cờ một hôm bên cốc cà phê có người mách: “… Hình như bí hết cả rồi! Đến Nguyên Ngọc từng có Đất nước đứng lên được giải nhất Hội Văn nghệ ngay sau hòa bình lập lại 1954, Rừng xà nu được tuyển vào sách luyện văn cho học trò, sau đó lại có Đề dẫn khởi động phong trào đổi mới văn học, nhưng mấy năm nay không thấy tăm hơi gì nữa”.

Đây rồi! Một gợi ý chí lý, một mũi tên lạc hướng mà trúng đích. Chính Nguyên Ngọc đã trăn trở với nan đề trên và đi tìm lời giải cho hiện tượng làng nhàng, sản phẩm tất yếu của số đông được chăm sóc, hay đúng hơn, được chăn dắt chu đáo. Nhưng anh vượt lên trên cái mẫu hình văn học hiện thực phải đạo nổi tiếng của Hoàng Ngọc Hiến để tìm đến ngọn nguồn văn hóa, rộng hơn về không gian lẫn thời gian, thậm chí còn dấn thân vào một hành trình thử nghiệm đầy thách thức.

Nguyên Ngọc người Quảng Nam. Thỉnh thoảng ta vẫn thấy chất Quảng đặc sệt trong anh. Nói thỉnh thoảng, vì chất Quảng được pha trộn nhiều, bớt đậm đặc và cực đoan hơn, do anh đi nhiều, sống ở nhiều nơi, các tỉnh miền Trung và nhất là Tây Nguyên, một miền đất huyền ảo. Thích được rủ rê và cũng hay rủ rê người khác đi cho vui. Lang bạt kỳ hồ để hiểu, tận hưởng, có khi cái chết cận kề trong gang tấc mà cứ thấy nhẹ tênh, nên nét khắc khổ xứ Quảng đã phai mờ, chỉ còn lại một lãng tử Nguyên Ngọc. Lãng tử từ trẻ cho đến tận bây giờ.

Trong kháng chiến chống Pháp, Quảng Nam bị chiếm, chỉ một rẻo nhỏ phía Nam nối liền với vùng tự do kéo dài đến tận Phú Yên qua hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định. Ở tuổi mười lăm, Nguyên Ngọc vào học Lê Khiết, nơi thầy Hoàng Tụy dạy toán. Thầy lớn hơn anh năm tuổi. Thầy Tụy có lúc tiết lộ: Ngọc giỏi toán lắm. Nhiều lúc tôi nghĩ giá Nguyên Ngọc đi làm khoa học, chắc anh sẽ rất thành công.

Nguyên Ngọc thông tường đến kỳ lạ mọi ngõ ngách ở miền Trung và Tây Nguyên. Quảng Nam thì khỏi nói, hình như không có mét vuông đất nào thiếu dấu chân anh, tôi giễu anh khi được anh rủ đi chơi đâu đó trong xứ Quảng. Còn Quảng Ngãi, nhiều lúc tôi cứ tưởng chính anh, chứ không phải tôi, đã từng sinh ra ở đây. Đi với anh khỏi phải lo, ở đâu cũng có người quen. Anh quen từ những người bình thường (nhưng phải có một đặc điểm nào đó) đến lãnh đạo cao cấp nhất trong vùng như Tướng Nguyễn Chánh thời kháng chiến chống Pháp khi anh còn là một lính văn phòng đến ông Võ Chí Công thời chống Mỹ, sau này làm Chủ tịch nước. Mỗi người, mỗi địa danh trong bộ nhớ của anh đều có một vài dấu tích, có thể là một sự tích, chuyện vui, hoặc trải nghiệm bản thân. Lúc thích hợp, anh có thể lôi ngay nó ra khiến người nghe phải ngỡ ngàng.

Quen Nguyên Ngọc, nhiều lúc tôi chỉ ước ao sao cho dung lượng bộ nhớ của mình bằng được một phần mười của anh. Trong Lễ thổi tai và rượu cần anh lý giải tại sao anh giữ được bộ nhớ đồ sộ như vậy:

Nhớ và quên, ngẫm mà xem, phải chăng nói cho cùng đó là hai lẽ sinh tồn tuy hai mà một, hai mặt chủ yếu không thể tách rời của công cuộc làm người ở đời. Không biết nhớ thì hiển nhiên không thể là con người rồi. Song sống mà không biết quên, không có những lúc biết quên đi đến mức “nẻ cả lỗ tai” thì cũng chẳng thể nào sống nổi trên cõi nhân gian biết mấy khổ đau, quá phức tạp và nhiêu khê này. Cuộc đời này, phải chăng lắm lúc cũng đáng quên biết bao nhiêu, quên phứt đi cho rảnh, cho rồi, mà ngẫm cho cùng cũng lại đáng sống để mà nhớ lấy biết bao nhiêu…

Bắt chước anh khó quá! Hồi nhỏ mình không được mẹ làm lễ thổi tai nên trí nhớ kém, lớn lên lại không biết uống rượu cần nên chuyện gì không nhớ được là quên luôn. Riêng có mấy lời các cụ xứ Quảng răn con cháu thì tuy khó mà vẫn nhớ được, nhớ để thỉnh thoảng còn “điểm huyệt” Nguyên Ngọc:

Bất giao Thừa Thiên hữu,
Bất thú Quảng Nghĩa thê,
Bất thương Bắc Hà khách,
Bất đấu Bình Định kê.


Tôi hay đùa với Nguyên Ngọc: Sao cả hai thầy trò anh không nghe lời bề trên? Thầy Tụy dạy ở trường Lê Khiết lại phải lòng một nữ sinh con nhà danh gia vọng tộc xứ Quảng Ngãi. Còn anh, sau khi tung tăng khắp bốn phương trời lại hạ cánh xuống Bình Định, miền đất nổi tiếng các nữ hổ, sao anh không ngán? Nguyên Ngọc cười “hai người ế gặp nhau mà!”. Thế mà vào tuổi bát tuần chị Tâm lại khen anh … còn hiếu động lắm!

Phải chăng Quảng Nam hay cãi là thế. Mà chính tính cách đó đã làm nên cái địa danh văn hóa hàng đầu này của đất nước với những ngôi sao vằng vặc trên bầu trời cũng chính là những con người Quảng Nam nhất, như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Khôi v.v… Thời nay trong số những ngôi sao ấy không thể thiếu Hoàng Tụy và Nguyên Ngọc. Nhưng anh Nguyễn Văn Hạnh, bạn học của Nguyên Ngọc thời niên thiếu, bạn nghiên cứu sinh của tôi hồi ở Đại học Moscow, lại quả quyết rằng Quảng Nam thời nay không chỉ có hai người này đâu nhé. Ở cực bên kia, cùng phe ta cả, có mấy vị A, B, C chẳng kém cạnh chút nào. Tôi chẳng quen biết mấy vị nên không thể bình luận gì. Nghĩ bụng, chắc họ cũng cãi dữ lắm, họ cãi lại những gì không hợp với chính thống.

Đi tìm ngọn nguồn văn hóa cho những nan đề của đất nước, Nguyên Ngọc đến với người đồng hương Phan Châu Trinh. Là nhà văn, anh nghiên cứu Phan Châu Trinh với hơi thở và nhịp đập hòa vào nhân vật. Nhưng anh không biến Phan Châu Trinh thành nhân vật tiểu thuyết mà quyết liệt trong cách tiếp cận khoa học, từ việc lôi ra cho được những bằng chứng lịch sử không thể chối cãi mà lâu nay còn ẩn mình trong các thư tịch hiếm hoi, đến việc xem xét tác động của trào lưu duy tân trên toàn thế giới đến phong trào Duy Tân ở nước ta, để cuối cùng chứng minh con đường này có giá trị phổ quát.

Tôi không đủ hiểu biết và điều kiện để xem các sử gia từng nghiên cứu Phan Châu Trinh đã nói gì. Nhưng tôi có cách tiếp cận khác, xem học sinh được học những gì về Phan Châu Trinh, qua đó biết được một cách cô đặc và chính xác nhất cách hiểu và đánh giá Phan Châu Trinh trong giới chính thống. Sách giáo khoa Lịch sử lớp 11 dày 154 trang có năm trang dành cho bài số 23: “Phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến Chiến tranh Thế giới Thứ nhất”, trong đó có đề mục thứ hai dài một trang “Phan Châu Trinh và xu hướng cải cách”. Bài được mở đầu thế này:

“Ông là người sớm tiếp thu những tư tưởng tiến bộ, chủ trương cứu nước bằng biện pháp cải cách như nâng cao dân trí, dân quyền, dựa vào Pháp để đánh đổ ngôi vua và bọn phong kiến hủ bại, xem đó như là điều kiện tiên quyết để giành độc lập” (chữ nghiêng của tôi).

Chưa hết. Các nhà soạn sách còn cố ý chừa lại một điểm nhấn dành cho học sinh tự suy ngẫm trong mục gợi ý ở cuối bài: “Hãy nêu những sự kiện chứng minh Phan Châu Trinh chủ trương cứu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản…”.

Chao ôi, người ta sợ cái món dân chủ tư sản quá, rồi đem bóng ma ấy ra hù học trò! Họ gói phong trào Duy Tân cùng với khẩu hiệu khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh nổi tiếng của cụ Phan lại thành một cục, đóng lên đó cái triện “dân chủ tư sản” và “dựa vào Pháp” để cho người đời quên đi một trào lưu nổi bật trong lịch sử. Rất dễ hiểu vì sao Nguyên Ngọc và các đồng nghiệp phải dày công “lật lại” hồ sơ Phan Châu Trinh, cố gắng đặt phong trào này lại đúng chỗ trong dòng chảy lịch sử cận đại.

Tôi không dám đả động đến chuyện đúng sai của các nhân vật lịch sử. Phan Châu Trinh không đi đến đích là đương nhiên, nhưng như vậy không hề có nghĩa ông không đúng, hoặc chỉ là một khúc nối nhỏ để tránh cho lịch sử khỏi bị đứt quãng. Phong trào Duy Tân ở Nhật do Fukuzawa, Ikuchi,.. khởi xướng đã thành công nhờ có sự đốc thúc mạnh mẽ của chính Minh Trị Thiên hoàng và được tầng lớp tư sản đang lên samurai dốc lòng ủng hộ. Một nước không mấy tiếng tăm cạnh ta như Thái Lan cũng thành công ít nhiều trong canh tân hồi đầu thế kỷ trước là nhờ có một Bộ trưởng là nhà văn hóa lớn nằm ngay trong Chính phủ Hoàng gia. Ngược lại, ở Việt Nam một phong trào vận động quần chúng canh tân như thế làm sao khỏi bị chính quyền thực dân thẳng tay bóp chết khi còn trong trứng nước.

Điều trớ trêu là sau hơn một thế kỷ, có chính quyền trong tay, với điều kiện tốt nhất chưa từng có trong lịch sử để khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, chúng ta lại không làm quyết liệt. Nếu nhận thức đúng, và làm theo triệt để, mọi việc đã có thể khác. Tiêu cực xã hội tràn lan, lên đến tột đỉnh, đang đe dọa tương lai đất nước là điều rất dễ hiểu.

Tiếp thu tinh thần Duy Tân, Nguyên Ngọc bỏ ra nhiều công sức để dịch thuật, từ J. P. Satre, M. Kundera, F. Julien và nhiều tác giả khác chuyên sâu về văn hóa Tây Nguyên. Anh đi đầu, giương cao ngọn cờ Tân văn trong văn học nghệ thuật, lá cờ đã đưa Nhật Bản đến thành công. Anh vật lộn với các tác phẩm kinh điển để tự học và cho đồng nghiệp cùng học bởi nỗi trăn trở không nguôi đối với lớp nhà văn trẻ không có ngoại ngữ và thiếu kiến thức nền về văn hóa.

Thời nào cũng vậy, mà nhất là thời đại hội nhập toàn cầu hiện nay, cứ hài lòng quanh quẩn trong sân nhà, rồi tán dương tâng bốc nhau, làm sao ra được tác phẩm lớn. Muốn biết tác phẩm lớn nhỏ phải đem chúng đặt lên hệ quy chiếu toàn cầu, phải chấp nhận phương pháp luận và chuẩn mực phổ quát trên thế giới. Văn học, dù viết bằng tiếng Việt, chắc không tránh khỏi quy luật này. Hãy bỏ cái thói kiêu ngạo vô lối “ta có con đường của ta”. Hãy đừng sợ diễn biến hòa bình mà không chịu xông lên các sân chơi quốc tế, con đường độc đạo đưa chúng ta lên đỉnh cao. Hãy xem Olympic 2012, xem cả cái cách mà khắp nơi người ta tôn vinh các vận động viên hàng đầu thế giới như thế nào. Đơn giản là thế, song không phải ai cũng chịu nhận ra và dấn thân như Nguyên Ngọc.

Thật nực cười khi nghĩ rằng Nguyên Ngọc phải tiếp tục cho ra những tiểu thuyết, những sử thi thời hậu chiến, thì mới xứng đáng là nhà văn lớn. Tại sao làm những việc mà Nguyên Ngọc dốc sức trong mấy năm nay lại chưa xứng tầm một nhà văn lớn? Không chỉ trong văn học, trong khoa học cũng có chuyện buồn cười tương tự. Nhiều người không dám bứt phá, bị quá khứ huyễn hoặc, rồi chịu chết “lâm sàng” trong cái chuyên ngành chật hẹp của mình. Trong khi khoa học, cả tự nhiên lẫn xã hội, nhân văn, từ lâu đã là đa ngành.

Mà Nguyên Ngọc vẫn viết truyện ngắn đấy chứ, và những tác phẩm hay nhất của anh vẫn là về Tây Nguyên. Vẫn giọng văn đó, không lẫn với ai, nhưng truyện Tây Nguyên của anh bây giờ, theo tôi, còn hay hơn ngày trước nhiều. Trước đây anh là một tráng sĩ – nhà văn, bây giờ anh viết văn trên tư thế một nhà văn hóa được trang bị đầy đủ kiến thức Đông - Tây kim cổ.

Rừng xà nu là một bản anh hùng ca, có chỗ đứng khá trang trọng trong sách Ngữ văn lớp 12, song với tôi, nó không hấp dẫn bằng mấy truyện ngắn anh viết gần đây về rừng Tây Nguyên như Tượng gỗ rừng già, Người hát rong giữa rừng, Lễ thổi tai và rượu cần... Rừng xà nu không thoát khỏi dòng văn học “minh họa”, do đó buộc phải bằng những tình huống cực đoan nhất, khốc liệt nhất trong chiến tranh để minh họa chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

Ngược lại, mấy truyện ngắn gần đây của Nguyên Ngọc về rừng Tây Nguyên là chuyện đời thường, rất “thường” là khác, nhưng lại rất kỳ lạ, đọc chúng cứ thấy ngỡ ngàng như người bị lóa mắt khi bước từ bóng tối ra ánh sáng. Nhân vật Tnú trong Rừng xà nu thật anh dũng, anh bóp cổ thằng Dục bằng bàn tay rụi hết cả ngón do chính tên ác ôn này đốt khi tra tấn anh và giết chết vợ anh trước đó. Nhưng hành động này không lạ bằng anh chàng cục mịch được linh ứng đi vào rừng già tìm khúc gỗ đẽo tượng trong dịp cất nhà rông của làng. Lạ hơn nữa, anh chàng này nhìn Nguyên Ngọc một cách đầy ác cảm và tức tối khi nhà văn từng có những tác phẩm để đời về Tây Nguyên lại lẩm cẩm hỏi mua anh một chiếc tượng gỗ đem về bày lên bàn làm việc. Nó chạm đến chỗ linh thiêng nhất của người Gia Rai: Rừng.

Rừng ở Tây Nguyên đầy hoang dại, bí ẩn, linh thiêng, là nơi con người trực tiếp với thần linh và được thần linh che chở. Không phải cồng chiêng, lễ hội… mà chính rừng mới là cội nguồn văn hóa ở miền đất này, Nguyên Ngọc thật tuyệt vời khi nhắc nhở chúng ta điều này. Phá rừng Tây Nguyên, đẩy người dân tộc ra khỏi rừng, là tội phạm.

Ở tuổi bát tuần Nguyên Ngọc vẫn đi. Tôi luôn nhìn chừng anh đang đi ở tốp trước và theo sau. Xa hơn một chút về phía trước còn có thầy Hoàng Tụy. Khoảng cách đến hai người đo theo chiều kích thời gian là 5 và 10 năm. Đi cho đến bao giờ hở anh? Anh cười đầy tự tin: “Đi mãi…, để còn thấy con tạo xoay vần đến đâu”. Nhưng mà đã bát tuần rồi, anh Ngọc ơi! 

Nguồn: Tia Sáng. 

Thứ Năm, 5 tháng 7, 2012

CHÍNH QUYỀN TP HUẾ TIẾP TAY CHO KẺ VÔ ƠN VÀ PHẢN PHÚC

GS. TS Thái Kim Lan đã 20 năm nay thay mặt dòng họ Thái đi khiếu kiện mà vẫn chưa kết quả.

Vụ khuôn viên dòng họ Thái ở Huế bị lấn chiếm đất đai:
Không chỉ là chuyện cá nhân
Nguyễn Phúc Nhân Tâm

Phía sau câu chuyện ông K được người giữ nhà thờ họ Thái ở Huế cho ở nhờ, sau đó dần dà chiếm đất, là bộ mặt đạo đức xã hội của vùng đất cố đô Huế đang có nhiều chuyện đáng lo ngại, là những ứng xử đạo đức và văn hóa đã dần dà mất đi, rất đáng báo động, là việc ứng xử của chính quyền có những vấn đề cần phải được điều chỉnh... 

Trước hết, hãy bàn đến câu chuyện cá nhân ông K xin ăn nhờ ở đậu trên đất nhà thờ họ Thái, sau đó vô ơn và phản phúc chiếm lấy đất đai của dòng họ. Đây có phải là chuyện giữa cá nhân ông K và dòng họ Thái ở Huế không? Thiết nghĩ hoàn toàn không. Bởi vì phía sau câu chuyện đáng buồn đó còn là vấn đề ứng xử văn hóa và đạo đức xã hội của các cấp chính quyền ở Huế.