Hiển thị các bài đăng có nhãn Bùi Xuân Đính. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Bùi Xuân Đính. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 5 tháng 11, 2025

XÂY TƯỢNG ĐÀI CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TRONG KHU DI TÍCH LỊCH SỬ ĐỀN HÙNG: CẦN ĐÚNG LUẬT, ĐÚNG PHONG TỤC, ĐÚNG ĐẠO LÝ


XÂY TƯỢNG ĐÀI CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TRONG KHU DI TÍCH LỊCH SỬ ĐỀN HÙNG: CẦN ĐÚNG LUẬT, ĐÚNG PHONG TỤC, ĐÚNG ĐẠO LÝ

PGS.TS Bùi Xuân Đính

Mấy ngày nay, dư luận và mạng xã hội (MXH) xôn xao, bàn luận về tin đăng trên nhiều trang báo chính thống và MXH đáng tin cậy: tỉnh Phú Thọ đang xúc tiến xây dựng Tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Khu Di tích lịch sử Đền Hùng, dự kiến hoàn thành trước Giỗ Tổ Hùng Vương năm 2026.

Vấn đề này tôi xin có vài ý kiến như sau:

Thứ Năm, 13 tháng 7, 2023

TRƯỜNG HỢP PGS.TS ĐỖ XUÂN TUẤT (HỌC VIỆN CTQG HCM)

Trường hợp Phó Giáo sư Tiến sĩ Đỗ Xuân Tuất, Phó Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của đảng, Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

Bài: PGS.TS Bùi Xuân Đính
 
Tháng 9/1992, qua một người quen ở xã bên cạnh, Đảng ủy xã Đông La (huyện Hoài Đức khi đó thuộc tỉnh Hà Tây) mời tôi về biên soạn cuốn Lịch sử cách mạng của xã. Tôi nhận lời vì đây là dịp tốt để nghiên cứu sâu về các làng (Đông Lao, La Tinh, và Đồng Nhân - một phần của làng La Phù tách ra) của xã này. Sau hơn một năm miệt mài, thận trọng làm việc, bản thảo hoàn thành và được tôi đọc toàn văn trước toàn Đảng bộ (ngày 7/5/1994). Sau đó, bản thảo được đọc trên Đài Truyền thanh của xã nhiều lần để lấy ý kiến. Không có ý kiến phản đối, coi như xong. Nhưng khi đó, xã thiếu kinh phí, nên phải đến tháng 6/1995, mới đưa làm thủ tục in tại Nxb .Lao động với giá thấp nhất so với các Nxb. mà tôi đi “chào hàng” giúp Đảng bộ xã lúc đó. Đến cuối tháng 8/1995, sách ra (bốn ảnh đầu), Đảng ủy xã không có điều kiện tổ chức lễ phát hành, chỉ phát cho các chi bộ. Từ đó, đến hơn 10 năm sau, tôi chỉ nhận được một ý kiến của một cụ lão thành, cần sửa lại một điểm sai sót (do tôi đọc không thật kỹ bản bông). 
 

Thứ Ba, 18 tháng 10, 2022

MỘT BỘ TRƯỞNG, ĐẠI BIỂU QH ĐÁNG PHẢI TỪ NHIỆM, MIỄN NHIỆM


Trước thềm kỳ họp Quốc hội 20/10 - 18/11/2022:
MỘT NGƯỜI ĐÁNG PHẢI TỪ NHIỆM, MIỄN NHIỆM


Cử tri Bùi Xuân Đính

Từ hôm qua, nhiều báo đã loan tin, trong kỳ họp sắp tới đây, Quốc hội sẽ miễn nhiệm ông Bộ trưởng Bộ Giao thông Nguyễn Văn Thể. Nguyên nhân vì sao, chưa rõ, xin không bàn.

Nhưng có một người, theo Cử tri Bùi Xuân Đính tôi, phải bị miễn nhiệm từ lâu. Đó là ông Nguyễn Chí Dũng- Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Chiều 12 tháng 11 năm 2021, trong phiên đăng đàn chất vấn, ông đã “xin khất” trả lời về việc 162.000 ha đất, trong đó có nhiều đất ở vị trí “hiểm yếu” đang do người Trung Quốc nắm giữ, gây bức xúc dư luận, nhất là bà con vùng biên giới (có lẽ vì điều này mà dân gian gọi ông ta là “Bộ đất” ?).

Thứ Tư, 27 tháng 7, 2022

CÁC VỊ ĐÔ TRƯỞNG THĂNG LONG - HN BỊ MẤT CHỨC TRONG LỊCH SỬ

CÁC VỊ ĐÔ TRƯỞNG THĂNG LONG - HÀ NỘI
BỊ MẤT CHỨC TRONG LỊCH SỬ

PGS.TS Bùi Xuân Đính

Bài này được viết sau khi các báo, đài, mạng xã hội loan tin hôm qua: Chu Ngọc Anh (cùng với Nguyễn Thanh Long) bị cho ra khỏi Đảng. Hôm nay, HĐND thành phố Hà Nội sẽ nhóm họp để bãi miễn chức vụ Chủ tịch UBND thành phố của vị con cháu họ nhà Chu. Trước hết, xin có đôi câu đối tặng anh:

TỪ BA VÌ THÔN DÃ CẰN KHÔ, TÀI MỎNG, MƯU DÀY, NGỌC ANH CHÓI NGỜI NƠI ĐỈNH THƯỢNG,

ĐẾN THỦ ĐÔ PHỐ PHƯỜNG MÀU MỠ, ĐỨC HÈN, MẸO LẮM, CHU GIA XÁN LẠN CHỖ CỬA TOANG!

Trở lại với chủ đề được nêu. Lịch sử Thăng Long - Hà Nội kể từ khi Lý Thái Tổ rời đô từ Hoa Lư ra (năm Canh Tuất, 1010), đến năm Mậu Tý - 1888, năm thực dân Pháp thành lập thành phố Hà Nội với hệ thống chính quyền cai trị của họ, thống kê chưa đầy đủ có 145 vị đảm nhận cương vị người đứng đầu đơn vị hành chính đặc biệt này với các tên gọi khác nhau ở mỗi thời kỳ, vương triều. Có nhiều vấn đề nghiên cứu lý thú về việc cử người đứng đầu Thăng Long - Hà Nội, hoạt động đóng góp của họ với sự phát triển của đô thị đặc biệt trọng yếu này. Ở đây chỉ đưa ra một con số để mọi người cùng ngẫm : trong hơn 8 thế kỷ được nghiên cứu, trong 145 vị đô trưởng TL - HN, chỉ có 4 vị bị mất chức, trong đó có 3 vị thời Lê và 1 vị thời Nguyễn. 

Thứ Tư, 15 tháng 6, 2022

NHÀ VĂN HOÀNG QUỐC HẢI VÀ PGS.TS BÙI XUÂN ĐÍNH ĐĂNG ĐÀN


Chuyên đề:
Vị thế Thăng Long - Hà Nội
và việc Chọn người cai quản Thăng Long Hà Nội


Khách mời: Nhà văn Hoàng Quốc Hải & Nhà nghiên cứu Bùi Xuân Đính
Dẫn chuyện: Nguyễn Xuân Diện


Nhà văn Hoàng Quốc Hải: Lịch sử đã để lại cho ta bài học vô cùng quí báu. Các đời sau, nếu khiêm tốn học lấy bài học bổ nhiệm cán bộ của thời Lý, thời Trần, chắc chắn Thăng Long - Hà Nội vẫn là đô thành đáng sống nhất của cả nước. Và nếu các tỉnh theo kịp Hà Nội, thì bất cứ nơi nào của nước ta cũng là nơi đáng sống.

Nhà Nghiên cứu Bùi Xuân Đính: Từ Hoa Lư ra (năm Canh Tuất, 1010), đến năm Mậu Tý - 1888, năm thực dân Pháp thành lập thành phố Hà Nội với hệ thống chính quyền cai trị của họ, thống kê chưa đầy đủ có 145 vị đảm nhận cương vị người đứng đầu đơn vị hành chính đặc biệt này với các tên gọi khác nhau ở mỗi thời kỳ, vương triều. Trong hơn 8 thế kỷ được nghiên cứu, trong 145 vị đô trưởng TL - HN, chỉ có 5 vị bị mất chức, trong đó có 3 vị thời Lê và 2 vị thời Nguyễn. Không ai trong đó mất chức vì tham nhũng.

Thứ Năm, 9 tháng 6, 2022

NÓI LẠI VỀ VIỆC CỬ NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU THĂNG LONG - HÀ NỘI


NÓI LẠI VỀ VIỆC CỬ NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU THĂNG LONG - HÀ NỘI
THỜI PHONG KIẾN


Bùi Xuân Đính 

Ngày hôm qua, mạng xã hội rôm rả hơn với tin vị Đô trưởng Hà Nội Chu Ngọc Anh bị cách chức và bị khám xét nhà, bắt tạm giam. Mình thấy ít nhất có 3 bài bàn về việc người xưa cử người đứng đầu Thăng Long - Hà Nội, dưới các góc nhìn khác nhau. Mình xin đăng lại phần đầu Kết luận trong cuốn sách “Người đứng đầu Thăng Long - Hà Nội (1010 – 1945)” của mình, do Nxb. KHXH ấn hành 2020 (sách in đợt đầu do Nhà nước đặt hàng nên không có bán trên thị trường). Rất mong Nxb cho tái bản để phục vụ bạn đọc.

***** 

Thứ Sáu, 19 tháng 11, 2021

Bùi Xuân Đính: TỪ CỘT MỐC 238, NGHĨ VỀ DŨNG KHÍ CHA ÔNG


TỪ CỘT MỐC 238, NGHĨ VỀ DŨNG KHÍ CHA ÔNG
VÀ SỰ “VÔ CHÍ” CỦA MỘT SỐ QUAN CHỨC THỜI NAY


Bùi Xuân Đính

Gần trưa ngày 15/11/2021, bất chấp trời lạnh 14 độ, mây mù dày đặc, tầm nhìn phía trước chỉ khoảng 40 mét, được mấy cán bộ công an và biên phòng giúp đỡ, chúng tôi lên đến cột mốc 238 ở bản Lùng Chu Phùng xã Lao Chải, huyện Vị Xuyên. Bên phía ta, đường vẫn để tự nhiên, trong khi phía Trung Quốc đã rào kín, như một chuồng cọp ở sở thú. Từ cột mốc dõi về mảnh đất Việt Nam mà lòng đầy tâm trạng. Bệnh nghề nghiệp đã đưa tôi về với những trang sử cũ, về các cuộc chiến của cha ông ta trong bảo vệ dải đất biên cương suốt hơn nghìn năm lịch sử. Dù tương quan lực lượng quân sự giữa ta và Tàu luôn chênh lệch, phương tiện thông tin liên lạc thấp kém, ảnh hưởng tới việc chỉ đạo đấu tranh bảo vệ biên giới, nhưng ngoại trừ thời Mạc Đăng Dung phải cắt đất vì những lý do A, B, còn ở tất các vương triều cha ông ta đều quyết tâm giữ đất, Tôi nhớ đến lời dụ - cũng là giao nhiệm vụ của Vua Lê Thánh Tông cho Thái bảo, Kiến Dương bá Lê Cảnh Huy, người nhận nhiệm nhiệm vụ đi giải quyết tranh chấp biên giới với đại diện nhà Minh vào đầu năm Hồng Đức thứ tư (Quý Tỵ, 1473) ''Một thước núi, một tấc sông của ta không nên để vứt bỏ. Ngươi nên cố cãi, chớ cho họ lấn dần, nếu họ không nghe, còn có thể sai quan sang sứ Bắc triều bày tỏ phải trái. Nếu ngươi dám đem một thước, một tấc của Thái Tổ mà đút mồi cho giặc thì phải tội tru di'. Đây có thể coi là tuyên ngôn lần thứ hai về chủ quyền quốc gia, sau bài "Nam quốc sơn hà".

Thứ Tư, 5 tháng 5, 2021

CÁC VỊ QUAN ĐẦU TỈNH VÀ NHỮNG TÂM ĐỊA

Bùi Xuân Đính
Nguyễn Đình Tân và Đặng Quốc Lang từng có thời gian cùng làm quan tại tỉnh Nghệ An với nhau; Đình Tân làm Bố chính (viên quan cao thứ hai một tỉnh, phụ trách việc binh lương, thuế khóa; sau quan đứng đầu tỉnh là Tuần phủ), còn Quốc Lang là Tri huyện Hưng Nguyên thuộc tỉnh đó. Về sau, cả hai người cùng thăng tiến và cùng được điều về tỉnh Hưng Yên, song khi đó hai người đã ngang hàng nhau về ngạch quan (Tân làm Tuần phủ, còn Lang làm Án sát - quan phụ trách việc nội chính, tư pháp, ngang với chức Bố chính). Chẳng rõ quá trình “đồng liêu” với nhau ở Nghệ An và Hưng Yên, quan hệ giữa họ ra sao mà về sau, vào tháng Tám nhuận năm Quý Mão (khoảng đầu tháng 10 năm 1843), xảy ra câu chuyện “rầu lòng” dưới đây.

Thứ Hai, 26 tháng 4, 2021

QUAN THẾ NÀY, DÂN TRÔNG CẬY VÀO ĐÂU?

QUAN THẾ NÀY, DÂN TRÔNG CẬY VÀO ĐÂU ?
Bùi Xuân Đính
Tháng Bảy năm Nhâm Tý, đời Vua Tự Đức (khoảng tháng 8 năm 1852), tại nha huyện Trà Vinh, phủ Lạc Hóa, tỉnh Vĩnh Long có một tù nhân phạm tội ăn trộm, bị giam trong nhà lao rồi ốm chết. Trương Phúc Cương là Tri phủ nghe tin đã đến tận nơi xem xét. Thay vì xem xét thận trọng để làm tờ tâu lên trên về nguyên nhân cái chết của phạm nhân, Trương Phúc Cương đã dùng quyền của quan trên để dọa nạt viên quan đứng đầu huyện Trà Vinh là Tri huyện Phan Đắc Thông rằng, chính Thông đã đánh đập phạm nhân đến chết và Cương sẽ bẩm báo việc này lên tỉnh để quan trên xử lý (!?). Lo sợ phải “mang tội”, Phan Đắc Thông đã đi vay tiền của rất nhiều người để đút lót Phúc Cương, mong được quan phủ “im đi” cho. 

Thứ Bảy, 17 tháng 4, 2021

VUA MINH MẠNG TRỊ TỘI BỌN CƯỜNG HÀO ÁC BÁ TỈNH, HUYỆN, XÃ

VUA MINH MẠNG TRỊ TỘI BỌN CƯỜNG HÀO TỈNH, HUYỆN, XÃ

Bùi Xuân Đính
Thời phong kiến, hệ thống thanh tra của nhà nước gồm các cơ quan: Đô Ngự sử (từ thời Nguyễn đổi thành Viện Đô sát) ở cấp trung ương, Giám sát Ngự sử ở cấp liên trấn (thời Nguyễn là cấp liên tỉnh) và Hiến ty ở cấp trấn (thời Nguyễn là tỉnh). Mỗi cơ quan, mỗi cấp thanh tra này có chức năng, nhiệm vụ riêng, song đều có nhiệm vụ chung là kiểm tra, giám sát quan lại, phát hiện các vụ việc tiêu cực của họ. Các cơ quan cũng như các chức quan của hệ thống thanh tra này hoạt động độc lập, không phụ thuộc vào nhau và cũng không phụ thuộc vào cơ quan hành chính cũng như cơ quan ngành dọc cùng cấp hoặc trên cấp. Chẳng hạn, một vị Hiến sát sứ ở Hiến ty (thanh tra cấp tỉnh), phát hiện một vị quan tỉnh tham tang, có quyền tâu thẳng lên Viện Đô sát, thậm chí tâu thẳng lên vua, không cần thông qua Giám sát Ngự sử (thanh tra cấp liên tỉnh); cũng không phải thông qua Tổng đốc hay Tuần phủ là các quan đứng đầu tỉnh đó.
Ngoài ra, những khi một địa phương nào đó trải qua binh đao, quan lại ức hiếp dân chúng gây tao loạn, các vua thường cử đoàn thanh tra đặc biệt, gọi là Kinh lược sứ, gồm các quan đại thần có uy tín, tài năng và công tâm đến, có nhiệm vụ làm rõ nguyên nhân, ổn định tình hình; được toàn quyền giải quyết các vụ việc ở địa phương đó rồi tâu báo lại với vua.
Vào tháng Tư­ năm Đinh Hợi, triều Vua Minh Mạng (tháng 5 năm 1827), tại trấn Nam Định (từ năm 1831 đổi thành tỉnh Nam Định), nhân dân gặp nhiều đau khổ vì nạn trộm cư­ớp hoành hành và quan lại địa phương nhũng nhiễu, hà hiếp. Nhiều đơn thư kêu cứu liên tiếp gửi vào triều đình Huế. Vua Minh Mạng bèn phái một đoàn kinh l­ược sứ, đứng đầu là các quan đại thần Nguyễn Văn Hiếu Nguyễn Kim Xán ra Bắc xem xét tình hình.
Đến Nam Định, các quan Kinh lư­ợc một mặt khẩn cấp xét cấp tiền gạo cho những người bị hại ở các làng quê; mặt khác đi đến các phủ huyện nào cũng cho phép người dân được đến gặp quan thanh tra triều đình phản ánh tình hình quan lại địa phương.
Sau một thời gian, đoàn Kinh lược sứ thu được rất nhiều chứng cứ về các hành vi tham tang, ức hiếp dân chúng của quan lại các cấp trấn này. Một số quan cấp phủ, huyện bị đưa ra xét xử ngay, khiến cho nhiều quan các phủ huyện khác lo sợ. Từ nỗi lo sợ “dắt dây” của quan lại các phủ huyện, các quan Kinh lược sứ phát hiện ra đầu mối của tình hình tao loạn ở trấn Nam Định chính là một số quan chức trấn này, gồm Cai án Phạm Thanh, Thư ký Bùi Khắc Tham. Họ là những kẻ “gian tham, giảo quyệt, hung ác, ng­ười trong vùng đều oán giận”. Nghe tin có quan Kinh lược sứ của triều đình về, các quan tham này đều lo sợ, đến nỗi Phạm Thanh bỏ cả ấn tín, công sở chạy trốn.
Vụ việc đư­ợc tâu lên Vua Minh Mạng. Vua lệnh cho các quan Kinh lược sứ phải bắt bằng đ­ược Phạm Thanh, bằng không sẽ bị xử theo luật “cố thả”. Vua lại dụ quở  trách các quan trấn thần Nam Định: “Lũ các ngươi làm quan trong hạt lại để có nhiều kẻ tham lam, làm hại dân, rồi lại bao che cho chúng mà nói dối vua, dám tâu rằng không xét thấy việc tham bỉ. Đến như­ Phạm Thanh tội lớn, khi Kinh lư­ợc sứ đến nơi thì sự việc vỡ lở nên lọt tin ra để nó trốn đ­ược. Các ng­ươi trị dân thì vỗ nuôi sai pháp, giặc nổi như­ ong; xét quan thì không biết phân biệt, dung túng thiên vị, như­ thế thì khép vào tội cách chức ch­ưa thỏa”.
Rồi Vua ra lệnh giải chức của  các quan đầu trấn Nam Định là Đỗ Văn Thịnh, Trần Chính Đức, Vũ Đức Khuê; đồng thời lệnh cho họ trong ba tháng phải bắt được những kẻ phạm tội, căn cứ vào đó để xét giảm tội hay không.
Nghe tin vậy, Bùi Khắc Kham cũng bỏ trốn, như­ng ít lâu sau cùng bị bắt với Phạm Thanh. Nhân dân địa phư­ơng lại đem các việc làm xấu xa của họ ra tố cáo. Vua Minh Mạng sai giải bọn Thanh - Kham đến chợ trung tâm của trấn, chém ngang lư­ng, tịch thu gia tài của chúng đem chia cho những ng­ười dân nghèo.
Đoàn Kinh l­ược sứ còn đi xem xét một số phủ, huyện khác, điều tra và đề nghị trị tội một số quan lại thoái hóa. Tri phủ Kiến X­ương Nguyễn Công Tuy tham tang phải tội chết, Đồng Tri phủ Ứng Hòa Phan Thọ Vực và Tri huyện Đại An Nguyễn Văn Nghiêm cố ý dung túng cho các nha lại nhũng nhiễu hại dân đều bị cách chức. Nhiều quan của các nha phủ khác qua tra xét thấy không xứng đáng chức đã bị truất bãi về làm dân.

NGÀY XƯA TRUNG ƯƠNG TIẾP DÂN OAN RA SAO?


DÂN OAN NGÀY XƯA KÊU OAN Ở ĐÂU?

Bùi Xuân Đính

Thời phong kiến, cách quản lý xã hội của Nhà nước quan liêu không tránh khỏi tình trạng nhiều người dân và cả một số quan lại bị oan ức. Để góp phần “giải oan” cho dân, Nhà nước các thời đã có những biện pháp cho dân được kêu oan.

- Năm Nhâm Thìn, niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo (1052), Vua Lý Nhân Tông cho đặt một quả chuông lớn ở sân rồng để ai bị oan ức điều gì được đến đánh chuông. Vua ra nhận đơn và xét xử. 


Thứ Ba, 8 tháng 8, 2017

CHUYỆN MỘT NGƯỜI DÁM CAN VUA, HẶC QUAN ĐẠI THẦN

Người dám can vua, hặc quan đại thần

Bùi Xuân Đính


Phan Thiên Tước (chưa rõ năm sinh, năm mất), người huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, từng giúp Lê Lợi dấy binh khởi nghĩa chống quân xâm lược Minh. Sau khi Lê Lợi lên ngôi (Lê Thái Tổ), ông làm quan ở Ngự sử đài (cơ quan can gián vua và đàn hặc quan lại).

Sử cũ ghi nhận ông là người cương trực, gặp việc dám nói thẳng; từng dâng sớ hặc tội một loạt quan đại thần đứng đầu là Lê Thụ - Tổng chỉ huy quân đội giữ chức Tể tướng đã lợi dụng chức quyền bắt quân lính về làm việc riêng cho mình, xây nhà cao cửa rộng, tổ chức cho người nhà ra nước ngoài buôn lậu. Hơn thế nữa, Phan Thiên Tước còn dám can ngăn vua bỏ những thói hư tật xấu, khuyên vua chăm lo việc triều chính, chấn chỉnh phong cách làm việc. Đó là vào tháng Giêng năm Ất Mão, niên hiệu Thiệu Bình (năm 1435), Lê Thái Tông (1423 - 1442) lên ngôi mới vua được hơn một năm, Phan Thiên Tước thấy Vua còn trẻ, trong cách cư xử có nhiều điểm không phải tư thế và phong cách của bậc đế vương, nên đã cùng các quan trong Ngự sử đài dâng Sớ chỉ ra sáu điều “không phải” của Vua:
1. Đại thần tiến cử quan Thiếu bảo Hữu bật vào hầu giảng sách mà Vua lại đứng dậy không nghe.
2. Người bảo mẫu mà Tiên đế (Lê Thái Tổ) đã chọn làm thầy để dạy bảo Vua mà Vua lại khinh rẻ, mắng chửi.
3. Thần phi, huệ phi là bậc dì của Vua vào cung răn bảo mà Vua lại sai đóng cửa không cho vào.
4. Vua không tìm người tài giỏi, biết nói thẳng, trong khi lại đùa giỡn với bọn hoạn quan và thưởng cho họ.
5. Con em công thần vào hầu hạ Vua đọc sách mà Vua lại lánh xa họ, trong khi lại nô đùa với bọn người hầu ở trong cung.
6. Người quản lĩnh thị vệ thấy Vua không đọc sách mà cầm cung đi bắn chim, bèn hết lời khuyên can thì Vua lại lấy cung bắn vào người đó.

Tiếp đó, Phan Thiên Tước khuyên Vua nên lưu ý đến học thuật, tìm nhân tài để trị nước, kính trọng kẻ đại thần, úy lạo người có công, nghe lời nói thẳng, mở đường ngôn luận, thông hiểu tình kẻ dưới, mới có thể nối được vương nghiệp thuở trước.

Vua Lê Thái Tông xem xong tờ Sớ rất giận, vặn hỏi và sai các quan đến nhà Phan Thiên Tước buộc ông phải nói tên những người đã nói ra các việc nêu trong tờ Sớ. Phan Thiên Tước khẳng khái tâu rằng : ‘’Bọn thần muốn yêu vua nên làm hết chức trách, dù chết cũng không sợ”. Hôm sau, ông lại vào chầu và dùng các điển tích lịch sử Trung Quốc để nói với Vua : ”Ngu Thuấn (1) là bậc thánh nhân mà Bá Ích vẫn lấy việc chơi bời, trễ nải của vua để can ngăn, Đường Thái Tông (2) là bậc hiền chúa mà Ngụy Trưng vẫn dâng sớ nói mười điều chưa đúng của vua để ngăn ngừa. Bọn thần chỉ sợ nhà Vua có lỗi lầm nên hết lòng ngu dại khuyên can. Bệ hạ nhận cho thì dẫu kẻ kiếm củi, làm nghề cũng trổ hết khả năng mà thánh đức của bệ hạ càng thêm ngời sáng”. Ông còn tâu :”Sinh ra đã biết, ai bằng Nghiêu Thuấn, vậy mà vẫn lấy Quản Trù, Thành Chiêu làm thầy. Từ xưa, các bậc đế vương muốn trau dồi đức tốt, đều do bọn học giỏi mà ra. Nay bệ hạ tuổi đã lớn, đạo trị nước xưa nay chưa biết rõ hết, bọn đại thần kén chọn nho thần vào hầu bên cạnh cũng là muốn bệ hạ được như Nghiêu, Thuấn, sao bệ hạ lại có thể coi thường tôn xã mà phụ lòng trung thành của các bề tôi như vậy. Xin bệ hạ nên nghĩ đến lời gửi gắm của tiên vương thì phúc cho bốn biển và bệ hạ cũng sẽ được hưởng cái lộc sống lâu của bậc đại hiếu”.

Vua Lê Thái Tông nghe và nguôi giận, vẫn để Phan Thiên Tước giữ chức vụ như cũ.

Lời bàn:
Trên đây chỉ là lời can ngăn của vị Ngôn quan Phan Thiên Tước, song ít nhiều thể hiện quan điểm của ông về tư cách, trách nhiệm của nhà vua trước ngôi báu của mình, cũng là trước vận mệnh của dân, của nước. Đó là, chăm lo tu dưỡng, sửa đức, có thái độ đúng mực của bậc đế vương đối với người thân trong hoàng tộc, với quan lại trong triều, với thần dân; chú trọng tới học thuật, tức đường lối cai trị đất nước, tìm và sử dụng nhân tài, có chính sách đãi ngộ với các công thần, cho phép quan lại và thần dân nói thẳng, hiến kế trị nước v. v.

Câu chuyện cho thấy Phan Thiên Tước thể hiện một nhân cách dũng cảm cảu người làm quan, vì can vua nếu vua không nghe thì đồng nghĩa với cái chết, mà trong trường hợp đang bàn, Lê Thái Tông tuy nhỏ tuổi nhưng đầy khí phách của người lớn, một vị quân vương đầy cá tính hơn nữa lại rất nóng tính, sẵn sàng “trảm” ngay bất kỳ vị quan có “lời ngang ý trái” nào. Song, Phan Thiên Tước đã không sợ “đầu rơi”, dũng cảm can vua để làm lợi cho đất nước.

Câu chuyện cũng cho thấy, Lê Thái Tông dù ở ngôi vua, có “quyền sinh quyền sát” và còn ít tuổi, nhưng vẫn biết lắng nghe để sửa lỗi. Về sau, ông trở thành bậc vua tài của triều Lê Sơ.

Cho hay, một vương triều, một đất nước muốn ổn định và tiến lên thì vua phải sáng, tôi phải có trí và dũng. Nếu không, chỉ có “hôn quân, hôn quan” (vua thì lộng quyền, quan chỉ biết u mê nịnh bợ để giữ ghế) thì đó chỉ là triều đình “ba phải”, ẩn chứa đầy mầm mống rối ren, đất nước sẽ trì trệ, dân chúng chỉ được hưởng lầm than mà thôi.
B.X.Đ

Thứ Sáu, 6 tháng 1, 2017

SỨC PHU TRẠM VÀ NHỮNG CHUYẾN HÀNG RIÊNG CỦA CÁC QUAN

SỨC PHU TRẠM  VÀ NHỮNG CHUYẾN HÀNG RIÊNG CỦA CÁC QUAN
Bùi Xuân Đính
Thời phong kiến, trên các con đường “Thiên lý”, hay “đường Cái quan”, tức đường giao thông lớn từ các địa phương về Kinh đô, cứ 30 dặm (mỗi dặm khoảng trên 500 mét), Nhà nước đặt một trạm, mỗi trạm có một Dịch thừa phụ trách chung và một Dịch mục là cấp phó phụ tá, có trên dưới 50 phu trạm và ngựa để chạy công văn, giấy tờ, hộ tống quan lại các trấn, tỉnh đi việc công về Kinh đô, từ phủ, huyện về trấn, tỉnh (và ngược lại), cả quan đi sứ nước ngoài. Các trạm lần lượt chuyển giao công việc cho nhau mỗi khi có quan hay việc quan đến.
Trải bao đời, các quy định về việc sử dụng phu trạm để chuyển chở đồ đạc của công và của các quan đi việc công được tuân thủ và được giám sát chặt chẽ.  Song, không tránh khỏi việc lợi dụng các trạm này để mưu lợi riêng. Xin nêu hai vụ tiêu biểu dưới thời Nguyễn bị phát giác, được sử cũ ghi lại..

Thứ Ba, 3 tháng 1, 2017

TỪ CÂU CHUYỆN BIẾU TẾT 193 NĂM TRƯỚC

Bùi Xuân Đính

Nguyễn Văn Hiếu (1764 - 1833) người huyện Kiến Hòa, tỉnh Định Tường (nay là tỉnh Tiền Giang). Sinh ra trong một gia đình nghèo, thuở nhỏ, Nguyễn Văn Hiếu phải đi cắt cỏ thuê để kiếm sống. Lớn lên, ông theo nghiệp binh, lần lượt được giao đảm nhiệm các chức : Hữu quân Phó tướng. Lưu thủ Bình Định, Trấn thủ các trấn : Sơn Nam Hạ. Thanh Hoa, Nghệ An, phong Đô thống trung doanh quân Thần sách. Năm thứ tám (Đinh Hợi, 1827), ông được cử đi làm Kinh lược sứ ở Nam Định. Chỉ trong hai tháng, ông và các quan đã xử lý hàng loạt các quan lại vùng này tham nhũng, ức hiếp dân chúng, ổn định tình hình, được Vua Minh Mệnh khen ngợi. Đến tháng 11 năm 1831, khi tỉnh Hà Nội được thành lập, Nguyễn Văn Hiếu được bổ làm Tổng đốc Hà - Ninh. Từ tháng Giêng năm Nhâm Thìn (tháng 2 năm 1832), ông còn kiêm chức Tuần phủ Hà Nội; đến tháng Bảy cùng năm, được triệu về Kinh; được thăng Tả quân Đô thống phủ, Chưởng phủ sự, tước Lương Năng bá.

VUA MINH MẠNG TRỊ CON HƯ ĐỂ LÀM GƯƠNG CHO THIÊN HẠ

VUA MINH MẠNG TRỊ CON HƯ ĐỂ LÀM
GƯƠNG CHO THIÊN HẠ NHƯ THẾ NÀO
Bùi Xuân Đính
Vua Minh Mạng (1791 - 1841) nổi tiếng trong lịch sử nhà Nguyễn nói riêng, các vương triều phong kiến Đại Việt nói chung không chỉ là vị vua giỏi việc hành chính,  giỏi thơ văn mà còn rất nghiêm khắc với trăm quan, người thân; không để các tình cảm thân quen làm ảnh hưởng công việc; không để vợ con, anh em ỷ thế mình mà làm những việc ngang trái. Ông còn nổi tiếng trong việc dạy con. Tuy có tới 142 người con (gồm 78 trai - thường có tên gắn với chữ “Miên”, 64 gái) và tuy rất bận với công việc trong triều, song ông luôn để ý đến họ, thấy họ sai là chấn chỉnh luôn. Câu chuyện dưới đây là ví dụ điển hình về việc răn dạy con rất nghiêm khắc của ông.
Trong số các con trai của Vua Minh Mạng có Hoàng tử Miên Phú. Cậy thế vua cha, Phú thường chơi bời lêu lổng. Vào một đêm tháng Một năm Ất Mùi (tháng 12 năm 1835), trời rét, Miên Phú cùng bọn phủ thuộc là Hoàng Văn Vân, Bùi Văn Nghị, Bùi Văn Quế tổ chức đua ngựa ở ngoài hoàng thành. Đua được mấy vòng, Miên Phú về trước, mấy tên phủ thuộc tiếp tục cho ngựa chạy thi. Vó ngựa rầm rập gây náo loạn nhiều đường phố. Một bà già đi bên đường tránh không kịp, bị ngựa của Hoàng Văn Vân xéo chết !

Thứ Hai, 29 tháng 10, 2012

Bùi Xuân Đính: TỪ NHỮNG CHUYỆN TƯỞNG LÀ NHỎ

Từ những chuyện tưởng là nhỏ ….
Bùi Xuân Đính

Hổ đá trong lăng Trần Thủ Độ
Trần Thủ Độ (1194 - 1264) là người có công đưa Trần Cảnh lên ngôi, tức Vua Trần Thái Tông (1218 - 1277), mở đầu cho nhà Trần tồn tại trong 175 năm (1226 - 1400). Tuy không có học vấn cao, nhưng Thủ Độ có tài chính sự hơn người, làm quan tới Thái sư (như Tể tướng đầu triều), rất giỏi việc hành chính, nghiêm minh trong thực thi pháp luật, không để tình cảm anh em, vợ chồng xen lẫn vào việc công. Sử cũ ghi lại một số câu chuyện về ông :

Chuyện thứ nhất :

Trần Thái Tông lên ngôi khi tuổi còn nhỏ, vì thế, phần nhiều các công việc trong triều đều do Thủ Độ quyết. Có kẻ thấy ông quyền to hơn cả vua, ghen ghét ông, bèn vào gặp Trần Thái Tông khóc mà nói rằng :”Bệ hạ còn thơ ấu mà Thủ Độ thì quyền át cả vua, xã tắc rồi sẽ ra sao?”. Thái Tông lập tức đến dinh của Thủ Độ, bắt cả người đàn hặc ấy đi theo và nói cho Thủ Độ biết những lời của người đó. Thủ Độ nghe và nói lại với Vua :”Đúng như lời hắn nói”, rồi lấy ngay tiền và lụa thưởng cho.

Thứ Sáu, 26 tháng 10, 2012

TỪ ĂN CHẶN ĐẾN SÁCH NHIỄU VƠ VÉT

TỪ ĂN CHẶN ĐẾN SÁCH NHIỄU VÀ VƠ VÉT
Bùi Xuân Đính 
Tháng Hai năm Nhâm Dần (tháng 3 năm 1842), sau khi lên ngôi được một năm, Vua Thiệu Trị tiến hành chuyến du thăm các tỉnh ngoài Bắc. Khi xa giá của vua đến gần thành Hà Nội, tại xã Tây Đam (nay là xã Tây Tựu, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội) xảy ra vụ cướp. Bị truy đuổi, bọn cướp gồm năm tên chạy giạt lên phía Tây Bắc thuộc tỉnh Sơn Tây, song bị cha con viên Chánh tổng Phạm Đình Hanh ở phủ Quảng Oai cùng lý dịch và dân phu chặn bắt được; Phân phủ (quan đứng đầu một phủ nhỏ) Dương Công Bình lại nhận là công của mình. Quan phụ trách tỉnh Sơn Tây là Tổng đốc Nguyễn Công Hoán tâu việc đó lên. Công Bình vì thế được gia thưởng một cấp kèm theo tiền; còn Chánh tổng Phạm Đình Hanh, các lý dịch và dân phu được thưởng chung 100 quan.
Do có công mà lại bị “ăn chặn”, Phạm Đình Hanh đem việc trên kêu về tận hành tại (nơi vua Thiệu Trị tạm đóng trong những ngày ở đất Bắc). Vua sai bộ Hình tra xét thì thấy sự tình đúng như Phạm Đình Hanh kêu lên. Bộ Hình đề nghị xử Công Bình đánh trượng và lưu (đi đày) vì tội giả mạo, bọn Nguyễn Công Hoán vì tấu đối không thực cũng bị giáng chức.
Vua Thiệu Trị cũng lệnh cho các quan tra xét việc giặc cướp nổi lên ở các địa phương thuộc hai tỉnh Sơn Tây và Hà Nội khi đó. Quan thanh tra là Ngự sử Trần Kinh Vỹ đi dò xét đã phát hiện bọn cướp thường ra vào địa hạt hai phủ Lâm Thao, Đoan Hùng (tỉnh Sơn Tây). Ngự sử Nguyễn Cư Sĩ cũng tâu rằng, giặc cướp quấy nhiễu dân ở nhiều nơi xa xôi, chống lại quan quân, giết hại quân dân, nhưng các quan tỉnh Sơn Tây lại cố ý bỏ qua, không đem tâu lên. Cùng khi đó, Tri phủ Đoan Hùng là Phạm Khắc Tuy bị các lại viên và lính lệ trong phủ đường tố cáo chứa giấu giặc cướp, dìm bỏ những án nặng và mượn tiếng việc cung tiến để thu lấy tiền tài của dân chúng vào túi riêng. 

Thứ Ba, 23 tháng 10, 2012

MỘT TRĂM QUAN TIỀN VÀ CÁI DANH MUA BÁN

Bùi Xuân Đính

Phan Văn Xưởng người xã Khánh Thọ, huyện Hà Đông (nay thuộc huyện Duy Xuyên), tỉnh Quảng Nam, đỗ Cử nhân khoa Giáp Ngọ đời Vua Minh Mạng (năm 1834), là Án sát tỉnh Biên Hòa dưới thời Vua Thiệu Trị. Vào năm Giáp Thìn (năm 1844), tại thôn Tân Mỹ của tỉnh này xảy ra vụ kiện tranh chấp tài sản. Người cần được lập di chúc để được hưởng thừa tự đã tìm cách đút lót cho Xưởng 80 lạng bạc. Xưởng không những nhận mà còn dung túng người nhà và lại dịch xuống làng sách nhiễu. Những người thân của người bị hại thấy bị thua thiệt bèn khiếu kiện Xưởng, nhưng họ lại kêu kiện ở Gia Định mà không phải ở Biên Hòa. Phan Văn Xưởng lo sợ, bèn thân chinh đến tỉnh Gia Định van xin Tổng đốc tỉnh này giao vụ kiện cho Bố chính tỉnh Biên Hòa Đỗ Huy Cảnh tra xét. Những người khiếu kiện không chịu, tiếp tục về Kinh đô Huế kêu cầu.

Thứ Hai, 22 tháng 10, 2012

BÙI XUÂN ĐÍNH: VỀ SỰ THA HÓA CỦA BỘ MÁY CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ

Nhân vụ Tiên Lãng,
nhìn lại bộ máy quản lý làng xã xưa và nay
Lời dẫn của Nguyễn Xuân Diện: Nhân vụ Tiên Lãng, PGS. TS Bùi Xuân Đính đã tới thăm Nguyễn Xuân Diện và trao đổi nhiều về vấn đề quản lý làng xã xưa và nay, mà ông là một chuyên gia. Bùi Xuân Đính là một trong những người được trực tiếp thụ giáo cố Giáo sư Từ Chi – nhà dân tộc học danh tiếng. Năm 1985, Bùi Xuân Đính xuất bản cuốn sách đầu tay: Lệ làng phép nước tại Nxb. Pháp lý, để rồi ngay từ đó, cuốn sách được quan tâm tìm đọc và trích dẫn với tần số cao cả ở trong và ngoài nước.
Bùi Xuân Đính hiện công tác tại Viện Dân tộc học (thuộc Viện KHXH Việt Nam).
Nhân dịp này, NXD-Blog trân trọng giới thiệu một bài viết của ông, ở dưới đây.
VỀ SỰ THA HÓA QUYỀN LỰC 
CỦA BỘ MÁYCHÍNH QUYỀN PHONG KIẾN CẤP XÃ (*)
Bùi Xuân Đính

Thứ Tư, 17 tháng 10, 2012

MỘT LỜI ĐÀN HẶC, TỂ TƯỚNG MẤT CHỨC

Một lời đàn hặc, Tể tướng mất chức
Bùi Xuân Đính
Thượng thư Bộ Lại đang làm việc
Tháng Tám năm Nhâm Tuất niên hiệu Chính Hòa đời Vua Lê Hy Tông (tháng 9 năm 1682), trong triều Lê - Trịnh xôn xao vì một có một tờ Sớ được gửi lên chúa Trịnh Tạc khi đó đang nắm thực quyền. Sự kiện gây xôn xao không chỉ vì xảy ra lần đầu trong triều, mà còn vì người bị đàn hặc là Nguyễn Mậu Tài, đương kim Tham tụng (Tể tướng đầu triều, tương đương như Thủ tướng ngày nay) kiêm Thượng thư bộ Lại - bộ có quyền hành cao nhất của triều đình, lo việc thăng, giáng, thuyên bổ quan lai; còn người đứng ra đàn hặc là Nguyễn Viết Đương chỉ là Tham chính sứ Thanh Hoa (chức quan hành chính ở trấn Thanh Hoa, tức tỉnh Thanh Hóa ngày nay).