Thứ Tư, 29 tháng 10, 2025

NÉT VÀNG SON TRÊN NỀN GIẤY GẤM



Nguyễn Xuân Diện

Ngày nay, vào thăm các đình miếu hoặc các gia đình dòng dõi, thảng hoặc ta còn được trông thấy các bản sắc phong, mà nét vàng son còn ánh lên như nhắc nhớ đến một dĩ vãng đẹp đẽ của ngày xưa cũ, dù thời gian có vô tình cũng không làm phôi pha…

Một cảm xúc về sự hiển linh của thần, sự uy nghiêm của quyền lực và cả sự choáng ngợp, khâm phục trước vẻ đẹp của tờ giấy sắc (giấy dùng viết sắc chỉ, sắc phong) qua kỹ thuật làm giấy của người xưa. Ít ai biết được, nghề làm giấy gấm viết sắc phong là độc quyền của một dòng họ cư trú ở Hà Nôi, trải đã mấy trăm năm.

Sắc phong gồm có hai loại: phong cấp, khen ngợi, tưởng thưởng cho những người có công (giống như một giấy khen, một giấy bổ nhiệm chức vụ) và loại sắc phong phẩm trật cho thần linh (theo thường niên , hoặc một dịp lễ lạt nào đó). Loại thứ nhất là tài sản chung của dòng họ được cất giữ trong các nhà thờ họ của các gia tộc có các vị tiên liệt có công với vua, với nước. Loại thứ hai là tài sản của cộng đồng làng xã, được cất giữ tại đình làng hoặc đền thờ miếu. Hiện nay bản sắc phong được cho là cổ nhất của Việt Nam đang được đặt trong một ngôi đình cổ thuộc thị trấn Diêm Điền, huyện Thái Thụy (Thái Bình). Hai đạo sắc này có niên đại Hồng Đức 23 (1492 ) và Hồng Đức 28 (1497) đời Lê Thánh Tông, thế kỷ XV, cách nay đã hơn 500 năm, tức là nửa thiên niên kỷ.

Việc được nhận sắc phong thần ngày xưa là một việc rất hệ trọng của làng xã, và việc đón rước sắc phong là một nghi lễ đặc biệt. Sách cổ “Đại Phùng tổng khoán ước” thời Lê, thế kỷ XVIII (Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm) còn ghi: “Nghi thức ban sắc phong : Sắc đưa về đến đình, chép thêm ra một bản, giống như bản chính (đều dùng giấy vàng mực đen, lấy người có chữ đẹp trong thôn viết đằng tả), rồi lập một hương án, đặt lên, vái 5 vái (thay thần tạ ơn vua). Sau đó hóa bản sao đi, còn bản chính thì rước vào trong đình”

Hàng năm, đến ngày hội làng, rất nhiều làng có lệ rước sắc từ nghè hoặc miếu ra đình, mà đoàn rước sắc bao gồm đủ các nghi trượng trang trọng nhất. Trường hợp làng Triều Khúc, Hà Nội là một ví dụ. Giấy sắc còn gọi là giấy Nghè (giấy do họ Lại ở làng Nghĩa Đô – làng Nghè (Hà nội) chế ra và dâng vào triều đình).

Theo gia phả và lời truyền trong dòng họ Lại thì cụ tổ của họ này là Lại Thế Giáp – con rể của Thanh Đô Vương Trịnh Tráng. Con gái của Trịnh Tráng là Cung phi Diệm Châu, hiệu Từ An, khi đó thấy họ nhà chồng còn nghèo, mới tâu xin nhà chúa và vua Lê cho họ Lại được đời đời làm giấy sắc dâng vào triều đình. Họ Lại còn có cụ Lại Phú Vinh được phong đến tước Đô Thịnh hầu, giữ chức Phụ Quốc tướng quân, Đô Chỉ huy sứ ty, Ngự dụng giám Kim Tiên cục trông coi và quản lý nghề làm giấy sắc cho triều đình. Dân gian có câu:

Tiếng đồn con gái Nghĩa Đô,
Quanh năm làm giấy cho vua được nhờ.
Lại còn có câu:
Họ Lại làm giấy sắc vua
Làng Láng ké cờ mở hội hùng ghê!


Họ Lại làng Nghĩa Đô khởi nghiệp làm giấy sắc từ thời Lê – Trịnh, và phát triển suốt mấy trăm năm.
Giấy sắc là loại giấy quí. Quý trước hết là ở nguyên liệu để vẽ lên bề mặt giấy là vàng, bạc và kim nhũ. Nhờ nguyên liệu này mà giấy sắc có hình thức và màu sắc đã đẹp lại bền, còn mãi đến hôm nay.
Làm giấy sắc đòi hỏi rất công phu. Theo các cụ ở họ Lại cho biết, làm một tờ giấy sắc cho hàng Nhất phẩm thì phải có 5 người thợ cùng làm một lúc mới có thể xeo nổi một tờ giấy. Giấy để phong cho hàng phẩm cấp thấp hơn (tức là từ Nhị phẩm xuống tới Cửu phẩm), khổ giấy hẹp hơn, cũng phải 3 người thợ làm một tờ. Đấy là nói về xeo giấy. Phần vẽ giấy sắc mới là khâu tinh xảo nhất, đòi hỏi tay nghề cao. Vẽ gồm hai công đoạn: Vẽ chạy và Vẽ đồ. Vẽ chạy là vẽ ra hình rồng mây, hình triện, hoa văn: việc này do những thợ giỏi thực hiện. Vẽ đồ là theo nét vẽ chạy mà mà tô kim nhũ, vàng bạc. Bí quyết của việc làm một tờ giấy sắc theo đúng yêu cầu là ở kỹ thuật đánh vàng, đánh bạc cho tờ giấy. Dụng cụ để làm công đoạn này là cái chày và những cái bát lớn. Để giữ bí quyết, các công việc này được tiến hành ở nơi kín đáo nhất trong nhà, tránh người ngoài học lỏm. Nhà cụ Tám Hoàn ở Nghĩa Đô có bàn thờ lớn, gần bàn thờ là một khoảng rộng, và đó chính là nơi cụ làm công việc đánh vàng, đánh bạc hết sức bí mật này. Cụ đã mất từ lâu, và cũng không truyền nghề cho ai, kể cả con cháu. Cụ chỉ để lại kỷ vật duy nhất là một phiến đá xanh, mặt phẳng lì, rộng 60 x 80 cm.

Giấy phong cho bách quan có 3 hạng. Hạng Nhất, xung quanh khung có vẻ 8 con rồng nhỏ. Mặt trước vẽ một con rồng lớn, ẩn trong mây, gọi là Long ám, mặt sau vẽ hình Tứ linh (Long – Ly – Quy – Phượng). Hạng Nhì, xung quanh khung vẽ mây hoặc họa tiết hồi văn. Mặt trước vẽ một con rồng, mặt sau vẽ Nhị Linh (hai con vật trong Tứ linh). Hạng Ba, xung quanh in triện gấm. Mặt trước vẽ một con rồng: ở giữa và bốn góc in hình Ngũ tinh (Năm ngôi sao). Mặt sau vẽ bầu rượu túi thơ.
Giấy phong cho bách thần cũng có 3 hạng:

Thượng đẳng thần: xung quanh in triện hoa chanh. Phía trước vẽ một con rồng, ở giữa in hình Ngũ tinh, bốn góc in hành Thất tinh. Mặt sau vẽ hình Tứ linh.

Trung đẳng thần: Mặt trước giống như sắc Thượng đẳng thần. Mặt sau vẽ lá và bầu rượu, giữa vẽ hai chữ Thọ liền nhau, gọi là song thọ.

Hạ đẳng thần: Mặt trước giống như hai hạng trên. Mặt sau không vẽ.

Ngày xưa, vì việc phong tặng cho bách quan và bách thần là một điễn lễ long trọng và thường xuyên, nên cần dùng rất nhiều giấy sắc. Dưới thời Nguyễn, trong niên hiệu Khải Định (1916-1926), có năm triều đình đặt hàng làng Nghĩa Đô làm hàng vạn tờ giấy sắc. Giá giấy sắc rất cao. Lúc đó, mỗi tờ giấy là một đồng bạc Đông Dương (tương đương một chỉ vàng). Xem thế đủ biết nghề này tuy khó, nguyên vật liệu tuy quý và đắt tiền, nhưng cũng có lãi cao. Họ Lại vì thế có nhiều gia đình theo nghề, như nhà cụ Xã Vi, cụ Phó Nham, cụ Trương Lại, cụ Trương Xú, cụ Xã Lịch, cụ Phó Nhiên, cụ Bếp Kiệm.

Ngày nay, nghề làm giấy sắc chỉ còn một người nắm được bí quyết là cụ Lại Phú Bàn, thuộc dòng dõi của cụ Lại Thế Giáp thời Lê Trịnh, nay đã 80 tuổi, hiện sống tại quận Cầu Giấy (Hà Nội). Các con cháu của cụ đều không có ai có ý theo nghiệp xưa, mà chính cụ cũng không làm giấy sắc nữa. Hiện nay cũng chưa có tổ chức hay cá nhân nào hội đủ các điều kiện để cụ truyền nghề làm giấy sắc.
Những mây rồng vàng son trên nền giấy gấm thuở xưa có thể sẽ mãi mãi dừng lại ở thế kỷ 20. Và nghề xưa có nguy cơ mãi chi còn trong dĩ vàng. Thật đáng tiếc thay!

Bài đã đăng trên Tạp chí Heritage, tháng Tư năm 2003. Tham khảo tài liệu của: Bùi Văn Vượng, Hoàng Hồng Cẩm.

2003

* Khi đăng bài này thì cụ Lại Phú Bàn lại đã quy tiên rồi!

Ảnh: Internet.

NGUYỄN TÂY SƠN VÀ NGUYỄN GIA LONG NGÔI ĐỀN THỐNG NHẤT - Phần 2


Bài của Trung Hoang


Nguyễn Ánh bước vào lịch sử ở chính khúc quanh đó. Ông không phải là người mở đường, ông là người gom đường. Ông không cần đánh một trận Ngọc Hồi–Đống Đa, vì khi ông tới hồi quyết định, ngoại xâm trực diện đã bị đẩy lùi; nhưng ông phải đánh một thứ chiến tranh dài hơi: tiêu hao, liên kết, kiểm soát cửa biển và đồng bằng, từng bước siết lại trung độ miền Trung, rồi khép cung với Bắc Hà. Quan trọng hơn những chiến dịch là việc ông dựng nổi một bộ khung để quốc gia có thể vận hành sau tiếng súng: luật lệ được pháp điển hóa thành Hoàng Việt luật lệ năm 1815, đo đạc địa bạ để biến lãnh thổ từ ý niệm thành sổ sách, chuẩn hóa đơn vị hành chính để một mệnh lệnh trung ương có đường đi tới thôn ấp, củng cố thủy quân và thực thi chủ quyền ngoài khơi để biên giới không chỉ là đường núi mà còn là chuỗi đảo.
 
Khi Gia Long lên ngôi năm 1802, đó không phải động tác “phục quốc” của một triều vong, mà là hành vi lập quốc theo nghĩa nghiêm ngặt: hợp nhất một dải đất Bắc – Nam vào một khuôn quản trị chung, đem một danh xưng pháp lý mới đặt lên một thực thể chính trị có khả năng tự vận hành trong hòa bình tương đối. Không ai có quyền ăn mày hiện tại để kết án quá khứ; cũng như không ai có quyền rút sạch bi kịch con người khỏi bức tranh kiến lập nhà nước. Lịch sử đòi ta giữ đồng thời hai mệnh đề: công trình thống nhất – pháp điển – hành chính là sự thật, và cái giá nhân đạo phải trả trong chuyển tiếp quyền lực cũng là sự thật. Cả hai phải được ghi nhớ, để ký ức tập thể vừa có xương sống của luật – chế – cương vực, vừa có mạch máu của nỗi đau – lòng trắc ẩn.

Lịch sử, nếu chỉ bị chẻ vụn thành những mảnh ghép rời rạc để phục vụ cho nhu cầu bênh – chống, sẽ đánh mất chính linh hồn của nó: dòng chuyển động âm thầm nhưng bền bỉ của một cộng đồng đi tìm hình hài quốc gia. Cái nhìn trưởng thành về quá khứ không bắt đầu từ câu hỏi ai đúng ai sai, mà bắt đầu từ một kỷ luật tư duy: đặt các biến cố vào đúng quỹ đạo của thời đại đã sinh ra chúng; nhìn con người trong giới hạn và nhiệm vụ của khoảnh khắc họ buộc phải đảm nhận; hiểu rằng ý chí và thể chế vốn không cùng xảy ra trong một ngày.

Vì vậy, cách đọc trưởng thành không phải là chọn phe giữa Tây Sơn và Gia Long, mà là nhận ra nguyên lý vận động: một dân tộc đi tới quốc gia thường qua hai pha kế tiếp và đối nghịch – pha thanh lọc, phá thế cũ; pha kiến lập, định hình mới. Tây Sơn gánh phận việc thứ nhất, Gia Long gánh phận việc thứ hai. Đánh giá họ trên cùng một thước đo là bất công với cả hai; nhìn họ như hai nhịp của cùng một tiến trình thì công bằng tự xuất hiện.
 
Chúng ta hãy tự hỏi: Nếu Tây Sơn thất bại trước 1789, độc lập có thể giữ không?; nếu Gia Long thất bại sau 1802, thống nhất có thể thực hiện không? Không. Chắc chắn không.

Lịch sử, rốt cuộc, đã chọn đường ít tệ nhất cho bài toán thống nhất: lửa đến trước, hình đến sau. Lửa làm nóng, hình giữ ấm. Một quốc gia đứng được không phải nhờ mỗi chiến công rực rỡ, mà nhờ khả năng biến ký ức chiến công ấy thành luật, thành tổ chức, thành biên giới có thể đo vẽ và bảo vệ. Từ dải phù sa sông Hồng đến cực Nam Cà Mau, từ bờ biển Thuận An đến vòng san hô Hoàng Sa, sự tồn tại dài lâu không đến từ một bậc anh hùng, mà đến từ chuỗi vai lịch sử đã dám làm phần việc của mình trong giới hạn của thời đại.

Nhận thức trưởng thành vì thế không bám lấy khuynh hướng, không mượn lịch sử để đánh nhau bằng ngôn từ; nó học cách đứng thẳng trước cả hai tượng đài, để nói hai câu đơn giản mà khó: cảm ơn ngọn lửa đã trả lại ý chí tự chủ; cảm ơn hình khối đã cho ý chí ấy một thân thể để ở lâu trong thời gian. Chúng ta không cần tha thứ để hòa giải; chúng ta cần hiểu để không lặp lại chu kỳ phân liệt dưới những nhãn mới. Khi một cộng đồng đủ sức xây một đền thờ chung cho hai người từng đối đao mà cùng làm nên quốc gia, cộng đồng ấy đã bước ra khỏi ám ảnh tự thương tổn và bước vào tuổi trưởng thành của ký ức. Lịch sử, đến cuối cùng, không phải là bản cáo trạng hay bản tán dương; lịch sử là biên bản của một hành trình, nơi những mũi dao chém vào gỗ không nhằm hủy hoại tấm gỗ, mà để khắc lên đó một dáng hình có thể nhận ra từ xa là chính chúng ta.

Còn một khía cạnh vô cùng hệ trọng khác: Trong bối cảnh vẽ ra ở trên, việc nhiều người vẫn cho rằng, vẫn bám lấy một sự định kiến rằng Nguyễn Ánh là kẻ bán nước, liệu có phải là một cái nhìn đúng?
Tôi sẽ nói thẳng, theo cách điềm đạm của sử học, không dựa vào cảm xúc và cũng không dựa vào những khẩu hiệu đã làm nghẹt thở nhận thức lịch sử nhiều thập kỷ qua: muốn gọi một ai là “kẻ bán nước” thì phải chỉ ra được cả động cơ lẫn hành vi thực tế dẫn đến sự đánh đổi chủ quyền để đổi lấy lợi ích riêng, cùng với hệ quả pháp lý – lãnh thổ đã được đương sự tự nguyện ký thác cho ngoại bang; nếu không chỉ ra được những điều ấy, mọi cáo buộc đều không đứng vững. Trần Ích Tắc là một ví dụ cổ điển của mô hình ấy: giữa thế kỷ XIII, ông ta rời bỏ cộng đồng chính trị của mình, cầu viện Nguyên Mông để mưu đồ địa vị cá nhân, sẵn sàng chấp nhận vị thế phụ thuộc của đất nước dưới ách ngoại bang; ở đây có cả động cơ tư lợi, có cả hành vi quy thuận, có cả hệ quả tinh thần và chính trị rõ rệt.
 
Đặt Nguyễn Ánh cạnh mô hình đó để gán cùng một nhãn là một sự nhầm lẫn căn bản về bản chất lịch sử, bởi ở Nguyễn Ánh không hề có cấu phần cốt lõi nào của hành vi “bán nước”: ông không mưu cầu một ngôi vị dưới bóng cường quyền ngoại bang, ông không ký thác chủ quyền lãnh thổ cho ai, và sau khi giành được chính quyền ông đã làm điều ngược lại với logic “cầu vinh” — ông dành gần trọn một thập kỷ kế tiếp để củng cố một nhà nước tập quyền, pháp điển hóa luật lệ, đo đạc lãnh thổ, xác lập chủ quyền biển đảo và chốt lại một khung vận hành có thể đứng được bằng chính nó.

Nếu lần vào mạch thời gian, sẽ thấy cái gọi là “bán nước” bị thực tế tự nó phủ nhận. Từ sau những biến cố 1777 ở Gia Định, cho đến khi chiếm lại Phú Xuân 1801 và tiến ra Thăng Long 1802, Nguyễn Ánh sống một đời chính trị liên tục hai mươi bốn, hai mươi lăm năm trong chiến tranh – thất bại – tích lũy – quay lại, với một chiến lược dài hơi hiếm gặp ở khu vực: xây dựng và hiện đại hóa thủy quân, tổ chức hậu cần đường sông và đường biển, kiểm soát những cửa vào – đồng bằng – lưu vực, tiến dần từ Nam ra Bắc theo một trật tự quân sự – địa lý chặt chẽ.
 
Một kẻ “cầu vinh” sẽ không có đủ độ dai dẳng của thời gian để theo đuổi đến cùng một dự án chính trị mệt mỏi như thế, lại càng không có nhu cầu đổ vốn sinh lực vào những hạ tầng nhà nước khô khan như pháp điển, địa bạ, đơn vị hành chính và mạng lưới cai trị.
 
Người ta có thể phản đối sự lựa chọn đồng minh của ông trong những năm tháng kiệt quệ, nhưng không thể vì thế mà đánh tráo động cơ. Vay mượn công nghệ và nhân lực quân sự phương Tây, kể cả dựa vào trung gian của Pigneau de Béhaine và những giao ước từng được soạn thảo, là cách thức phổ biến của chính trị châu Á cuối thế kỷ XVIII; bản thân những sắp đặt ấy cũng chưa bao giờ chuyển hóa thành một chế độ nhượng địa hay bảo hộ theo nghĩa pháp lý. Khi đã nắm được chính quyền, ông không thiết lập quan hệ lệ thuộc; trái lại, ông xác lập quan hệ bang giao trên nền tảng chủ quyền, ông di lý quốc hiệu và thiết chế ngoại giao để nhà nước mới xuất hiện trong trật tự khu vực như một chủ thể độc lập, và ông triển khai nhất quán các công việc nội trị mà một người “đi tìm bóng che” không đời nào thấy cần: ban hành Hoàng Việt luật lệ năm 1815 như một khuôn pháp lý thống nhất, chỉ đạo đo đạc và lập địa bạ để biến lãnh thổ từ ý niệm thành sổ sách, chuẩn hóa đơn vị hành chính theo trật tự trung ương – địa phương để mệnh lệnh có đường đi đến xã thôn, củng cố thủy quân và thực thi chủ quyền ngoài khơi với những mốc thực chứng từ 1816 ở Hoàng Sa rồi liên tục dưới các đời sau.
 
Những dữ kiện đó, xét đến cùng, đều đi theo hướng ngược với động cơ “bán nước”: chúng không làm suy giảm mà làm dày lên năng lực chủ quyền của nhà nước.

Vấn đề hay bị đánh tráo ở đây là sự hiện diện của người Pháp trong những bước ngoặt đầu đời Nguyễn Ánh bị xem như nguyên nhân trực tiếp của cuộc thuộc địa hóa nhiều chục năm sau, rồi từ đó quay ngược để quy kết “bán nước”. Cách lập luận ấy không đứng vững về quy luật quốc tế lẫn chuỗi thời gian: chế độ thuộc địa thế kỷ XIX là kết quả của một kết cấu quyền lực toàn cầu đang vươn tay vào châu Á gần như mọi ngõ ngách, bất kể nơi đó có hay không những giao hảo ban đầu; không thể lấy một mối quan hệ mua sắm – huấn luyện – cố vấn trong bối cảnh nội chiến để quy chiếu sang một cơ chế xâm lược – sáp nhập nhiều thập kỷ sau rồi khép lại bằng bản án đạo đức cho một cá nhân. Lịch sử đòi hỏi sự công bằng tối thiểu: phân biệt những tầng nguyên nhân khác nhau, rạch ròi giữa hành vi chiến thuật để sinh tồn của một lực lượng nội bộ với những quyết định cưỡng đoạt của một đế quốc trong một thời đại đã khác.

Cũng cần thừa nhận một cách chín chắn rằng: sự hậu đãi hay vị thế của một số giáo sĩ hoặc nhóm người phương Tây dưới thời Gia Long có thể làm nhiều người hôm nay bất an khi đọc lại, và việc sử dụng nhân lực – khí giới ngoại quốc trong nội chiến dễ tạo ra cảm giác “mời giặc về nhà”. Nhưng ở bình diện cấu trúc, không có biểu hiện nào cho thấy nhà nước do Gia Long dựng lên là một nhà nước chấp nhận vị thế phụ thuộc: ông không nhượng lãnh thổ, không ký kết một chế độ bảo hộ, không đặt quân đội dưới quyền điều khiển ngoại quốc, không biến ngoại thương thành đặc quyền độc chiếm của một cường quốc; trái lại, ông ưu tiên những công việc cần thiết để bảo tồn sự độc lập thực tế của một quốc gia vừa mới hợp nhất.

Đem những chi tiết ấy đặt cạnh mô hình Trần Ích Tắc sẽ thấy hai quỹ đạo đạo đức – chính trị hoàn toàn khác nhau: bên kia là quy thuận để được phong, bên này là cầu viện để có thể tự đứng; bên kia là lựa chọn chủ quyền ngoại bang làm khung cho bản thân, bên này là sử dụng nguồn lực bên ngoài để hoàn tất một dự án nội sinh.

Sau rốt, một tiêu chuẩn giản dị mà nghiêm ngặt có thể dùng để thử độ vững của mọi cáo buộc: hãy hỏi “sau khi đạt được mục tiêu, người đó đã để lại cái gì cho năng lực chủ quyền của nhà nước?”; nếu câu trả lời là một nhà nước nhỏ đi, tước bỏ dần những năng lực bản thể, thì lời buộc tội mới có cơ sở; nếu câu trả lời là một nhà nước lớn hơn, chặt hơn, có luật, có sổ, có biên giới thực thi và một bộ máy vận hành ổn định, thì cáo buộc ấy tự nó tan. Trường hợp Nguyễn Ánh, nhìn vào 1802–1815 và những hệ quả trực tiếp của giai đoạn ấy, câu trả lời đã rõ. Có thể không đồng ý với mọi lựa chọn cụ thể, có thể phê bình cái giá nhân đạo của chuyển giao quyền lực, có thể tiếc nuối những cơ hội canh tân bị bỏ lỡ ở các đời sau, nhưng không thể chụp lên ông chiếc mũ “bán nước” mà không bóp méo ngôn ngữ đến mức phản sự thật.

Nhận thức lịch sử trưởng thành không phải là làm sạch một nhân vật để yêu mến cho yên lòng, mà là trả họ về đúng hình hài trong tiến trình: Nguyễn Huệ giải phóng quốc gia khỏi thế phân liệt và khỏi họa ngoại xâm gần kề; Nguyễn Ánh hoàn tất công việc lập quốc theo nghĩa nghiêm cẩn của nhà nước – lãnh thổ – pháp luật.

 Nếu ai đó có ý tưởng hay hình dung một đền thờ chung dành cho cả hai, tôi sẽ nhiệt thành ủng hộ. Đền thờ đó sẽ đó không có lời xin lỗi nào dành cho quá khứ và cũng không có lời ca tụng nào dành cho hiện tại; ở đó chỉ có sự công bằng tối thiểu của trí tuệ. Đền thờ đó là để học hỏi với khát vọng trưởng thành - là để đứng trước Nguyễn Huệ để nhớ rằng tự chủ là điều kiện tồn tại, đứng trước Gia Long để hiểu rằng thể chế là điều kiện kéo dài. Và ở giữa hai pho tượng ấy, những lời kết tội “bán nước” rơi khỏi vai lịch sử một cách tự nhiên, không phải vì chúng ta cố gắng bào chữa, mà vì chính chuỗi hành động – kết quả của một đời chính trị hai mươi mấy năm đã phủ nhận chúng.

PHỦ NHẬN HOÀN TOÀN.

By Trung Hoang

THĂM LAM KINH


Lam Kinh là chính là Lam Sơn, một vùng núi và là nơi phát tích của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Lam Kinh có diện tích quy hoạch 200 héc ta, thuộc địa bàn hai huyện Thọ Xuân và Ngọc Lặc tỉnh Thanh Hóa và cách TP Thanh Hóa hơn 50 km về phía Tây Bắc.
Năm 1430, hoàng đế Lê Lợi cho đổi Lam Sơn thành Tây Kinh (tức Lam Kinh). Ba năm sau, các cung điện được xây dựng ở đây, có lẽ ban đầu là nơi tổ chức thiết triều, như một kinh đô thứ hai. Nhưng cũng trong năm đó, sau khi hoàng đế Lê Lợi băng hà, di hài được đưa về đây để an táng tại Vĩnh Lăng, thì Lam Kinh chính thức trở thành một sơn lăng. Và những cung điện to lớn được xây dựng các năm sau đó chủ yếu để phục vụ cho vua và hoàng tộc mỗi khi về thăm quê, bái yết sơn lăng như một biệt điện, hành cung.

Trải qua 6 thế kỷ thăng trầm, qua nhiều biến cố, Lam Kinh trở thành phế tích.

Tôi đến Lam Kinh lần đầu là vào năm 1995, lúc 25 tuổi. Chuyến đi kéo dài 2 ngày. Ngày đầu đến Thái Miếu nhà Lê (ở Phường Đông Vệ, TP Thanh Hóa), ngủ lại đêm ở đó, và ngày hôm sau đi thăm Lam Kinh. Lúc đó Lam Kinh là một phế tích, chỉ có những cây cổ thụ xanh om, cao ngất trời và thảm cỏ xanh ẩn hiện những tảng kê chân cột cùng bậc đá thềm rồng, tuy vậy cũng đủ để hình dung ra quy mô to lớn của các cung điện nơi này.
 
Lần thứ hai đến Lam Kinh là năm 2016. Khi đó các cung điện lớn của Lam Kinh đã hoàn thành việc phục dựng, nhưng nội thất nội điện vẫn còn chưa hoàn thành nên chưa thể tham quan.
 

Và hôm nay là lần thứ ba. Đáng lẽ chuyến đi này, có anh Ngô Hoài Chung tham gia, nhưng vì có việc đột xuất bất khả kháng nên anh đành để chúng tôi tự đi; và thế là chúng tôi mất đi một cơ hội được anh giảng giải về Lam Kinh. Anh nguyên là Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin Thanh Hóa. Sau anh ra HN giữ chức vụ Phó Cục trưởng Tổng cục Du lịch. Khi là giám đốc Sở, anh là người chịu trách nhiệm trước tỉnh và Bộ về dự án phục dựng Lam Kinh.
 
Đến nay, ngày hôm nay, tôi cùng nhà văn Hoàng Quốc Hải, phu nhân cùng các bạn trẻ đến thăm Lam Kinh thì đã được đưa vào thăm nội điện. Không khí cực kỳ uy nghiêm. Các hiện vật bên trong vàng son lộng lẫy, chế tác tinh xảo cho ta cảm giác đang được đứng trong một cung điện lớn thời Hậu Lê.
 
Có thể nói, Lam Kinh là nơi nhất định phải đến, nếu ta đến Thanh Hóa. Công trình tòa ngang dãy dọc, cổng lớn nền cao, quy mô kiến trúc, các chạm khắc gỗ, gạch ngói, hương án, chân đèn đều được làm ra với sự nghiên cứu tỉ mỉ, nên việc phục dựng đều đáng tin cậy, và dường như đã đạt đến độ hoàn hảo. Nhà văn Hoàng Quốc Hải là người am tường lịch sử, rất nghiêm trong việc xem xét các dự án trùng tu, phục dựng các di tích mà sau khi quan sát Lam Kinh cũng phải thốt lên những lời khen ngợi. Ông bảo: chưa tìm thấy cái gì để mà chê!
 
(Ông còn cho biết, lúc phục dựng cầu Bạch bắc qua con ngòi, cãi nhau hai năm trời trên mặt báo về vị trí của cây cầu này, đến khi thống nhất chung mới bắt tay vào vẽ phác thảo).
 
Lam Kinh là một quần thể núi non sông ngòi, hồ ao quây quanh các cung điện, miếu đền, những lăng mộ và các nhà bia ẩn hiện trong khu rừng già hiện ra trong các con đường tĩnh lặng và xanh tốt rườm rà.
Khách đến Lam Kinh hôm nay đã được chở bằng xe điện, do chính các nữ hướng dẫn viên du lịch vừa lái xe, vừa thuyết minh. Đây là nét mới của Lam Kinh, để giúp khách thăm đến được nhiều điểm trong toàn bộ Lam Kinh, và hưởng thụ trọn vẹn khí núi lan trong rừng già, dọc theo lối đi.


Chúng tôi được BQL bố trí chị Lê Thị Thức hướng dẫn. Giọng nói truyền cảm, kiến thức của HDV được đưa ra linh hoạt theo mỗi đoạn đường, truyền được tinh thần của hào khí Lam Sơn và công nghiệp của các hoàng đế Lê triều.
 
Trước khi chia tay, BQL di tích Lam Kinh có biếu đoàn chúng tôi mỗi người một cuốn sách giới thiệu về Lam Kinh và một chục bánh gai Tứ Trụ - một món quà đặc sản ở địa phương. Bánh gai rất ngon.
Vừa kịp đến giờ ăn trưa, chúng tôi ghé nhà hàng Cô Tám, nơi tôi và đoàn cán bộ Viện Hán Nôm tới ăn trưa 7 năm trước, sau khi thăm Lam Kinh. Quán nay đã cách chỗ cũ một đoạn, nhưng chủ nhân vẫn là anh ấy. Chủ quán là Đỗ Xuân Quỳnh, 7 năm trước, sau khi đoàn Viện Hán Nôm ăn trưa, anh đi đâu đó về, ghé lại chỗ chúng tôi đang uống trà, và nhận ra tôi. Anh bảo anh ngưỡng mộ tôi. Tôi mới bảo: Thế mà anh không về sớm, uống với anh em chúng tôi chén rượu. Giờ tôi say mất rồi!

Nay đến quán anh dùng bữa trưa. Anh em tay bắt mặt mừng. Mừng nhà hàng Cô Tám nay đã khang trang, hàng ngày đón lượng khách rất lớn, “biên chế” cứng của nhà hàng lên tới bốn chục người. Vợ anh là người quán xuyến phụ trách nhà bếp. Món ăn ngon, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của thực khách. Có ngày phục vụ đến 3-4 đám cưới.
 
Anh mời cả đoàn dùng bữa trưa, uống rượu mơ do nhà hàng làm, trò chuyện hồi lâu rồi lại phải đứng dậy để quán xuyến công việc.

Lam Kinh đang hoàn thiện để phục dựng trọn vẹn các công trình miếu điện, kiến trúc đã từng có ở đây. Chắc khoảng 2-3 năm nữa sẽ xong. Khi ấy nhất định sẽ lại ghé thăm Lam Kinh.


NGUYỄN TÂY SƠN VÀ NGUYỄN GIA LONG NGÔI ĐỀN THỐNG NHẤT



Một bài viết hay. Rất đáng đọc để suy ngẫm

Bài của Trung Hoang

Bài viết này không tìm cách ca tụng hay kết tội, mà trả mỗi nhân vật lịch sử về đúng phần việc mà thời đại giao phó. Nó nhìn lịch sử Việt Nam cận đại như một tiến trình liên tục: từ nhu cầu mở đất, đến phân liệt quyền lực, rồi đến hai pha kế tiếp của thống nhất quốc gia.
 
Nguyễn Huệ được đặt vào đúng vị trí lịch sử của ông: người duy nhất trong khoảnh khắc phân rã có thể khôi phục năng lực tự chủ và cứu quốc gia khỏi nguy cơ ngoại thuộc.
 
Nguyễn Ánh được xét bằng tiêu chuẩn cấu trúc nhà nước: người hoàn tất hình hài quốc gia thống nhất với thể chế, biên giới và bộ máy vận hành bền vững. Bài viết bác bỏ định kiến “bán nước” bằng các tiêu chuẩn lịch sử nghiêm ngặt về động cơ, hành vi và hệ quả chủ quyền. Không đặt hai nhân vật vào thế đối lập, bài viết chỉ ra rằng họ là hai nhịp liên tiếp của cùng một tiến trình dựng nước: giải nguy và kiến lập. Từ đó, ý tưởng về một ngôi đền thống nhất xuất hiện như biểu tượng của nhận thức trưởng thành: thay vì chọn phe, ta học cách nhìn quốc gia trong chiều dài của nó. Đây không phải là hòa giải quá khứ, mà là học cách không lặp lại chia rẽ trong tương lai.


Lịch sử Việt Nam không bắt đầu từ một lãnh thổ như ta đang biết, mà từ một vùng lòng chảo hẹp của đồng bằng sông Hồng và dải đất Thanh – Nghệ. Không gian ấy, trong nhiều thế kỷ, là giới hạn tự nhiên của một cộng đồng nông nghiệp trồng lúa nước, nơi sức chứa của đất đai, mật độ dân cư và kỹ thuật sản xuất quy định hình dạng của nhà nước và biên độ của quyền lực. Các triều đại Lý và Trần giữ được sự độc lập trong phạm vi ấy, nhưng quốc gia khi đó vẫn còn dựa chủ yếu vào năng lực phòng thủ hơn là mở rộng. Chỉ đến khi nhu cầu sinh tồn vượt quá khả năng nuôi chứa của vùng đất cũ, dòng người Việt mới dịch chuyển dần về phương Nam.

Những thế kỷ Nam tiến không diễn ra trong tiếng trống trận trước hết, mà trong nhịp cày ruộng, lập làng, bám sông mà đi. Trên thực tế, Nam tiến là một sự trưởng thành về tư duy lập quốc. Vấn đề thực sự bắt đầu từ thời Lê, khi năng lực tích lũy vật chất, dân số và tổ chức hành chính bắt đầu chạm vào giới hạn của một không gian đã cạn. Khi chiếc chậu nước đầy, dù không ai muốn, nó cũng sẽ tràn. Nam tiến không phải là tham vọng, mà là hệ luận tự nhiên của một dân tộc lúa nước cần đất mà gieo lúa. Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa không chỉ là một lựa chọn chính trị, mà là sự chuyển dịch của mạch sống cộng đồng. Những làng người Việt không tiến vào phương Nam bằng đạo quân, mà bằng những đường cày, những mái nhà tranh, những nhịp trống đình, những tán tre. Họ bám lấy dòng sông như mạch dẫn. Và dải đất phương Nam dần dần biến thành quê hương mới không phải bằng sức ép, mà bằng sức sống.
Thêm vào đó, kể cả cuộc Nam tiến kia đã giúp lãnh thổ mở rộng dần, nhưng khái niệm quốc gia thống nhất chưa được định hình. Khi họ Nguyễn ở Đàng Trong xây dựng được một trung tâm quyền lực thứ hai song song với Bắc Hà, đất nước bước vào trạng thái hai cực đồng thời tồn tại mà không chia sẻ một trục chính danh chung. Trong hơn hai trăm năm, Đại Việt là một cơ thể có hai nhịp tim, vận hành được nhưng không bền vững.

Cuối thế kỷ XVIII, cả hai nhánh quyền lực ấy suy yếu. Triều Lê – Trịnh ở Thăng Long không còn khả năng tự điều chỉnh, cấu trúc cai trị bị chia cắt vào các nhóm lợi ích, ý thức về một trung tâm chính trị chung đã suy tàn. Ở phía Nam, họ Nguyễn sau nhiều năm nội chiến cũng không còn đủ lực để vừa phòng thủ vừa cải tổ. Quốc gia khi đó không phải chỉ bị tổn thương về lãnh thổ, mà bị tổn thương sâu hơn ở mức độ tinh thần: không còn điểm hội tụ cho trí tưởng tượng về Tổ quốc. Đó là bối cảnh mà sự kiện quân Thanh can thiệp xảy đến — không như một biến cố độc lập, mà như bước cuối cùng của một chuỗi rạn nứt kéo dài. Không có một chủ thể chính trị nào trong hệ thống cũ đủ sức tổ chức phản ứng tương xứng.


Để cẩn trọng hơn ở thời điểm này của bài viết, nhất là để tránh sự tán tụng vô cớ, trước hết cần trở về tình thế cuối thập niên 1780 với đôi mắt lạnh của sử học: trật tự Lê–Trịnh ở Bắc Hà chỉ còn là vỏ nghi lễ, quyền uy đã vỡ vụn vào các mối kết cấu thân hữu và lợi ích cục bộ, hệ chỉ huy quân sự rệu rã, tài chính kiệt quệ, và quan trọng hơn cả là trí tưởng tượng chính trị chung về “Trung tâm Đại Việt” đã suy tàn đến mức không còn khả năng huy động tinh thần phòng thủ, trong khi ở Đàng Trong, họ Nguyễn sau nhiều chu kỳ binh đao cũng hao hụt nội lực, khiến tổng thể quốc gia vận hành như một cơ thể có hai hệ tuần hoàn vừa cạnh tranh vừa cản trở nhau, không nơi nào đủ chính danh và năng lực để nhận trách nhiệm tối hậu khi ngoại bang can dự.

Trong điều kiện ấy, sự kiện quân Thanh tiến vào Thăng Long cuối năm 1788 không chỉ là thêm một biến cố ngoại giao–quân sự, mà là phép thử giới hạn cuối cùng đối với năng lực tự chủ, bởi vì không còn một cơ chế ra quyết định nào ở Bắc Hà đủ tốc độ, đủ kỷ luật, đủ thẩm quyền để gom lại những nguồn lực rời rạc thành một phản ứng chiến lược hữu hiệu. Chính tại điểm khủng hoảng ấy, Nguyễn Huệ bước vào với một dạng quyền lực mà phần còn lại của vũ đài nội trị không thể tái tạo: quyền lực của sự hợp nhất tức thời giữa kỹ năng tổ chức, thẩm quyền chính trị và trực giác chiến lược, cho phép ông rút ngắn một chuỗi thao tác—tập hợp, cơ động, đánh vào điểm quyết định, kết thúc chiến dịch—trong khoảng thời gian quá ngắn đối với một đối thủ hành chính cồng kềnh và một lực lượng xâm lược đang dựa vào ưu thế quân số và cảm giác “vào như đi dạo”.

Ở đây điều quan trọng không nằm ở con số tuyệt đối do các nguồn sử ghi chép, vốn dao động từ hàng chục vạn đến “hai mươi chín vạn”, mà ở chỗ, với một quốc gia bị phân chia, thiếu trung tâm chính danh, thiếu đường lối chỉ huy thống nhất, không một cá nhân hay tập đoàn quyền lực nào ngoài Nguyễn Huệ đủ sức chuyển hóa sự phòng vệ bản năng của cộng đồng thành một hành động quân sự quy mô nhà nước có mục tiêu chính trị rõ ràng, và chính sự chuyển hóa ấy làm nên giá trị lịch sử của ông: ông không sáng tạo “ý chí dân tộc” từ hư vô, ông phục hồi và đưa nó trở lại bình diện hữu hiệu của quyền lực.

Nhưng ở bình diện cấu trúc, cần nói cho hết rằng năng lực giải cứu quốc gia trong tình thế khẩn cấp không đương nhiên chuyển thành năng lực kiến lập nhà nước trong hòa bình; để một thực thể chính trị đứng vững lâu dài, người ta cần thời gian để pháp điển hóa trật tự, cần một bộ máy quan liêu đủ bền để bảo đảm tính liên tục, cần đo đạc và ghi sổ để biến lãnh thổ từ ý niệm thành đối tượng quản trị, cần thiết kế mối quan hệ giữa trung ương và địa phương sao cho mệnh lệnh có đường đi đến tận làng xã, và cần làm tất cả những điều chậm, nặng, khô ấy trong một khoảng lặng hậu chiến mà lịch sử của Tây Sơn không ban cho.

Nguyễn Huệ qua đời năm 1792 khi công việc chuyển hóa “khí thế chiến thắng” thành “cấu trúc vận hành” mới chỉ manh nha, triều chính chưa kịp định hình cơ chế kế vị có khả năng tái sản xuất thẩm quyền chính trị mà cá nhân ông biểu trưng, tài chính chưa kịp phục hồi sau những năm tổng động viên, và vì thế, không phải do khuyết thiếu cá nhân, mà do giới hạn của thời gian và điều kiện, ông không thể là người hoàn tất pha “định quốc an bang” theo nghĩa nghiêm ngặt của một nhà nước có thể duy trì chính mình qua nhiều thế hệ.


Chính tại ranh giới này, sự đối chiếu giữa họ mới có ý nghĩa: Nguyễn Huệ là chủ thể duy nhất của thời đoạn ấy có thể đưa quốc gia ra khỏi bờ vực mất chủ quyền trong bối cảnh phân liệt; Gia Long là chủ thể của thời đoạn kế tiếp có thể biến thắng quả của độc lập thành một hình thể nhà nước thống nhất và vận hành được; hai phần việc đó khác bản chất, không thể đánh giá bằng cùng một thước, và chính vì khác bản chất nên không thể thay thế nhau, nhưng đặt cạnh nhau thì chúng khớp vào một tiến trình: nếu thiếu Nguyễn Huệ, không có điểm xuất phát cho công cuộc hợp nhất; nếu thiếu Gia Long, không có cấu trúc để hợp nhất khỏi rã ra ngay sau chiến thắng.

Nói Nguyễn Huệ là “anh hùng dân tộc”, do đó, đương nhiên không phải là lời tán tụng rỗng, mà là cách ngắn gọn nhất để chỉ vào sự kiện độc nhất: trong một khoảnh khắc mà toàn bộ hệ thống chính trị lưỡng phân đã mất khả năng tự vệ, ông duy nhất có thể tái lập năng lực tự chủ ở cấp độ quốc gia và chặn đứng nguy cơ ngoại thuộc; nói ông là “một ngôi sao băng” không phải để làm đẹp chữ, mà để nhắc người đọc về mối tương quan giữa cường độ và thời lượng trong lịch sử: cường độ hành động của ông đạt mức quyết định đối với số phận quốc gia, nhưng thời lượng mà lịch sử còn lại cho ông không đủ để đi nốt phần đường từ “giải nguy” tới “kiến lập”; và chính vì vậy, việc đặt ông ngang tầm về vai trò lịch sử với Gia Long là để tạo nên một bức tranh hài hoà, một bài học hoàn hảo cần hơn bao giờ hết cho hậu thế.

(Còn tiếp)

Thứ Ba, 28 tháng 10, 2025

HUYỀN THOẠI TỨ KIỆT VÀ TỨ KIỆT CỔ MIẾU

 

Miếu thờ Tứ kiệt – Ảnh : Trần Đăng Kim Trang

Về thị xã Cai Lậy, Tiền Giang, hỏi đến chuyện Tứ Kiệt khởi nghĩa chống Pháp, hầu như ai cũng biết. Bởi những câu chuyện về Tứ Kiệt vẫn còn được lưu truyền trong dân gian từ thế hệ này qua thế hệ khác và miếu thờ, lăng mộ Tứ Kiệt vẫn là những dịa danh nổi tiếng nhất ở thị trấn này.


Khu lăng mộ Tứ Kiệt – Ảnh : Trần Đăng Kim Trang

Tứ Kiệt là biệt danh mà nhân dân các huyện Cai Lậy, huyện Cái Bè và thị xã Cai Lậy (Tiền Giang) dùng để gọi một cách đầy trân trọng, tôn kính đối với 4 vị anh hùng nông dân đã tham gia kháng Pháp hồi nửa sau thế kỷ 19 trên vùng đất này. 4 vị anh hùng này còn được dân gian gọi là Bốn Ông Cai Lậy.

Bàn thờ Tứ Kiệt trong khu lăng mộ – Ảnh : Trần Đăng Kim Trang

Tứ Kiệt gồm các ông Trần Công Thận, Nguyễn Thanh Long, Trương Văn Rộng và Ngô Tấn Đước. Ông Trần Công Thận, sinh năm 1825, quê ở Xóm Vông, ấp Mỹ Phú, làng Mỹ Trang, huyện Kiến Đăng, tỉnh Định Tường (nay thuộc ấp Mỹ Phú, xã Long Khánh, thị xã Cai Lậy). Ông Thận là vị lãnh đạo cao nhất, thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa nên được nhân dân gọi là “Nguyên soái Thận”. Ông Nguyễn Thanh Long, sinh năm 1820 ở xóm Cầu Ván, ấp Cẩm Hoà, thôn Cẩm Sơn, huyện Kiến Đăng, tỉnh Định Tường (nay là ấp 2, xã Cẩm Sơn, huyện Cai Lậy, Tiền Giang). Ông Long là người có nhiều mưu trí, tài thao lược nhất trong “Tứ kiệt”. Ông Trương Văn Rộng, quê ở Tân Lý Đông, huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường (nay là xã Tân Lý Đông, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang). Ông Ngô Tấn Đước là người Xóm Vuông, thôn Tân Hội, huyện Kiến Đăng, tỉnh Định Tường (nay thuộc xã Tân Hội, thị xã Cai Lậy).

Tứ Kiệt đều xuất thân trong những gia đình nông dân và đều là những người lính dưới quyền của hai vị tướng lừng danh Thiên Hộ Dương (Võ Duy Dương) và phó tướng Đốc Binh Kiều (Nguyễn Tấn Kiều). Đây là 2 vị thủ lĩnh nổi bật trong phong trào chống Pháp ở Nam bộ hồi nửa sau thế kỷ 19. Năm 1868, sau khi lực lượng của Thiên Hộ Dương tan rã, Tứ Kiệt trở về vùng đất nay thuộc các huyện Cai Lậy, Cái Bè và thị xã Cai Lậy, đứng ra chiêu mộ nghĩa binh, tiếp tục hoạt động chống Pháp. Địa bàn hoạt động của bốn ông chủ yếu ở các vùng nay là Tháp Mười, Cái Bè, Cai Lậy, Thuộc Nhiêu và Mỹ Tho.

Theo lời kể của nhiều bậc cao niên ở Cai Lậy và Cái Bè, các ông Thận, Long, Rộng và Đước đều có thân hình to lớn khác thường, tay chân lanh lẹ, tóc dài, râu rậm. Cả 4 ông đều rất giỏi võ nghệ, nhảy rất cao và chạy rất nhanh. Không những thế, 4 ông đều có nhiều mưu mẹo trong việc tổ chức nghĩa binh đánh Pháp. Vì vậy, lực lượng nghĩa quân của các ông tuy không đông đảo và chỉ được trang bị thô sơ, với vũ khí chủ yếu là giáo mác, gậy gộc, nhưng nhờ tổ chức hoạt động theo kiểu ban ngày là dân, ban đêm là lính, xuất quỷ nhập thần, khiến cho kẻ địch nhiều phen thất điên bát đảo, không biết đường nào mà đối phó. Dù chỉ tồn tại được trong vài năm nhưng nhờ sự mưu trí, dũng cảm, Tứ Kiệt đã cùng các nghĩa binh lập nên nhiều chiến công vang dội, mà đến giờ, dân trong vùng Cai Lậy, Cái Bè vẫn thường nhắc nhở với niềm khâm phục.

Chiến công vang dội nhất của Tứ Kiệt là đánh thành Định Tường (Mỹ Tho). Để giành được thắng lợi, Tứ Kiệt đã bỏ ra nhiều ngày trời cải trang thành người đi làm mướn, lẻn vào bên trong thành Định Tường, dò xét từng đường đi, lối lại, cách bố phòng của quân Pháp. Đêm 01/5/1868, Tứ Kiệt đã tổ chức nghĩa quân trèo tường vào thành, giết chết tên trưởng kho và thiêu trụi kho lương của giặc, sau đó rút lui an toàn. Hơn 2 năm sau, vào ngày 25/12/1870, khi quân Pháp ở Cai Lậy kéo về Mỹ Tho để ăn lễ Noel, nghĩa quân Tứ Kiệt đã bất ngờ tấn công đồn Cai Lậy, thiêu rụi trại lính và dinh Tham biện, tiêu diệt tên Việt gian Bếp Hữu, tịch thu nhiều vũ khí đạn dược, rồi rút lui an toàn … Những chiến công đó đã gây tiếng vang lớn trong vùng, khiến cho nhiều thanh niên trai tráng đi theo nghĩa quân Tứ Kiệt. Có thêm lực lượng, nghĩa quân đã giành thêm một số chiến thắng nhỏ khác.

Hai lần bị mất mặt bởi nghĩa quân của Tứ Kiệt, đồng thời nhận thấy lực lượng nghĩa quân đang ngày càng lớn mạnh, quân Pháp quyết tâm tìm mọi cách bắt Tứ Kiệt và dập tắt nghĩa quân của 4 ông. Quân Pháp đã dùng thủ đoạn thâm độc là đi bắt giam gia đình của bốn ông và 150 dân thường khác, rồi tiến hành tra tấn họ một cách dã man. Không nỡ thấy những người thân và dân thường vì mình mà phải chịu cực hình, có thể mất mạng, Tứ Kiệt đành phải ra nộp mình. Suốt 45 ngày, quân Pháp dùng mọi thủ đoạn tra khảo, mua chuộc, dụ dỗ Tứ Kiệt đầu hàng, đi theo chúng, nhưng không thành. Ngày 14/2/1871, tức là ngày 25/12 năm Canh Ngọ, quân Pháp đành phải đem cả 4 ông ra chém đầu ở chợ Cá (nay là chợ Cai Lậy). Chúng cho gia đình 4 ông mang thân thể về chôn cất, còn 4 cái đầu, chúng đem bêu trong nhiều ngày để uy hiếp tinh thần dân chúng rồi vùi xuống mé ruộng gần chợ.

Ths Trần Đăng Kim Trang (Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật TPHCM)
Văn hiến Việt Nam

Bàn thờ Tứ Kiệt trong Miếu thờ – Ảnh : Trần Đăng Kim Trang

Không có đầu, gia đình của các ông Thận, Long, Rộng và Đước, đành phải làm những cái đầu giả, gắn vào thân của các ông để chôn cất ở quê nhà. Còn những cái đầu của các ông, sau khi bị quân Pháp đem vùi xuống ruộng, nhân dân trong vùng đã âm thầm lấy về gột rửa sạch sẽ rồi kính cẩn đem chôn cất cẩn thận ở thôn Thanh Hòa (nay thuộc thị xã Cai Lậy) dưới dạng những nấm đất vô danh, rồi trồng một hàng cau sơn vôi trắng làm hàng rào. Đồng thời, nhân dân Cai Lậy cũng đã lập một ngôi miếu ở làng Mỹ Trang ngay tại khu đất mà quân Pháp từng bêu đầu 4 ông. Khi ấy, do sợ bị Pháp biết là miếu thờ Tứ Kiệt thì sẽ ra tay phá huỷ miếu, nên nhân dân đã nghĩ ra cách dựng lên một miếu thờ Quan Đế (Quan Công). Sở dĩ dân lập miếu thờ Quan Công vì trong tâm thức dân gian, Quan Công là biểu tượng của lòng trung nghĩa, mà Tứ Kiệt cũng là biểu tượng về lòng trung quân, ái quốc. Phía sau ban thờ Quan Đế, nhân dân đặt một khánh thờ “Tứ vị thần hồn”, tức là Tứ Kiệt. Ngôi miếu này cũng còn được gọi bằng những cái tên khác như Chùa Ông hoặc miếu Cô Hồn.

Nhà nghiên cứu văn hoá dân gian Trương Ngọc Tường vốn sinh ra, lớn lên và gắn bó đã đời mình với thị xã Cai Lậy, nhà ông lại cách lăng mộ và miếu thờ Tứ Kiệt không xa, nên ông rất am tường huyền thoại Tứ Kiệt cũng như lịch sử hình thành khu lăng mộ và miếu này. Ông Tường cho biết, thời gian đầu, vị trí đặt miếu Tứ Kiệt không ổn định, cứ phải di dời liên tục do nhiều lý do khác nhau. Mãi đến năm 1904, miếu mới được người dân trong vùng dời về đặt cạnh gần 4 ngôi mộ của Tứ Kiệt và cố định ở đó cho tới tận bây giờ. Dù các nấm đất chôn đầu Tứ Kiệt vẫn chưa được công khai đặt bia ghi tên các ông và khu miếu thờ vẫn chưa thể mang tên Tứ Kiệt, nhưng huyền thoại về Tứ Kiệt vẫn tiếp tục lan rộng trong dân gian. Năm 1938, một người lính mã tà là Đội Lung, khi nghe về huyền thoại Tứ Kiệt đã cảm kích trước sự hy sinh anh dũng của 4 ông. Sau đó, Đội Lung đã thuê người làm tấm bia đá đặt ở đầu khu mộ. Trên bia có khắc dòng chữ Hán “Ðại Nam Mỹ Tho tỉnh, Thanh Hòa thôn, Tứ vị cựu quan chi mộ”.

Đến năm 1954, được sự đồng ý của viên quận trưởng, 4 ngôi nấm đất chôn đầu của Tứ Kiệt được dân trong vùng đóng góp tiền bạc mua xi măng, gạch về xây cất kiên cố, đặt nằm song song và gần khít vào nhau, giống như hình ảnh 4 vị khi còn sống đang cùng sát cánh bên nhau, xung phong đánh giặc. Nhân dân cũng thay những cây cau bằng hàng rào sắt kiên cố. Khu miếu thờ và khu lăng mộ đã chính thức được treo biển đề là Tứ Kiệt cổ miếu và lăng mộ Tứ Kiệt. Những cái tên từng được dùng để gọi khu miếu thờ như miếu Quan Đế, Chùa Ông hay miếu Cô Hồn đã hoàn thành xứ mạng lịch sử và đi vào dĩ vãng. Năm 1967, nhân dân Cai Lậy quyên góp tiền bạc tiến hành trùng tu khu lăng mộ và ngôi miếu, đồng thời mở rộng về quy mô ngôi miếu, thêm phần nhà khách để phục vụ khách thập phương về thăm viếng 4 vị anh hùng. Nhân dân cũng đã bầu ra Ban cúng tế lo việc trùng tu, cúng bái hàng năm.

Khu Lăng mộ Tứ Kiệt hiện nay gồm 2 phần. Phía trước là Nhà tưởng niệm rộng hơn 100 m2, thiết kế và xây dựng theo lối kiến trúc xưa, gồm 4 hàng cột đỡ mái, 16 cây cột đắp nổi hình rồng quấn quanh cột. Bên trên là 2 lớp mái cong chạm rồng. Giữa Nhà tưởng niệm là bàn thờ Tứ Kiệt, lư hương. 2 bên bàn thờ là 2 giá binh khí xưa và một cặp hạc đứng trên lưng rùa. Phía sau là nhà mộ chỉ có một lớp mái cong chạm rồng. Mái được đỡ bằng 4 cây cột, bên dưới là 4 ngôi mộ.

Hàng năm, cứ vào ngày 25 tháng Chạp, như thường lệ, tại khu lăng miếu Tứ Kiệt, người dân thị xã Cai Lậy và các vùng phụ cận lại tưng bừng, kính cẩn làm lễ giỗ 4 người anh hùng nông dân đã lãnh đạo nghĩa quân chống Pháp ở Cái Bè, Cai Lậy và đã ngã xuống trên mảnh đất này. Đây được coi là một trong những ngày lễ lớn và trang trọng nhất trong năm ở Cai Lậy. Trong ngày lễ giỗ, thường có nghi thức rước vong của Tứ Kiệt từ chỗ chợ Cai Lậy (nơi 4 ông bị chặt đầu) rồi rước vòng về khu lăng mộ. Ngoài ra, trong các ngày lễ, ngày rằm lớn trong năm như rằm tháng giêng, rằm tháng 7, rằm tháng 10, nhân dân trong vùng lại tổ chức những lễ cúng tế long trọng tại lăng miếu Tứ Kiệt. Khu miếu và lăng Tứ kiệt cũng đã được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích Lịch sử – Văn hoá cấp quốc gia năm 1999.

Bằng công nhận Tứ kiệt cổ miếu – di tích lich sử văn hóa cấp quốc gia – Ảnh : Trần Đăng Kim Trang

Bằng công nhận Tứ kiệt cổ miếu – di tích lich sử văn hóa cấp quốc gia – Ảnh : Trần Đăng Kim Trang
Tứ Kiệt đã trở thành hình tượng người nông dân tiêu biểu của vùng đất Nam bộ, là biểu tượng bất tử trong lòng người dân Cai Lậy.

“Tứ vị anh hùng vị quốc hy sinh vĩnh niệm

Kiệt nhân nghĩa cử tinh thần bất khuất lưu tồn”

TỈNH NINH BÌNH MUA BẢN QUYỀN PHIM "XẨM ĐỎ"ĐỂ BẢO TỒN





Buổi trò chuyện cùng nghệ nhân Hà Thị Cầu và đạo diễn Lương Đình Dũng trong phim ‘Xẩm đỏ’. Ảnh cắt từ phim.

Đạo diễn Lương Đình Dũng nhấn mạnh: “Khi làm phim về âm nhạc truyền thống thì hình ảnh phải thi vị, chứ không chỉ đặt máy rồi ghi lại cảnh nghệ nhân hát, nó không thể là hình ảnh mô tả hay đơn giản là ghi lại hình và tiếng. Với tôi, việc thực hiện một tác phẩm âm nhạc đôi khi còn khó và phải đầu tư nhiều hơn cả một bộ phim. Do đó, tác phẩm mới có giá trị sâu sắc và bền vững”.

Có thể thấy, phim tài liệu “Xẩm đỏ” về nghệ nhân Hà Thị Cầu, người hát xẩm cuối cùng của thế kỷ 20, vừa được tỉnh Ninh Bình đề xuất mua bản quyền nhằm bảo tồn và quảng bá một di sản vốn được coi là báu vật quốc gia.

Đạo diễn Lương Đình Dũng đang hoàn tất các thủ tục sang nhượng bản quyền phim “Xẩm đỏ”. Đạo diễn khá bất ngờ trước đề xuất mua bản quyền của tỉnh Ninh Bình – khi bộ phim đã hoàn thành từ những năm 2011. Từ đó, không chỉ khiến đoàn làm phim sống lại cảm xúc của những ngày thực hiện bộ phim, mà còn cho thấy sự trân trọng, quyết tâm bảo vệ và phát huy giá trị di sản nghệ thuật hát xẩm của tỉnh Ninh Bình.

Được biết, bộ phim “Xẩm đỏ” khởi quay trong nhiều năm trước khi nghệ nhân Hà Thị Cầu qua đời năm 2012. Khi đó, cụ Hà Thị Cầu đã 95 tuổi, lúc nhớ lúc quên, khi cười khi khóc, lúc hợp tác, khi lại từ chối.

Đạo diễn Lương Đình Dũng nhận ra nếu đề nghị nghệ nhân Hà Thị Cầu làm theo những gì đúng như trong kịch bản đề ra thì sẽ thiếu đi sự tự nhiên, bản thân bà cũng khó làm theo. Việc nói, cười hay bất kỳ điều gì mà đạo diễn muốn đều làm mất đi tính tự nhiên của bộ phim.

Trong đó, hầu hết kịch bản được định sẵn gần như không có tác dụng. Muốn quay cảnh nào, hát bài gì, tâm sự ra sao đều là những lời tỉ tê, khơi gợi như một cuộc chuyện trò bình thường không có sự hiện diện của máy quay, của tiếng loa chỉ đạo “quay – cắt”, mà đơn giản là cùng con cháu cụ Cầu “lừa” rằng: “Bọn con chưa quay đâu”, “chuyện trò với cụ để hiểu đã”, “thôi, cụ hát cho con nghe một bài”…

Trong suốt 2 năm (kể từ năm 2008 đến 2010) nhiều chuyến đi đi về về giữa Hà Nội và Yên Mô (Ninh Bình cũ) được đoàn làm phim kiên trì với 1.200 phút quay do nghệ sĩ Trịnh Quang Tùng thực hiện. Sau đó, 35 phút phim “Xẩm đỏ” ra đời và được chọn chiếu trong một sự kiện của UNESCO vào năm 2011.

Đạo diễn Lương Đình Dũng tâm sự thêm: “Nhiều khán giả cho rằng phim quá ngắn, vì thế mà chúng tôi đã dựng lại một bản phim khác dài hơn, tổng thời lượng 68 phút để người xem có thể nghe được nhiều bài hát hơn từ nghệ nhân Hà Thị Cầu”.

Đây là một bộ phim khá kỳ công, thời gian quay kéo dài, đạo diễn không muốn sử dụng lời bình như một cách để giữ lại sự trong trẻo tự nhiên của bộ phim với người nghe xẩm vốn mộc mạc và “chất” hơn. 

Đồng thời, để nghệ nhân tự nhiên thoải mái nhất khi hát như thể đang tâm sự trực tiếp tới khán giả và coi như không có đoàn làm phim ở đó.

Nhiều điều kỳ diệu, nhiều thăng trầm, làng quê đẹp đẽ thân thương hiện lên trong bộ phim và những lời ca đẹp quyến rũ lòng người. Nếu phác họa âm nhạc bằng màu sắc, thì xẩm sẽ thiên về màu nóng nên đạo diễn đã đặt tên phim là “Xẩm đỏ”.

Đây còn là cũng là gam màu báo động về một loại hình nghệ thuật đang đứng trước nguy cơ thất truyền. Đồng thời, là màu sắc gợi nhắc đến mồ hôi nước mắt và thân phận hẩm hiu, khốn khổ của những người hát xẩm khi xưa.

Bộ phim “Xẩm đỏ” không chỉ là hình ảnh về nghệ nhân Hà Thị Cầu, mà còn hấp dẫn bởi miền quê mộc mạc, với chợ quê, hoa gạo, bến đò… ẩn hiện, thảng thốt trong tiếng sênh, nhịp phách. Bên cạnh sự công phu về âm nhạc thì những hình ảnh chốn chợ, chốn quê thôn dã góp phần tôn vinh nghệ thuật hát xẩm.

Trong suốt bộ phim, người xem sẽ không thấy hình ảnh của diễn viên, sẽ không nghe thấy những lời thoại của diễn xuất. Đạo diễn đã không sử dụng diễn viên mà chờ đợi những phiên chợ ở chính nơi cụ Hà Thị Cầu sinh sống. Đây cũng là một chợ quê đơn sơ nhưng đẹp tự nhiên với hình ảnh hoa gạo, con đường cong trong buổi chiều tà…mỗi khuôn hình đều có những ý nghĩa ẩn khuất phía sau.

Thông qua bộ phim, bức tranh miền quê thanh bình yên ả ấy thảng hoặc điểm xuyết bởi thanh âm của xẩm. Tiếng xẩm có lúc vang xa, có lúc thẽ thọt như lời tự sự. Hình ảnh anh Khóa bên bến tàu kéo còi tu tu chuẩn bị phân ly người yêu khi “hai hàng lệ nó chảy vòng quanh”, lời nhắc nhở “công mẹ khổ lắm, công cha thời nhiều”…như in khắc mộc bản vào đời sống hiện tại. Được lắng nghe và cảm thụ một nghệ nhân dân gian cất tiếng hát, người xem thấy một cuộc sống nghĩa tình rất khác với cuộc sống hiện đại vội vã của ngày hôm nay.

Cũng theo đạo diễn Lương Đình Dũng “Với những thước phim được lựa chọn kỹ với nhiều thông điệp, nhiều ẩn ý, tôi muốn lưu giữ lại tất cả như một di sản văn hóa truyền thống của nghệ nhân Hà Thị Cầu để lại cho Ninh Bình nói riêng và cho kho tàng nghệ thuật xẩm Việt Nam nói chung”.

Ngọc Hải
(Văn hiến Việt Nam)



Hình ảnh của cố nghệ nhân Hà Thị Cầu thời điểm năm 2010.

Bên cạnh “Xẩm đỏ”, đạo diễn Lương Đình Dũng từng thực hiện 6 bộ phim nổi tiếng về nghệ thuật chèo, như “Hề cu Sứt”, “Thầy bói đi chợ”, “Lý trưởng mẹ Đốp”, “Phù thủy sợ ma”, “Thị Màu lên chùa”. Là một đạo diễn điện ảnh, anh cho rằng cái gốc đi lên và thấm đẫm trong hành trang nghệ thuật vẫn phải từ những tác phẩm văn học, nghệ thuật dân tộc.

“Xẩm, hề chèo đều là những ngôn ngữ nghệ thuật tuyệt vời. Ngoài ra, tôi cũng rất yêu thích các loại hình di sản văn hóa phi vật thể khác như hát xoan, hát then, đờn ca tài tử, nhã nhạc cung đình. Sắp tới tôi sẽ tiến hành làm phim về nghệ thuật hát then ở Tuyên Quang với mong muốn lưu giữ lại một di sản quý báu trong bối cảnh đa số nghệ nhân nơi đây đều đã cao tuổi”, đạo diễn Lương Đình Dũng tâm sự.

Thứ Sáu, 17 tháng 10, 2025

CHUYỆN TÌNH CỦA NGƯỜI SÁNG TẠO RA CHIẾC ÁO DÀI VIỆT NAM


Người vẽ áo dài đi tìm người mẫu đầu tiên

Gia Quan

Họa sĩ Nguyễn Cát Tường (1912-1946) chính là cha đẻ của chiếc áo dài Việt Nam. Từ kiểu áo Lemur của Nguyễn Cát Tường, chiếc áo dài tiếp tục được cải tiến và dần dần trở thành trang phục truyền thống tôn vinh vẻ đẹp phụ nữ nước ta. 
 
Thế nhưng, ít ai biết rằng, một trong những người đầu tiên góp công phô diễn chiếc áo dài của họa sĩ Nguyễn Cát Tường, chính là vợ ông - bà Nguyễn Thị Nội!

Họa sĩ Nguyễn Cát Tường (ảnh bên) sinh ra và lớn lên ở Sơn Tây - Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, họa sĩ Nguyễn Cát Tường cộng tác với báo Phong Hóa do nhà văn Nhất Linh làm chủ biên. Bằng con mắt liên tài, nhà văn Nhất Linh nhận ra chàng họa sĩ trẻ ấy ngoài vẽ tranh minh họa còn có khả năng đưa ra những ý kiến bỏ ích để tư vấn làm đẹp cho phái nữ.
 
Vì vậy, trên báo Phong Hóa số 85 ra ngày 11/2/1934, nhà văn Nhất Linh mở chuyên mục “Vẻ đẹp riêng tặng các bà, các cô” và giao cho họa sĩ Nguyễn Cát Tường phụ trách. Sau 4 số báo nhẩn nha phân tích về trang phục phụ nữ Việt, họa sĩ Nguyễn Cát Tường nhấn mạnh: “Quần áo tuy dùng để che thân thể, nhưng nó có thể như tấm gương phản chiếu trình độ trí thức của một nước. Bộ quần áo rồi sẽ phải như thế nào? Trước hết, nó phải hợp với khí hậu xứ ta, với thời tiết các mùa, với công việc, với khuôn khổ, với mực thước của thân hình mỗi bạn.
 
Sau nữa, nó phải gọn gàng, giản dị, mạnh mẽ và có vẻ thẩm mỹ lịch sự. Nhưng dù thế nào, nó cũng phải có cái tính cách riêng của nước nhà mới được. Các bạn là phụ nữ Việt Nam, vậy áo của các bạn phải có một vẻ riêng để người khác khỏi nhầm các bạn với phụ nữ nước ngoài, như nước Tàu, nước Pháp, nước Nhật Bản chẳng hạn”.
 
Với quan niệm ấy, trên báo Phong Hóa số 90 ra ngày 23/3/1934, họa sĩ Nguyễn Cát Tường đã công bố bản vẽ chiếc áo dài đầu tiên, đặt tên là áo dài Lemur. Nhà văn Thạch Lam đã lên tiếng ủng hộ áo dài Lemur rất nồng nhiệt: “Sự cải cách y phục của phụ nữ ta có thể bởi cái nguyên nhân sau: cái dáng điệu tự nhiên của thân thể người ta mà các họa sĩ biết thưởng thức.
 
Biết sự mềm mại tha thướt của dáng điệu, rồi làm thế nào cho cái ống quần, cái tà áo theo cái mềm mại tha thướt đó, để làm tăng vẻ đẹp của thân hình cô thiếu nữ trẻ trung”. 
 
Để chiếc áo dài Lemur bước từ trang báo ra cuộc đời, họa sĩ Nguyễn Cát Tường đã hợp tác với hiệu may Cử Chung ở số 100 phố Hàng Bông - Hà Nội và hiệu may Phạm Tá ở số 23 phố Bờ Hồ - Hà Nội. Đích thân họa sĩ Nguyễn Cát Tường đã đi tìm những phụ liệu nhằm làm tăng thêm sức hấp dẫn cho chiếc áo dài. 
 
Và một lần ra ga Hàng Cỏ để gặp một ông chủ xưởng dệt ren ở Bắc Ninh lên, họa sĩ Nguyễn Cát Tường đã nhận được món quà nhân duyên lớn nhất đời mình! 

Thứ Năm, 18 tháng 9, 2025

MỘT CUỐN SÁCH HAY VỪA XUẤT BẢN VỀ THƠ HOÀNG ĐẾ THIỆU TRỊ


MỘT CUỐN SÁCH HAY VỪA XUẤT BẢN 
VỀ THƠ HOÀNG ĐẾ THIỆU TRỊ, TRIỀU NGUYỄN 
 
Sáng Chủ nhật 14.9.2025, tại Nhà Thái học, Văn Miếu – Quốc Tử Giám Hà Nội, Hội đồng hương TP Huế, CLB Văn hóa Huế tại Hà Nội, phối hợp với TT Hoat động Văn hóa khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám và ThaiHabooks tổ chức buổi giao lưu,giới thiệu sách: THƠ HOÀNG ĐẾ THIỆU TRỊ, ĐỈNH CAO NGHỆ THUẬT NGÔN TỪ của tác giả Nguyễn Phước Hải Trung.
 
Đông đảo các nhà văn, nhà biên khảo, dịch thuật, nghiên cứu, nhà báo và thành viên CLB Văn hóa Huế đã có mặt với sự hiện diện của Nhà thơ Trần Nguyên Vấn – Chủ tịch CLB Văn hóa Huế, PGS. TS Trương Đăng Dung, Nhà văn Trần Thanh Cảnh, TS. Nguyễn Xuân Diện, TS. Nguyễn Anh Minh – Giám đốc Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, TS. Lê Xuân Kiêu, Giám đốc Trung tâm VM-QTG, ông Đỗ Kim Cơ – Giám đốc Công ty TNHH Sách và Truyền thông Việt Nam, KTS Hoàng Việt Trung – Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích Cố Đô Huế, v.v.

Thứ Ba, 16 tháng 9, 2025

TƯỞNG NHỚ NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU - 62 NĂM NGÀY MẤT CỦA BÀ

Nhân kỷ niệm 62 năm, ngày mất của Nam Phương Hoàng Hậu (16.9.1963-16.9.2025)

Hôm nay, ngày 16 tháng 9 năm 2025, 62 năm trước, Hoàng hậu Nam Phương đã qua đời ở tuổi 50 vào ngày 16 tháng 9 năm 1963 tại gia trang La Perch-Pháp. Hoàng hậu được an táng tại nghĩa trang Chargbrignac, cách Tòa thị chính 200m.


Xin giới thiệu lại bài viết:

PHẨM CÁCH VÀ ĐỨC HẠNH HOÀNG HẬU NAM PHƯƠNG 
QUA TƯ LIỆU LẦN ĐẦU CÔNG BỐ


Nguyễn Xuân Diện

Ông Phạm Hy Tùng là một nhà sưu tập cổ ngoạn ở thành phố Hồ Chí Minh. Ông là tác giả của các cuốn sách “Cổ vật gốm sứ Việt Nam đặt làm tại Trung Hoa” (2006), “Bộ sưu tập cổ vật Trung Hoa” (2020), “Cổ vật gốm sứ có trang kim” (2021)… Cuốn sách mới nhất của ông là "Hoàng hậu Nam Phương (qua một số tư liệu chưa công bố)" do Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh vừa ấn hành. Sách dày 280 trang và phần phụ lục ảnh. 
 
Đây là lần đầu tiên có một cuốn sách công bố nhiều tư liệu về Hoàng hậu Nam Phương, bao gồm các bức ảnh quý hiếm và 87 bức thư, trong đó có 73 bức thư viết tay, thủ bút của Hoàng hậu Nam Phương – hoàng hậu cuối cùng của triều Nguyễn cũng là cuối cùng của chế độ quân chủ Việt Nam.

Ngoài thư của Hoàng hậu Nam Phương, có 6 bức của bà Charles – mẹ nuôi của cựu hoàng, cũng viết tay bằng tiếng Pháp gửi cho ông khi còn ở Hongkong (1946-1948) hay gửi về Đà Lạt (1949-1954), 3 bức của bà Agnès – chị ruột của Hoàng hậu Nam Phương, 1 bức của bà Từ Cung viết bằng tiếng Việt.

Cuốn sách của Phạm Hy Tùng có kết cấu thật đơn giản. Ngoài “Lời thưa” ở đầu sách, cuốn sách gồm ba phần: Phần Mở đầu cung cấp thông tin dưới dạng niên biểu về Nam Phương Hoàng hậu và cựu hoàng Bảo Đại, cùng bối cảnh lịch sử Việt Nam từ tháng 9 năm 1945 đến năm 1954 – là giai đoạn những bức thư của Nam Phương và những người khác gửi đến cựu hoàng Bảo Đại được nói đến trong tập sách.

Phần Hai là Những bản dịch các bức thư, trong đó có 73 bức thư được Nam Phương Hoàng hậu viết và gửi tới cựu hoàng Bảo Đại trong bối cảnh xã hội chính trị đó.

Và Phần Ba là Một số hình ảnh những bức thư của Hoàng hậu Nam Phương gửi cựu hoàng Bảo Đại gồm 31 trang ảnh. Có một điểm đáng chú ý là, ngay lúc Hoàng hậu còn tại thế, đã có phát hành tem hình Nam Phương Hoàng hậu, nhưng trong các thư gửi đi, bà không dùng tem mang hình vẽ mình.

Thứ Hai, 21 tháng 4, 2025

BÌNH LUẬN VỀ TUYÊN BỐ CHUNG VIỆT - TRUNG 2025


Tuyên bố chung Việt – Trung 2025: 
Cái bắt tay ý thức hệ và vòng kim cô chiến lược
 
TS Đinh Hoàng Thắng
 
Chuyến thăm Việt Nam lần thứ tư của ông Tập Cận Bình và bản Tuyên bố chung ngày 15/4/2025 không chỉ là sự kiện ngoại giao thường niên mà là bước đi chủ động của Bắc Kinh nhằm định hình lại “trật tự gần biên” trong bối cảnh Việt Nam đang dần nghiêng về phương Tây. Ẩn sau ngôn ngữ hữu hảo và hợp tác toàn diện là một thông điệp chiến lược: Trung Quốc muốn đưa Việt Nam trở lại quỹ đạo ý thức hệ và từng bước bó hẹp không gian cải cách độc lập của Hà Nội.
 
1.⁠ ⁠Củng cố “mỏ neo ý thức hệ” trong một thời khắc nhạy cảm
 
 

Thứ Hai, 14 tháng 4, 2025

HỒ GƯƠM PHÚ - Nguyễn Xuân Diện


HỒ GƯƠM PHÚ 

Thiêng thay! Hồ Gươm!
Đẹp thay! Hồ Gươm!

Tự thuở hồng hoang:
Dòng Nhĩ Hà quặn khúc thành hồ
Đỉnh Nùng Lĩnh mạch xoay nên thế

Tụ khí non sông ngưng đọng thành sương
Hun đúc cổ kim kết tinh nên sử

Vậy nên mới có:
Điếu Ngư Đài chếch nắng chiều, vẽ bóng ai câu
Lầu Khánh Thuỵ quyện sương khuya, tạc hình ai đợi

Gươm Thần sự tích còn truyền
Thơ Thánh cửa huyền còn dấu

Tháp Bút nghiêng nghiêng dầm mực đề thơ
Đài Nghiên chênh chếch chừng đòi thêm nước

Bốn bề cây cỏ rườm rà
Quanh năm móc sương vấn vít

Kìa trường Vũ Thạch rộn rã tiếng sĩ tử bình văn
Nọ xưởng Hàng Khay quệch quạc tay nghệ nhân gõ búa

Chuông chùa Báo Ân triêu mộ ngân nga
Khánh đền Ngọc Sơn sớm chiều rộn rã

Đền Đông Hương nghi ngút khói hương tưởng nhớ vị Nữ thần
Tháp Hoà Phong lừng lững rêu phong nhắc chuyện ông Tổng trấn.

Thứ Năm, 10 tháng 4, 2025

HỘI NHẬP: HÀNH TRÌNH TÁI TẠO NỘI LỰC DÂN TỘC ĐỂ VƯƠN XA


HỘI NHẬP: HÀNH TRÌNH TÁI TẠO NỘI LỰC DÂN TỘC
ĐỂ VƯƠN RA THẾ GIỚI


TS Đinh Hoàng Thắng

Cú sốc áp thuế 46% mang tính địa chấn biết đâu mở ra cơ hội để định nghĩa lại vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế? Tuy nhiên, nó cũng đặt ra vấn đề nan giải: Làm thế nào để kiến tạo một nội lực dân tộc thực sự bền vững?

I. Tín hiệu chuyển biến trong tư duy hội nhập

Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm đăng trên các phương tiện truyền thông trên cả nước ngày 3/4/2025 (1) đã đánh dấu một bước ngoặt tư duy chính trị của Việt Nam khi đưa ra ba đột phá quan trọng:

GIỚI THIỆU TOÀN VĂN BÀI VIẾT CỦA ÔNG TRẦN HUỲNH DUY THỨC


GIỚI THIỆU TOÀN VĂN BÀI VIẾT
CỦA ÔNG TRẦN HUỲNH DUY THỨC
 
Lời dẫn của Nguyễn Công Chính: Trong lịch sử dân tộc Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác có những người thực sự tài năng, thuộc tầng lớp tinh hoa của dân tộc, có nhiều người bị lũ nịnh thần, những tên vua, chúa hôn quân đầy ải giam cầm..sau đó được các minh quân phục chức, họ lại tiếp tục cống hiến cho đất nước. Nguyễn công Trứ là một điển hình. Đường quan lộ của ông không chỉ thăng, giáng một lần.
 
Trong giai đoạn lịch sử hiện nay Trần Huỳnh Duy Thức là một nhân tài đất nước. Mong rằng tbt Tô Lâm đọc được bài viết dưới đây của THDT. Để chiêu mộ nhân tài giúp nước. Nếu ông thực sự mong muốn đất nước vươn mình. Lịch sử khắc ghi tên ông.
 
*****

Thứ Sáu, 28 tháng 3, 2025

Nhà văn HOÀNG QUỐC HẢI LÊN TIẾNG VỀ DỰ ÁN QUANH HỒ GƯƠM


Nhà văn Hoàng Quốc Hải lên tiếng:
 
HÃY DỪNG NGAY DỰ ÁN CHỈNH TRANG HỒ HOÀN KIẾM VÀ CÔNG VIÊN LÝ THÁI TỔ!!!
 
Quận Hoàn Kiếm đã công bố chỉnh trang bờ hồ Hoàn Kiếm và công viên Lý Thái tổ. Trong đó có 11 trụ sở cơ quan Nhà nước và 42 ngôi nhà dân phải di dời.
 
Vườn hoa Lý Thái tổ sẽ bứng đi 25 cây xanh (không phải chặt như nhiều người lo lắng). Và phía sau Nhà kèn sẽ lắp dàn nhạc nước. Đương nhiên còn nhiều hạng mục khác nữa.
 
Về phía Đông bờ hồ Hoàn Kiếm, tòa nhà mà dân thường gọi “Hàm cá mập” phá dỡ. Tại đó sẽ xây Tháp ánh sáng. Nghe nói đó là tòa siêu thị. Riêng phần hầm đã có tới 4 tầng.
 
HỒ HOÀN KIẾM được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT theo Quyết định số 2383/QĐ TTg ngày 09/12/2013.
 
Tất cả các hạng mục được bảo vệ từ bờ hồ, trong lòng hồ đều có ghi đầy đủ trong hồ sơ được công nhận.
 
Vậy cơ quan chủ quản của di tích này là Sở Văn hóa TT Hà Nội chứ không phải UBND quận Hoàn Kiếm. Vì Di tích nằm trên địa bàn quận, về mặt hành chính, địa phương có trách nhiệm giám sát an ninh, ngăn cấm việc xâm hại Di tích quốc gia đặc biệt. 

Thứ Tư, 26 tháng 3, 2025

VẺ ĐẸP GIẢN DỊ CỦA PHO TƯỢNG THÁNH MẪU LIỄU HẠNH Ở PHỦ NẤP

 
Tháng Tám giỗ Cha, Tháng Ba giỗ Mẹ
NHÂN NGÀY GIỖ THÁNH MẪU LIỄU HẠNH (3/3):
 
CHIÊM BÁI BỨC TƯỢNG ĐỒNG ĐỘC ĐÁO

VỀ VẺ ĐẸP GIẢN DỊ CỦA THÁNH MẪU

Bài: Trang Thanh Hien

Đây là bức tượng đồng Thánh Mẫu Liễu Hạnh được thờ tại Phủ Nấp - Phủ Quảng Cung (thôn Vỉ Nhuế, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định) và là một trong những tác phẩm độc đáo nhất trong hệ thống các điêu khắc thờ Mẫu ở Việt Nam.

Khu đền phủ cổ xưa đã từng bị bị san phẳng để xây dựng ao cá, những hiện vật, đồ thờ cũng đã bị thất tán gần hết. Pho tượng Thánh Mẫu Liễu Hạnh bằng đồng kể trên còn may mắn được đưa vào Ủy ban nhân dân xã Yên Đồng cất giữ.