Trần Đức Thảo và đêm hát cô đầu chui ở ATK
Thứ Sáu, 5 tháng 12, 2025
TRẦN ĐỨC THẢO VÀ ĐÊM Ả ĐÀO CHUI Ở ATK NĂM ẤY
Trần Đức Thảo và đêm hát cô đầu chui ở ATK
Thứ Ba, 2 tháng 12, 2025
CÁC CỤ XƯA PHA TRÀ NHƯ THẾ NÀO?
Thứ Hai, 1 tháng 12, 2025
THAI GIÁO - DẠY CON TỪ TRONG BỤNG MẸ
Thai giáo 💦 Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh, giải thích mục từ Thai giáo như sau: "Thai giáo: Sự giáo dục cho con cái từ khi có mang = Khi có mang, phàm tư tưởng, ngôn ngữ, hành động của người mẹ đều có ảnh hưởng đến tính cách đứa con, nên người mẹ phải giữ gìn cẩn thận".
Từ lâu nay, tôi cũng đã nghe về việc thai giáo. Được nghe rằng, trong dòng tộc chúa Trịnh có hẳn một cuốn sách cổ, có tên là Thai giáo để truyền dạy trong gia tộc. Tuy nhiên, đến nay, chưa ai từng nhìn thấy cuốn sách cổ này. Các vị dòng Chúa Trịnh khắp nơi nếu ai đang giữ hoặc biết cuốn này ở đâu, xin cho chúng tôi biết với.
Thứ Sáu, 28 tháng 11, 2025
ĐÚT LÓT MỘT THANH KIẾM VÀNG ĐỂ LẤY MỘT CHỮ KÝ PHẾ TRUẤT
ĐÚT LÓT MỘT THANH KIẾM VÀNG ĐỂ LẤY MỘT CHỮ KÝ PHẾ TRUẤT
Nguyễn Bá Lân (1700 – 1785) là Tiến sĩ, Thượng thư trải 6 bộ, và là một quan chức cao cấp thời Lê Trịnh. Ông là một danh sĩ, một nhà thơ, nổi tiếng với bài phú Nôm “Ngã Ba Hạc phú”, và những giai thoại được truyền tụng khắp trong triều ngoài nội.
Năm 1782 khi Trịnh Sâm chết, thì Nguyễn Bá Lân vẫn đang còn làm quan ở phủ chúa, và đã được chứng kiến cuộc tranh cướp ngôi giữa một bên là Trịnh Cán con của Đặng Thị Huệ và một bên là Trịnh Tông, cuộc tranh cướp này là nguyên nhân làm bùng ra cuộc nổi loạn của kiêu binh, làm cho cơ đồ của họ Trịnh bị sụp đổ.
Thứ Hai, 24 tháng 11, 2025
CHUYỆN HAI BÀ HOÀNG CÙNG TÊN, CÙNG LÀ VỢ VUA LÊ THẦN TÔNG
Nhà văn Trần Thanh Cảnh
BĐS Việt Nam
Là chuyện đời của hai người đàn bà cùng họ tên, cùng chồng. Một người quê vùng Kinh Bắc. Một người sinh sống ở kinh thành, về ở, rồi chết cũng chôn nơi đây. Họ đều có tên là Trịnh Thị Ngọc Trúc. Trong Đại Việt Sử Ký toàn thư còn ghi đầy đủ. Chồng họ là ông vua Lê Thần Tông đời Lê Trung Hưng. Ông vua này trị vì nước ta từ những năm 1619 - 1662. Giữa họ chỉ có điều khác nhau là một bà được phong hoàng hậu, còn một bà thì không.
Chủ Nhật, 23 tháng 11, 2025
GIẢI MÃ BỨC CHẠM ĐÁ Ở CHÙA BÚT THÁP - ĐỌC Ý NGƯỜI XƯA
Lời dẫn: Ngày cuối tuần vừa rồi, đi cùng nhóm Chùa Việt (hơn 4.000 thành viên) đi thăm Chùa Bút Tháp, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh, được thêm một lần nữa chiêm ngưỡng kiến trúc, điêu khắc (gỗ, đá), tượng Phật Bà Quan Âm Thiên thủ Thiên nhãn, lòng càng thêm xúc động vô bờ bến.
Xin cùng quý vị ngắm nghía mấy bức chạm đá ở lan can tòa Thượng điện Chùa Bút Tháp, để cùng thưởng thức những điều ý vị của cha ông ta:
Thứ Hai, 17 tháng 11, 2025
CHUÔNG BÍCH UNG - MỘT BÁU VẬT CỦA VĂN MIẾU QUỐC TỬ GIÁM HÀ NỘI
NƯỚC CÓ THIÊN TAI, VUA CHÚA XƯA THƯỜNG LÀM GÌ?
NƯỚC CÓ THIÊN TAI,
VUA CHÚA XƯA THƯỜNG LÀM GÌ?
Thứ Tư, 5 tháng 11, 2025
Hoàng Quốc Hải: CHỌN NGƯỜI COI QUẢN THĂNG LONG
CHỌN NGƯỜI COI QUẢN THĂNG LONG
Nhà văn Hoàng Quốc Hải
Thủ đô của một nước thường được coi là đô thị quan trọng bậc nhất. Bởi nó không chỉ có nhà vua và triều đình ngự ở đó. Mà nó hội tụ dường như tất cả tinh hoa của dân tộc được kết tinh từ cổ đại đến đương đại. Hơn hết nó là bộ mặt của cả một quốc gia chứ không của riêng địa bàn Thăng Long.
Từ khi có Thăng Long (1010) thì bản thân nó đã được truyền thừa văn hóa của tổ tiên người Việt, ít ra từ thời Hồng Bàng, khoảng 4000 năm trước. Và cứ thế, trải qua năm tháng, bề dầy lịch sử càng cao, thì trầm tích văn hóa tích tụ càng sâu, và mỗi thời lại bồi đắp thêm. Chẳng thế mà từ năm 2005 đến 2008, khai quật trong lòng đất khu vực hoàng thành đã phát lộ ra, và xác định được tới 5, 6 tầng văn hóa. Đó là văn hóa Đại La, văn hóa Đinh - Lê, văn hóa Lý - Trần, văn hóa hậu Lê (gồm Lê - Trịnh - Mạc), văn hóa Nguyễn. Đó là chưa kể xen kẽ có cả văn hóa thực dân như Hán - Đường.
Thứ Ba, 4 tháng 11, 2025
MỘT NỮ CA SĨ CỨU CẢ KINH THÀNH THĂNG LONG THOÁT KHỎI BỆNH DỊCH

Chuyện cũ Thăng Long - Hà Nội:
MỘT NỮ CA SĨ CỨU CẢ KINH THÀNH THĂNG LONG THOÁT KHỎI BỆNH DỊCH
Thứ Hai, 3 tháng 11, 2025
KINH KHỦNG! VỤ ÁN CẢ LÀNG LẬP HƯƠNG ƯỚC ĐỂ GIẾT NGƯỜI CƯỚP CỦA
Chủ Nhật, 2 tháng 11, 2025
TỤC ĐÁNH CÁ THỜ Ở XỨ ĐOÀI QUA MỘT LỆNH CHỈ CỦA TĨNH ĐÔ VƯƠNG TRỊNH SÂM

TỤC ĐÁNH CÁ THỜ Ở XỨ ĐOÀI QUA MỘT LỆNH CHỈ CỦA TĨNH ĐÔ VƯƠNG TRỊNH SÂM
TỔNG THỐNG VNCH NGÔ ĐÌNH DIỆM VỚI VIỆC KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ HOÀNG SA
.jpg)
Tác giả: Võ Hà
Nơi đăng tải: Văn hóa Nghệ An
Sau khi lên “nhiếp chính” tại miền Nam năm 1955, Tổng thống Ngô Đình Diệm cho nhiều đoàn ra điều tra, khảo sát có tính chất toàn diện tại quần đảo Hoàng Sa... Kết quả khảo sát đều phải báo cáo đầy đủ, trực tiếp cho Tổng thống để có cơ sở cho việc chỉ đạo khai thác và tăng cường thực thi chủ quyền tại quần đảo này. Một trong những hoạt động rõ nét là trên lĩnh vực kinh tế.
Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2025
CÓ MỘT TƯỢNG ĐÀI NGƯỜI PHỤ NỮ HÀ NỘI TRÊN ĐỈNH ĐÈO NGANG

Nguyễn Xuân Diện
Văn chương cổ Việt Nam không có nhiều nữ thi sĩ. Nhưng đặc biệt nhất là có tới hai nữ thi sĩ tên Hương. Một Hồ Xuân Hương ngang tàng, phóng túng. Một Nguyễn Thị Hinh (Hương) đài các, phong lưu.
Hai nữ thi sĩ tên Hương ấy đã đi vào lịch sử văn chương Việt Nam với hai phong cách khác nhau. Và sức lan tỏa của những câu thơ của hai bà đã làm lay động bao thế hệ người đọc Việt Nam. Thơ Hồ Xuân Hương là thơ của một người phụ nữ ngang tàng, nhìn sự vật trong sự biến động và biến chuyển với góc nhìn đầy cá tính. Mỗi sự vật hiện lên trong thơ bà là đều ẩn chứa trong đó khát vọng mạnh mẽ về nữ quyền và về những khát vọng của tình yêu và cả tình dục nữa.
Chân dung Hồ Xuân Hương được vẽ với “yếm đào trễ xuống dưới nương long”, với khuôn mặt tươi tắn, đầy khát vọng và cả chút nhục cảm nữa! Còn Bà Huyện Thanh Quan, một nữ sĩ tên “Hương” khác thì hoàn toàn khác. Bà mang khuôn mặt đầy đặn với nét môi cắn chỉ đoan trang, kiêu sa và kiểu cách của một phụ nữ đài các.
Hiện chưa biết về năm sinh và năm mất của Bà huyện Thanh Quan. Ta chỉ biết bà sinh ra ở làng hoa Nghi Tàm bên bờ Hồ Tây. Rằng bà là người hay thơ, giỏi Nôm. Chồng bà là Lưu Nguyên Ôn, người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông, đỗ Cử nhân năm 1828, từng làm Tri huyện Thanh Quan sau can án bị giáng chức làm việc ở bộ Hình trong kinh đô Huế. Ông huyện Thanh Quan chẳng may mất sớm, khi mới 43 tuổi, bà vẫn ở vậy nuôi con.
Nhắc đến bà huyện Thanh Quan không ai là không nhớ đến chuyện xảy ra lúc chồng bà là Tri huyện Thanh Quan, nhân khi chồng đi vắng, bà nhận được đơn của một thiếu phụ trong huyện xin được đi lấy chồng, thương hoàn cảnh của chị ta, bà đã phê vào tờ đơn bằng mấy câu thơ:
Phó cho con Nguyễn Thị Đào
Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai
Chữ rằng “xuân bất tái lai”
Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già!
Câu chuyện bà huyện thay chồng phê đơn là một giai thoại văn học rất đẹp. Nó gợi cho ta hình ảnh một bà huyện tự tin và hóm hỉnh. Bà huyện cũng là một phụ nữ nên bà biết thương cái xuân thì của người thiếu phụ. Không biết cô Nguyễn Thị Đào đi lấy chồng, sinh con đẻ cái có đem nhau về chơi với Bà Huyện hay không? Nhưng câu chuyện cũng gợi cho đời sau tưởng tượng ra cảnh nhà bà huyện đầm ấm vui vẻ, vợ chồng cùng thưởng trà dưới nguyệt hay ngâm vịnh xem hoa vô cùng tao nhã và tâm đắc.
Đời vua Minh Mạng, bà được vời vào cung trao cho chức Cung trung giáo tập, dạy dỗ cho các cung phi và công chúa. Điều này xác nhận với chúng ta rằng bà Huyện Thanh Quan là một phụ nữ có đầy đủ “công, dung, ngôn, hạnh” theo đúng chuẩn mực xưa, nên đã được triều đình biết tiếng, được một vị vua sáng là Minh Mạng vời vào cung và giao cho trọng trách này!
Con đường thiên lý Bắc Nam ấy đã từng lưu dấu chân của nữ sĩ tài hoa mà cả trăm năm nay, khách bộ hành, xe kiệu đi qua Đèo Ngang còn thấy dáng hình người phụ nữ lồng lộng và đơn côi trên đỉnh đèo trong một hoàng hôn lữ thứ.
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông rợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời – non – nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Bài thơ thật buồn. Hình ảnh Đèo Ngang được vẽ bằng mấy nét tiêu sơ, gợi nên cả cái hoang mang của lữ khách. Xa xôi trong đó là một tâm sự về nước non nhà với niềm đau, niềm nhớ niềm thương! Bà huyện đã dừng lại giữa đỉnh đèo giữa trời mây non nước bao la, và nỗi cô đơn xâm chiếm tâm hồn bậc tài nữ trong mấy chữ “ta với ta”. Bà đã đứng khựng lại giữa đỉnh đèo mấy trăm năm nay, bóng hình in vào nền trời Đèo Ngang lộng gió, gửi đến hậu thế muôn sau tâm sự của bà.
Có lẽ mối duyên với ông huyện Thanh Quan để lại trong bà huyện những dư vị ngọt lành của tình phu phụ, “tương kính như tân” nên thơ của bà huyện là thứ thơ cao sang, đài các và đẹp một vẻ đẹp điển nhã của thi ca cổ.

Bảy bài thơ của Bà Huyện là bảy bài thơ Nôm, đều là thơ thất ngôn bát cú mỗi bài tám câu, mỗi câu 7 chữ. Nghiêm ngắn, trang trọng. Mỗi bài là một bức tranh thủy mặc được vẽ lên như những bức tứ bình đẹp. Mỗi bức tranh ấy gói ghém tâm trạng của bà. Buồn mà không bi lụy. Có cả những tâm sự hoài cổ của một phụ nữ trước cảnh dâu bể với những hành cung miếu điện của những triều vua đã đi qua. Và hơn hết là cái nhìn đầy thương mến với những cảnh vật tiêu sơ, nơi đèo heo hút gió, những ngư ông và bác tiều phu, những mục đồng lùa trâu về những thôn xa vắng.
Bà Huyện Thanh Quan tên là Hinh, với nghĩa là mùi hương ngào ngạt. Bà không mang tên chồng mà chỉ mang tên chức vụ của chồng. Chức vụ ấy trong đời làm quan của chồng bà cũng rất ngắn ngủi. Bà cũng chỉ để lại cho đời ngót chục bài thơ Đường luật Nôm vuông chằn chặn. Vậy mà vẻ cao sang đài các, kiêu sa từ từng con chữ trong những bài thơ đều mỗi bài 56 chữ ấy đã lan tỏa khắp thi đàn nước Việt trải đã mấy trăm năm.
Tình nước non non nước của người phụ nữ ấy như đã hòa cùng con cuốc cuốc, cái gia gia trong thơ bà cứ da diết, da diết vọng đến hôm nay và muôn sau.
Có thi sĩ đã từng viết về một loài hoa có những “bông hoa nhỏ giấu mình trong cỏ; thơm hết mình mà chẳng thấy hoa đâu”. Phải chăng bông hoa ấy là bà Huyện Thanh Quan hương thơm ngát thi đàn nước Việt mà lai lịch hành trạng thì còn đang đánh đố hậu thế.
Ai có dịp qua Đèo Ngang, hãy ngước nhìn đỉnh đèo non nước trời mây bao la, trên đó là một tượng đài bà Huyện Thanh Quan lồng lộng ở mãi với thời gian…
N.X.D
Ảnh: Trịnh Thanh Nhã - Thanh Sơn.
Thứ Tư, 29 tháng 10, 2025
NÉT VÀNG SON TRÊN NỀN GIẤY GẤM

Nguyễn Xuân Diện
Một cảm xúc về sự hiển linh của thần, sự uy nghiêm của quyền lực và cả sự choáng ngợp, khâm phục trước vẻ đẹp của tờ giấy sắc (giấy dùng viết sắc chỉ, sắc phong) qua kỹ thuật làm giấy của người xưa. Ít ai biết được, nghề làm giấy gấm viết sắc phong là độc quyền của một dòng họ cư trú ở Hà Nôi, trải đã mấy trăm năm.
Sắc phong gồm có hai loại: phong cấp, khen ngợi, tưởng thưởng cho những người có công (giống như một giấy khen, một giấy bổ nhiệm chức vụ) và loại sắc phong phẩm trật cho thần linh (theo thường niên , hoặc một dịp lễ lạt nào đó). Loại thứ nhất là tài sản chung của dòng họ được cất giữ trong các nhà thờ họ của các gia tộc có các vị tiên liệt có công với vua, với nước. Loại thứ hai là tài sản của cộng đồng làng xã, được cất giữ tại đình làng hoặc đền thờ miếu. Hiện nay bản sắc phong được cho là cổ nhất của Việt Nam đang được đặt trong một ngôi đình cổ thuộc thị trấn Diêm Điền, huyện Thái Thụy (Thái Bình). Hai đạo sắc này có niên đại Hồng Đức 23 (1492 ) và Hồng Đức 28 (1497) đời Lê Thánh Tông, thế kỷ XV, cách nay đã hơn 500 năm, tức là nửa thiên niên kỷ.
Việc được nhận sắc phong thần ngày xưa là một việc rất hệ trọng của làng xã, và việc đón rước sắc phong là một nghi lễ đặc biệt. Sách cổ “Đại Phùng tổng khoán ước” thời Lê, thế kỷ XVIII (Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm) còn ghi: “Nghi thức ban sắc phong : Sắc đưa về đến đình, chép thêm ra một bản, giống như bản chính (đều dùng giấy vàng mực đen, lấy người có chữ đẹp trong thôn viết đằng tả), rồi lập một hương án, đặt lên, vái 5 vái (thay thần tạ ơn vua). Sau đó hóa bản sao đi, còn bản chính thì rước vào trong đình”
Theo gia phả và lời truyền trong dòng họ Lại thì cụ tổ của họ này là Lại Thế Giáp – con rể của Thanh Đô Vương Trịnh Tráng. Con gái của Trịnh Tráng là Cung phi Diệm Châu, hiệu Từ An, khi đó thấy họ nhà chồng còn nghèo, mới tâu xin nhà chúa và vua Lê cho họ Lại được đời đời làm giấy sắc dâng vào triều đình. Họ Lại còn có cụ Lại Phú Vinh được phong đến tước Đô Thịnh hầu, giữ chức Phụ Quốc tướng quân, Đô Chỉ huy sứ ty, Ngự dụng giám Kim Tiên cục trông coi và quản lý nghề làm giấy sắc cho triều đình. Dân gian có câu:
Tiếng đồn con gái Nghĩa Đô,
Quanh năm làm giấy cho vua được nhờ.
Lại còn có câu:
Họ Lại làm giấy sắc vua
Làng Láng ké cờ mở hội hùng ghê!
Họ Lại làng Nghĩa Đô khởi nghiệp làm giấy sắc từ thời Lê – Trịnh, và phát triển suốt mấy trăm năm.
Giấy sắc là loại giấy quí. Quý trước hết là ở nguyên liệu để vẽ lên bề mặt giấy là vàng, bạc và kim nhũ. Nhờ nguyên liệu này mà giấy sắc có hình thức và màu sắc đã đẹp lại bền, còn mãi đến hôm nay.
Làm giấy sắc đòi hỏi rất công phu. Theo các cụ ở họ Lại cho biết, làm một tờ giấy sắc cho hàng Nhất phẩm thì phải có 5 người thợ cùng làm một lúc mới có thể xeo nổi một tờ giấy. Giấy để phong cho hàng phẩm cấp thấp hơn (tức là từ Nhị phẩm xuống tới Cửu phẩm), khổ giấy hẹp hơn, cũng phải 3 người thợ làm một tờ. Đấy là nói về xeo giấy. Phần vẽ giấy sắc mới là khâu tinh xảo nhất, đòi hỏi tay nghề cao. Vẽ gồm hai công đoạn: Vẽ chạy và Vẽ đồ. Vẽ chạy là vẽ ra hình rồng mây, hình triện, hoa văn: việc này do những thợ giỏi thực hiện. Vẽ đồ là theo nét vẽ chạy mà mà tô kim nhũ, vàng bạc. Bí quyết của việc làm một tờ giấy sắc theo đúng yêu cầu là ở kỹ thuật đánh vàng, đánh bạc cho tờ giấy. Dụng cụ để làm công đoạn này là cái chày và những cái bát lớn. Để giữ bí quyết, các công việc này được tiến hành ở nơi kín đáo nhất trong nhà, tránh người ngoài học lỏm. Nhà cụ Tám Hoàn ở Nghĩa Đô có bàn thờ lớn, gần bàn thờ là một khoảng rộng, và đó chính là nơi cụ làm công việc đánh vàng, đánh bạc hết sức bí mật này. Cụ đã mất từ lâu, và cũng không truyền nghề cho ai, kể cả con cháu. Cụ chỉ để lại kỷ vật duy nhất là một phiến đá xanh, mặt phẳng lì, rộng 60 x 80 cm.
Giấy phong cho bách quan có 3 hạng. Hạng Nhất, xung quanh khung có vẻ 8 con rồng nhỏ. Mặt trước vẽ một con rồng lớn, ẩn trong mây, gọi là Long ám, mặt sau vẽ hình Tứ linh (Long – Ly – Quy – Phượng). Hạng Nhì, xung quanh khung vẽ mây hoặc họa tiết hồi văn. Mặt trước vẽ một con rồng, mặt sau vẽ Nhị Linh (hai con vật trong Tứ linh). Hạng Ba, xung quanh in triện gấm. Mặt trước vẽ một con rồng: ở giữa và bốn góc in hình Ngũ tinh (Năm ngôi sao). Mặt sau vẽ bầu rượu túi thơ.
Giấy phong cho bách thần cũng có 3 hạng:
Thượng đẳng thần: xung quanh in triện hoa chanh. Phía trước vẽ một con rồng, ở giữa in hình Ngũ tinh, bốn góc in hành Thất tinh. Mặt sau vẽ hình Tứ linh.
Trung đẳng thần: Mặt trước giống như sắc Thượng đẳng thần. Mặt sau vẽ lá và bầu rượu, giữa vẽ hai chữ Thọ liền nhau, gọi là song thọ.
Hạ đẳng thần: Mặt trước giống như hai hạng trên. Mặt sau không vẽ.
Ngày xưa, vì việc phong tặng cho bách quan và bách thần là một điễn lễ long trọng và thường xuyên, nên cần dùng rất nhiều giấy sắc. Dưới thời Nguyễn, trong niên hiệu Khải Định (1916-1926), có năm triều đình đặt hàng làng Nghĩa Đô làm hàng vạn tờ giấy sắc. Giá giấy sắc rất cao. Lúc đó, mỗi tờ giấy là một đồng bạc Đông Dương (tương đương một chỉ vàng). Xem thế đủ biết nghề này tuy khó, nguyên vật liệu tuy quý và đắt tiền, nhưng cũng có lãi cao. Họ Lại vì thế có nhiều gia đình theo nghề, như nhà cụ Xã Vi, cụ Phó Nham, cụ Trương Lại, cụ Trương Xú, cụ Xã Lịch, cụ Phó Nhiên, cụ Bếp Kiệm.
Ngày nay, nghề làm giấy sắc chỉ còn một người nắm được bí quyết là cụ Lại Phú Bàn, thuộc dòng dõi của cụ Lại Thế Giáp thời Lê Trịnh, nay đã 80 tuổi, hiện sống tại quận Cầu Giấy (Hà Nội). Các con cháu của cụ đều không có ai có ý theo nghiệp xưa, mà chính cụ cũng không làm giấy sắc nữa. Hiện nay cũng chưa có tổ chức hay cá nhân nào hội đủ các điều kiện để cụ truyền nghề làm giấy sắc.
Những mây rồng vàng son trên nền giấy gấm thuở xưa có thể sẽ mãi mãi dừng lại ở thế kỷ 20. Và nghề xưa có nguy cơ mãi chi còn trong dĩ vàng. Thật đáng tiếc thay!
Bài đã đăng trên Tạp chí Heritage, tháng Tư năm 2003. Tham khảo tài liệu của: Bùi Văn Vượng, Hoàng Hồng Cẩm.
2003
* Khi đăng bài này thì cụ Lại Phú Bàn lại đã quy tiên rồi!

Ảnh: Internet.
NGUYỄN TÂY SƠN VÀ NGUYỄN GIA LONG NGÔI ĐỀN THỐNG NHẤT
Bài của Trung Hoang
Bài viết này không tìm cách ca tụng hay kết tội, mà trả mỗi nhân vật lịch sử về đúng phần việc mà thời đại giao phó. Nó nhìn lịch sử Việt Nam cận đại như một tiến trình liên tục: từ nhu cầu mở đất, đến phân liệt quyền lực, rồi đến hai pha kế tiếp của thống nhất quốc gia.
Nguyễn Huệ được đặt vào đúng vị trí lịch sử của ông: người duy nhất trong khoảnh khắc phân rã có thể khôi phục năng lực tự chủ và cứu quốc gia khỏi nguy cơ ngoại thuộc.
Nguyễn Ánh được xét bằng tiêu chuẩn cấu trúc nhà nước: người hoàn tất hình hài quốc gia thống nhất với thể chế, biên giới và bộ máy vận hành bền vững. Bài viết bác bỏ định kiến “bán nước” bằng các tiêu chuẩn lịch sử nghiêm ngặt về động cơ, hành vi và hệ quả chủ quyền. Không đặt hai nhân vật vào thế đối lập, bài viết chỉ ra rằng họ là hai nhịp liên tiếp của cùng một tiến trình dựng nước: giải nguy và kiến lập. Từ đó, ý tưởng về một ngôi đền thống nhất xuất hiện như biểu tượng của nhận thức trưởng thành: thay vì chọn phe, ta học cách nhìn quốc gia trong chiều dài của nó. Đây không phải là hòa giải quá khứ, mà là học cách không lặp lại chia rẽ trong tương lai.
Những thế kỷ Nam tiến không diễn ra trong tiếng trống trận trước hết, mà trong nhịp cày ruộng, lập làng, bám sông mà đi. Trên thực tế, Nam tiến là một sự trưởng thành về tư duy lập quốc. Vấn đề thực sự bắt đầu từ thời Lê, khi năng lực tích lũy vật chất, dân số và tổ chức hành chính bắt đầu chạm vào giới hạn của một không gian đã cạn. Khi chiếc chậu nước đầy, dù không ai muốn, nó cũng sẽ tràn. Nam tiến không phải là tham vọng, mà là hệ luận tự nhiên của một dân tộc lúa nước cần đất mà gieo lúa. Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa không chỉ là một lựa chọn chính trị, mà là sự chuyển dịch của mạch sống cộng đồng. Những làng người Việt không tiến vào phương Nam bằng đạo quân, mà bằng những đường cày, những mái nhà tranh, những nhịp trống đình, những tán tre. Họ bám lấy dòng sông như mạch dẫn. Và dải đất phương Nam dần dần biến thành quê hương mới không phải bằng sức ép, mà bằng sức sống.
Thêm vào đó, kể cả cuộc Nam tiến kia đã giúp lãnh thổ mở rộng dần, nhưng khái niệm quốc gia thống nhất chưa được định hình. Khi họ Nguyễn ở Đàng Trong xây dựng được một trung tâm quyền lực thứ hai song song với Bắc Hà, đất nước bước vào trạng thái hai cực đồng thời tồn tại mà không chia sẻ một trục chính danh chung. Trong hơn hai trăm năm, Đại Việt là một cơ thể có hai nhịp tim, vận hành được nhưng không bền vững.
Cuối thế kỷ XVIII, cả hai nhánh quyền lực ấy suy yếu. Triều Lê – Trịnh ở Thăng Long không còn khả năng tự điều chỉnh, cấu trúc cai trị bị chia cắt vào các nhóm lợi ích, ý thức về một trung tâm chính trị chung đã suy tàn. Ở phía Nam, họ Nguyễn sau nhiều năm nội chiến cũng không còn đủ lực để vừa phòng thủ vừa cải tổ. Quốc gia khi đó không phải chỉ bị tổn thương về lãnh thổ, mà bị tổn thương sâu hơn ở mức độ tinh thần: không còn điểm hội tụ cho trí tưởng tượng về Tổ quốc. Đó là bối cảnh mà sự kiện quân Thanh can thiệp xảy đến — không như một biến cố độc lập, mà như bước cuối cùng của một chuỗi rạn nứt kéo dài. Không có một chủ thể chính trị nào trong hệ thống cũ đủ sức tổ chức phản ứng tương xứng.
Để cẩn trọng hơn ở thời điểm này của bài viết, nhất là để tránh sự tán tụng vô cớ, trước hết cần trở về tình thế cuối thập niên 1780 với đôi mắt lạnh của sử học: trật tự Lê–Trịnh ở Bắc Hà chỉ còn là vỏ nghi lễ, quyền uy đã vỡ vụn vào các mối kết cấu thân hữu và lợi ích cục bộ, hệ chỉ huy quân sự rệu rã, tài chính kiệt quệ, và quan trọng hơn cả là trí tưởng tượng chính trị chung về “Trung tâm Đại Việt” đã suy tàn đến mức không còn khả năng huy động tinh thần phòng thủ, trong khi ở Đàng Trong, họ Nguyễn sau nhiều chu kỳ binh đao cũng hao hụt nội lực, khiến tổng thể quốc gia vận hành như một cơ thể có hai hệ tuần hoàn vừa cạnh tranh vừa cản trở nhau, không nơi nào đủ chính danh và năng lực để nhận trách nhiệm tối hậu khi ngoại bang can dự.
Trong điều kiện ấy, sự kiện quân Thanh tiến vào Thăng Long cuối năm 1788 không chỉ là thêm một biến cố ngoại giao–quân sự, mà là phép thử giới hạn cuối cùng đối với năng lực tự chủ, bởi vì không còn một cơ chế ra quyết định nào ở Bắc Hà đủ tốc độ, đủ kỷ luật, đủ thẩm quyền để gom lại những nguồn lực rời rạc thành một phản ứng chiến lược hữu hiệu. Chính tại điểm khủng hoảng ấy, Nguyễn Huệ bước vào với một dạng quyền lực mà phần còn lại của vũ đài nội trị không thể tái tạo: quyền lực của sự hợp nhất tức thời giữa kỹ năng tổ chức, thẩm quyền chính trị và trực giác chiến lược, cho phép ông rút ngắn một chuỗi thao tác—tập hợp, cơ động, đánh vào điểm quyết định, kết thúc chiến dịch—trong khoảng thời gian quá ngắn đối với một đối thủ hành chính cồng kềnh và một lực lượng xâm lược đang dựa vào ưu thế quân số và cảm giác “vào như đi dạo”.
Ở đây điều quan trọng không nằm ở con số tuyệt đối do các nguồn sử ghi chép, vốn dao động từ hàng chục vạn đến “hai mươi chín vạn”, mà ở chỗ, với một quốc gia bị phân chia, thiếu trung tâm chính danh, thiếu đường lối chỉ huy thống nhất, không một cá nhân hay tập đoàn quyền lực nào ngoài Nguyễn Huệ đủ sức chuyển hóa sự phòng vệ bản năng của cộng đồng thành một hành động quân sự quy mô nhà nước có mục tiêu chính trị rõ ràng, và chính sự chuyển hóa ấy làm nên giá trị lịch sử của ông: ông không sáng tạo “ý chí dân tộc” từ hư vô, ông phục hồi và đưa nó trở lại bình diện hữu hiệu của quyền lực.
Nhưng ở bình diện cấu trúc, cần nói cho hết rằng năng lực giải cứu quốc gia trong tình thế khẩn cấp không đương nhiên chuyển thành năng lực kiến lập nhà nước trong hòa bình; để một thực thể chính trị đứng vững lâu dài, người ta cần thời gian để pháp điển hóa trật tự, cần một bộ máy quan liêu đủ bền để bảo đảm tính liên tục, cần đo đạc và ghi sổ để biến lãnh thổ từ ý niệm thành đối tượng quản trị, cần thiết kế mối quan hệ giữa trung ương và địa phương sao cho mệnh lệnh có đường đi đến tận làng xã, và cần làm tất cả những điều chậm, nặng, khô ấy trong một khoảng lặng hậu chiến mà lịch sử của Tây Sơn không ban cho.
Nguyễn Huệ qua đời năm 1792 khi công việc chuyển hóa “khí thế chiến thắng” thành “cấu trúc vận hành” mới chỉ manh nha, triều chính chưa kịp định hình cơ chế kế vị có khả năng tái sản xuất thẩm quyền chính trị mà cá nhân ông biểu trưng, tài chính chưa kịp phục hồi sau những năm tổng động viên, và vì thế, không phải do khuyết thiếu cá nhân, mà do giới hạn của thời gian và điều kiện, ông không thể là người hoàn tất pha “định quốc an bang” theo nghĩa nghiêm ngặt của một nhà nước có thể duy trì chính mình qua nhiều thế hệ.
Chính tại ranh giới này, sự đối chiếu giữa họ mới có ý nghĩa: Nguyễn Huệ là chủ thể duy nhất của thời đoạn ấy có thể đưa quốc gia ra khỏi bờ vực mất chủ quyền trong bối cảnh phân liệt; Gia Long là chủ thể của thời đoạn kế tiếp có thể biến thắng quả của độc lập thành một hình thể nhà nước thống nhất và vận hành được; hai phần việc đó khác bản chất, không thể đánh giá bằng cùng một thước, và chính vì khác bản chất nên không thể thay thế nhau, nhưng đặt cạnh nhau thì chúng khớp vào một tiến trình: nếu thiếu Nguyễn Huệ, không có điểm xuất phát cho công cuộc hợp nhất; nếu thiếu Gia Long, không có cấu trúc để hợp nhất khỏi rã ra ngay sau chiến thắng.
Nói Nguyễn Huệ là “anh hùng dân tộc”, do đó, đương nhiên không phải là lời tán tụng rỗng, mà là cách ngắn gọn nhất để chỉ vào sự kiện độc nhất: trong một khoảnh khắc mà toàn bộ hệ thống chính trị lưỡng phân đã mất khả năng tự vệ, ông duy nhất có thể tái lập năng lực tự chủ ở cấp độ quốc gia và chặn đứng nguy cơ ngoại thuộc; nói ông là “một ngôi sao băng” không phải để làm đẹp chữ, mà để nhắc người đọc về mối tương quan giữa cường độ và thời lượng trong lịch sử: cường độ hành động của ông đạt mức quyết định đối với số phận quốc gia, nhưng thời lượng mà lịch sử còn lại cho ông không đủ để đi nốt phần đường từ “giải nguy” tới “kiến lập”; và chính vì vậy, việc đặt ông ngang tầm về vai trò lịch sử với Gia Long là để tạo nên một bức tranh hài hoà, một bài học hoàn hảo cần hơn bao giờ hết cho hậu thế.
(Còn tiếp)
Thứ Ba, 10 tháng 12, 2024
Nhật ký: THĂM NGHÈ VẸT - NGHĨ VỀ CÔNG NGHIỆP CỦA NHÀ CHÚA
Nguyễn Xuân Diện
Hôm vừa rồi, chúng tôi có tới Nghè Vẹt, ở xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Hiện tại, đây là nơi họ Trịnh thờ cúng các đời Chúa.
Ngẫm về thời các chúa Trịnh tồn tại bên cạnh vua Lê, cũng có những điều thú vị, mà công lao của nhà chúa đối với đất nước cũng không phải hoàn toàn như trong sách vở giáo khoa hay các công trình nghiên cứu của các sử gia quốc doanh.
Vua Lê - Chúa Trịnh, đó chính là mô hình chính trị “song trùng quyền lực”(còn gọi là “lưỡng đầu chế”). Mô hình ưu việt này, mãi về sau mới thấy có ở Nhật Bản và Anh Quốc.
Trong suốt 249 năm vua Lê - chúa Trịnh song trùng tồn tại, lãnh thổ đã được giữ vững và không xảy ra một cuộc tấn công xâm lược nào của phương Bắc; không một thước đất nào bị cướp.
MUỐN CÓ NGƯỜI TÀI, TRƯỚC PHẢI DẸP BỌN TIỂU NHÂN
NGƯỜI XƯA NÓI VỀ VIỆC TIẾN CỬ, CHỌN LỰA VÀ SỬ DỤNG NHÂN TÀI
Thưa chư vị,
Chúng tôi xin giới thiệu ở đây bài văn làm trong kỳ thi Đình (làm tại sân triều đình) - do nhà vua ra đề bài, chấm bài, để phân hạng các tiến sĩ. Người đỗ đầu (đủ 10 phân) là Trạng nguyên. Đề bài thường hỏi về các vấn đề lớn của đất nước và về việc trị nước. Bài thi đó gọi là Sách văn đình đối.
Bài văn dưới đây là sách văn đình đối đã mang lại lại danh hiệu Trạng Nguyên cho Nguyễn Trực (1417 - 1473) trong kỳ thi Đình năm Nhâm Tuất (1442), niên hiệu Đại Bảo thứ 3. Nguyễn Trực là vị Trạng nguyên đầu tiên của triều Lê. Tấm bia ghi về khoa thi này là tấm bia đầu tiên ở Văn Miếu, được dựng năm 1484.
Đề bài của vua Lê Thái Tông yêu cầu: "Đức Thái tổ Cao hoàng đế ta lấy được thiên hạ, nhiều phen xuống chiếu cầu hiền mà không có một ai trúng tuyển. Trẫm từ khi lên ngôi tới nay, gắng sức trị nước, thế mà việc chọn nhân tài vẫn mịt mở thăm thẳm. Sao người quân từ khó tìm, kẻ tiểu nhân khó biết như vậy? Các ngươi hãy đem hết hiểu biết của mình trả lời, trẫm sẽ đích thân xem xét". Đấy! Lòng vua chân thành là vậy! Đời nay có theo kịp đời xưa chăng?
Thứ Sáu, 1 tháng 3, 2024
Nguyễn Xuân Diện: ĐẦU NĂM, LÊN CHƠI NÚI BA VÌ
Ngày đầu năm, lên chơi núi Ba Vì
Nguyễn Xuân Diện
Thứ Tư, 21 tháng 2, 2024
TRẨY HỘI CHÙA HƯƠNG, GHÉ THĂM VÂN ĐÌNH
Nguyễn Xuân Diện
.





















