Hiển thị các bài đăng có nhãn Minh Mạng. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Minh Mạng. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 17 tháng 4, 2021

VUA MINH MẠNG TRỊ TỘI BỌN CƯỜNG HÀO ÁC BÁ TỈNH, HUYỆN, XÃ

VUA MINH MẠNG TRỊ TỘI BỌN CƯỜNG HÀO TỈNH, HUYỆN, XÃ

Bùi Xuân Đính
Thời phong kiến, hệ thống thanh tra của nhà nước gồm các cơ quan: Đô Ngự sử (từ thời Nguyễn đổi thành Viện Đô sát) ở cấp trung ương, Giám sát Ngự sử ở cấp liên trấn (thời Nguyễn là cấp liên tỉnh) và Hiến ty ở cấp trấn (thời Nguyễn là tỉnh). Mỗi cơ quan, mỗi cấp thanh tra này có chức năng, nhiệm vụ riêng, song đều có nhiệm vụ chung là kiểm tra, giám sát quan lại, phát hiện các vụ việc tiêu cực của họ. Các cơ quan cũng như các chức quan của hệ thống thanh tra này hoạt động độc lập, không phụ thuộc vào nhau và cũng không phụ thuộc vào cơ quan hành chính cũng như cơ quan ngành dọc cùng cấp hoặc trên cấp. Chẳng hạn, một vị Hiến sát sứ ở Hiến ty (thanh tra cấp tỉnh), phát hiện một vị quan tỉnh tham tang, có quyền tâu thẳng lên Viện Đô sát, thậm chí tâu thẳng lên vua, không cần thông qua Giám sát Ngự sử (thanh tra cấp liên tỉnh); cũng không phải thông qua Tổng đốc hay Tuần phủ là các quan đứng đầu tỉnh đó.
Ngoài ra, những khi một địa phương nào đó trải qua binh đao, quan lại ức hiếp dân chúng gây tao loạn, các vua thường cử đoàn thanh tra đặc biệt, gọi là Kinh lược sứ, gồm các quan đại thần có uy tín, tài năng và công tâm đến, có nhiệm vụ làm rõ nguyên nhân, ổn định tình hình; được toàn quyền giải quyết các vụ việc ở địa phương đó rồi tâu báo lại với vua.
Vào tháng Tư­ năm Đinh Hợi, triều Vua Minh Mạng (tháng 5 năm 1827), tại trấn Nam Định (từ năm 1831 đổi thành tỉnh Nam Định), nhân dân gặp nhiều đau khổ vì nạn trộm cư­ớp hoành hành và quan lại địa phương nhũng nhiễu, hà hiếp. Nhiều đơn thư kêu cứu liên tiếp gửi vào triều đình Huế. Vua Minh Mạng bèn phái một đoàn kinh l­ược sứ, đứng đầu là các quan đại thần Nguyễn Văn Hiếu Nguyễn Kim Xán ra Bắc xem xét tình hình.
Đến Nam Định, các quan Kinh lư­ợc một mặt khẩn cấp xét cấp tiền gạo cho những người bị hại ở các làng quê; mặt khác đi đến các phủ huyện nào cũng cho phép người dân được đến gặp quan thanh tra triều đình phản ánh tình hình quan lại địa phương.
Sau một thời gian, đoàn Kinh lược sứ thu được rất nhiều chứng cứ về các hành vi tham tang, ức hiếp dân chúng của quan lại các cấp trấn này. Một số quan cấp phủ, huyện bị đưa ra xét xử ngay, khiến cho nhiều quan các phủ huyện khác lo sợ. Từ nỗi lo sợ “dắt dây” của quan lại các phủ huyện, các quan Kinh lược sứ phát hiện ra đầu mối của tình hình tao loạn ở trấn Nam Định chính là một số quan chức trấn này, gồm Cai án Phạm Thanh, Thư ký Bùi Khắc Tham. Họ là những kẻ “gian tham, giảo quyệt, hung ác, ng­ười trong vùng đều oán giận”. Nghe tin có quan Kinh lược sứ của triều đình về, các quan tham này đều lo sợ, đến nỗi Phạm Thanh bỏ cả ấn tín, công sở chạy trốn.
Vụ việc đư­ợc tâu lên Vua Minh Mạng. Vua lệnh cho các quan Kinh lược sứ phải bắt bằng đ­ược Phạm Thanh, bằng không sẽ bị xử theo luật “cố thả”. Vua lại dụ quở  trách các quan trấn thần Nam Định: “Lũ các ngươi làm quan trong hạt lại để có nhiều kẻ tham lam, làm hại dân, rồi lại bao che cho chúng mà nói dối vua, dám tâu rằng không xét thấy việc tham bỉ. Đến như­ Phạm Thanh tội lớn, khi Kinh lư­ợc sứ đến nơi thì sự việc vỡ lở nên lọt tin ra để nó trốn đ­ược. Các ng­ươi trị dân thì vỗ nuôi sai pháp, giặc nổi như­ ong; xét quan thì không biết phân biệt, dung túng thiên vị, như­ thế thì khép vào tội cách chức ch­ưa thỏa”.
Rồi Vua ra lệnh giải chức của  các quan đầu trấn Nam Định là Đỗ Văn Thịnh, Trần Chính Đức, Vũ Đức Khuê; đồng thời lệnh cho họ trong ba tháng phải bắt được những kẻ phạm tội, căn cứ vào đó để xét giảm tội hay không.
Nghe tin vậy, Bùi Khắc Kham cũng bỏ trốn, như­ng ít lâu sau cùng bị bắt với Phạm Thanh. Nhân dân địa phư­ơng lại đem các việc làm xấu xa của họ ra tố cáo. Vua Minh Mạng sai giải bọn Thanh - Kham đến chợ trung tâm của trấn, chém ngang lư­ng, tịch thu gia tài của chúng đem chia cho những ng­ười dân nghèo.
Đoàn Kinh l­ược sứ còn đi xem xét một số phủ, huyện khác, điều tra và đề nghị trị tội một số quan lại thoái hóa. Tri phủ Kiến X­ương Nguyễn Công Tuy tham tang phải tội chết, Đồng Tri phủ Ứng Hòa Phan Thọ Vực và Tri huyện Đại An Nguyễn Văn Nghiêm cố ý dung túng cho các nha lại nhũng nhiễu hại dân đều bị cách chức. Nhiều quan của các nha phủ khác qua tra xét thấy không xứng đáng chức đã bị truất bãi về làm dân.

Thứ Hai, 11 tháng 1, 2021

TRỜI RÉT, NHỚ CÂU THƠ CỦA HOÀNG ĐẾ MINH MỆNH


TẤM LÒNG CỦA BẬC ĐẾ VƯƠNG
(Trời rét, nhớ câu thơ của Hoàng đế Minh Mạng)

Cách đây 188 năm, sau một trận mưa rào giữa đêm, Hoàng đế Minh Mạng của nước Đại Nam đã thức dậy rất sớm (nhà vua thường dậy vào giờ Dần, tức là 3h sáng) và viết một bài thơ, trong đó có những câu thơ: 

Y ôn niệm chức tồn dư ý.
Thực bão tư nông động ngã tâm.

衣 溫 念 織 存 余 意,
食 飽 思 農 動 我 心

(Mặc ấm nhớ người dệt vải, đó là điều còn mãi trong ý ta.
Ăn no, nhớ người cày ruộng, điều đó còn lay động tâm can ta). 

Trong tâm tình ấy, ông tiến hành cải cách hành chính và cai trị đất nước bằng cả tài trí, tâm lực của mình, đưa nước Đại Nam thành một quốc gia hùng mạnh nhất trong khu vực lúc bấy giờ!

Thứ Năm, 25 tháng 10, 2018

VUA MINH MẠNG ĐĂNG QUANG, BAN ÂN 16 ĐIỀU

Hoàng đế Minh Mạng.

KHI LÊN NGÔI, HOÀNG ĐẾ MINH MẠNG BAN ÂN 16 ĐIỀU

Đọc chiếu lên ngôi của vua Minh Mạng ta thấy vua lên ngôi đã ban ân gồm 16 điều:

1. Nhân dân, ai thiếu tiền thuế sản vật từ năm Gia Long thứ 18 (1819) trở về trước đều không phải đóng nữa

2. Miễn toàn bộ tiền, thóc các loại thuế đinh, thuế điền và thuế sản vật của năm Minh Mạng thứ nhất (1820)

3. Các hoàng đệ được phong tước công đều được cấp thêm lương bổng 500 quan tiền và 500 phương gạo

Thứ Sáu, 6 tháng 1, 2017

SỨC PHU TRẠM VÀ NHỮNG CHUYẾN HÀNG RIÊNG CỦA CÁC QUAN

SỨC PHU TRẠM  VÀ NHỮNG CHUYẾN HÀNG RIÊNG CỦA CÁC QUAN
Bùi Xuân Đính
Thời phong kiến, trên các con đường “Thiên lý”, hay “đường Cái quan”, tức đường giao thông lớn từ các địa phương về Kinh đô, cứ 30 dặm (mỗi dặm khoảng trên 500 mét), Nhà nước đặt một trạm, mỗi trạm có một Dịch thừa phụ trách chung và một Dịch mục là cấp phó phụ tá, có trên dưới 50 phu trạm và ngựa để chạy công văn, giấy tờ, hộ tống quan lại các trấn, tỉnh đi việc công về Kinh đô, từ phủ, huyện về trấn, tỉnh (và ngược lại), cả quan đi sứ nước ngoài. Các trạm lần lượt chuyển giao công việc cho nhau mỗi khi có quan hay việc quan đến.
Trải bao đời, các quy định về việc sử dụng phu trạm để chuyển chở đồ đạc của công và của các quan đi việc công được tuân thủ và được giám sát chặt chẽ.  Song, không tránh khỏi việc lợi dụng các trạm này để mưu lợi riêng. Xin nêu hai vụ tiêu biểu dưới thời Nguyễn bị phát giác, được sử cũ ghi lại..

Thứ Ba, 3 tháng 1, 2017

TỪ CÂU CHUYỆN BIẾU TẾT 193 NĂM TRƯỚC

Bùi Xuân Đính

Nguyễn Văn Hiếu (1764 - 1833) người huyện Kiến Hòa, tỉnh Định Tường (nay là tỉnh Tiền Giang). Sinh ra trong một gia đình nghèo, thuở nhỏ, Nguyễn Văn Hiếu phải đi cắt cỏ thuê để kiếm sống. Lớn lên, ông theo nghiệp binh, lần lượt được giao đảm nhiệm các chức : Hữu quân Phó tướng. Lưu thủ Bình Định, Trấn thủ các trấn : Sơn Nam Hạ. Thanh Hoa, Nghệ An, phong Đô thống trung doanh quân Thần sách. Năm thứ tám (Đinh Hợi, 1827), ông được cử đi làm Kinh lược sứ ở Nam Định. Chỉ trong hai tháng, ông và các quan đã xử lý hàng loạt các quan lại vùng này tham nhũng, ức hiếp dân chúng, ổn định tình hình, được Vua Minh Mệnh khen ngợi. Đến tháng 11 năm 1831, khi tỉnh Hà Nội được thành lập, Nguyễn Văn Hiếu được bổ làm Tổng đốc Hà - Ninh. Từ tháng Giêng năm Nhâm Thìn (tháng 2 năm 1832), ông còn kiêm chức Tuần phủ Hà Nội; đến tháng Bảy cùng năm, được triệu về Kinh; được thăng Tả quân Đô thống phủ, Chưởng phủ sự, tước Lương Năng bá.

VUA MINH MẠNG TRỊ CON HƯ ĐỂ LÀM GƯƠNG CHO THIÊN HẠ

VUA MINH MẠNG TRỊ CON HƯ ĐỂ LÀM
GƯƠNG CHO THIÊN HẠ NHƯ THẾ NÀO
Bùi Xuân Đính
Vua Minh Mạng (1791 - 1841) nổi tiếng trong lịch sử nhà Nguyễn nói riêng, các vương triều phong kiến Đại Việt nói chung không chỉ là vị vua giỏi việc hành chính,  giỏi thơ văn mà còn rất nghiêm khắc với trăm quan, người thân; không để các tình cảm thân quen làm ảnh hưởng công việc; không để vợ con, anh em ỷ thế mình mà làm những việc ngang trái. Ông còn nổi tiếng trong việc dạy con. Tuy có tới 142 người con (gồm 78 trai - thường có tên gắn với chữ “Miên”, 64 gái) và tuy rất bận với công việc trong triều, song ông luôn để ý đến họ, thấy họ sai là chấn chỉnh luôn. Câu chuyện dưới đây là ví dụ điển hình về việc răn dạy con rất nghiêm khắc của ông.
Trong số các con trai của Vua Minh Mạng có Hoàng tử Miên Phú. Cậy thế vua cha, Phú thường chơi bời lêu lổng. Vào một đêm tháng Một năm Ất Mùi (tháng 12 năm 1835), trời rét, Miên Phú cùng bọn phủ thuộc là Hoàng Văn Vân, Bùi Văn Nghị, Bùi Văn Quế tổ chức đua ngựa ở ngoài hoàng thành. Đua được mấy vòng, Miên Phú về trước, mấy tên phủ thuộc tiếp tục cho ngựa chạy thi. Vó ngựa rầm rập gây náo loạn nhiều đường phố. Một bà già đi bên đường tránh không kịp, bị ngựa của Hoàng Văn Vân xéo chết !

Thứ Năm, 24 tháng 7, 2014

VUA MINH MẠNG QUY ĐỊNH KHẢO SÁT, TUẦN TIỄU, BẢO VỆ BIỂN ĐẢO

Vua Minh Mạng qui định khảo sát, tuần tiễu, bảo vệ biển đảo

Lê Thái Dũng 
Dân Việt (14:56 - 23 tháng 7, 2014)

Không chỉ tổ chức, nâng cao khả năng trang thiết bị tàu thuyền cho ngư dân vươn khơi đánh bắt cá trên biển, vua Minh Mạng còn đặc biệt chú trọng đến việc quản lý, khai thác, tuần tiễu bảo vệ biển đảo, khẳng định chủ quyền quốc gia trên biển Đông.
 

Bài 2: Bảo vệ biển đảo và khẳng định chủ quyền quốc gia trên biển

Hoàng đế Minh Mạng
Thời Minh Mạng trị vì, nước Đại Nam trở thành một quốc gia cường thịnh, rộng lớn; các nước lân bang đều nể sợ, các nước phương Tây xa xôi cũng nhiều lần đến xin thông hiếu. Với sức mạnh và uy thế đó, Minh Mạng đã cho lực lượng thủy quân của mình vươn xa hơn ra ngoài biển khơi, khẳng định một cách rõ ràng, mạnh mẽ chủ quyền trên các hải đảo, nhất là tại Vạn lý Hoàng Sa (tên gọi chung và phổ biến về 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trước đây trên biển Đông).

Năm Bính Thân (1836), vua truyền bảo các quan bộ Binh rằng: “Nước ta bờ biển rất dài, một việc đi tuần ngoài biển rất là quan trọng và thiết yếu, nay chuẩn cho ở kinh đô và các địa phương gần biển, hàng năm vào tháng 2 phải phái lính đi tuần ngoài biển đến tháng 7 hay tháng 8 mới được trở về. Còn từ tỉnh Gia Định đến tỉnh Hà Tiên thì tháng 4 tiến hành đi tuần đến tháng 10 trở về” (Minh Mạng chính yếu).

Riêng với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vua Minh Mạng đã nhiều lần sai các thuyền ra vẽ bản đồ các đảo, đo đạc thủy trình, cắm cột mốc lập bia, dựng miếu thờ, trồng cây các hoạt động khác… 

Nhận thấy cần tạo thành thông lệ, tiến hành thường xuyên các hoạt động này, mỗi năm, vào tháng Giêng năm Bính Thân (1836) các quan ở bộ Công đã dâng sớ tâu rằng: “Cương giới mặt biển nước ta có xứ Hoàng Sa rất là hiểm yếu. Trước kia, đã phái vẽ bản đồ mà hình thế nó xa rộng, mới chỉ được 1 nơi, cũng chưa rõ ràng. Hằng năm, nên phái người đi dò xét cho khắp để thuộc đường biển. Xin từ năm nay trở về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng Giêng, chọn phái biền binh thuỷ quân và vệ Giám thành đáp một chiếc thuyền ô, nhằm thượng tuần tháng Hai thì đến Quảng Ngãi, yêu cầu 2 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định thuê 4 chiếc thuyền của dân, hướng dẫn ra đúng xứ Hoàng Sa.

Thứ Ba, 23 tháng 10, 2012

MỘT TRĂM QUAN TIỀN VÀ CÁI DANH MUA BÁN

Bùi Xuân Đính

Phan Văn Xưởng người xã Khánh Thọ, huyện Hà Đông (nay thuộc huyện Duy Xuyên), tỉnh Quảng Nam, đỗ Cử nhân khoa Giáp Ngọ đời Vua Minh Mạng (năm 1834), là Án sát tỉnh Biên Hòa dưới thời Vua Thiệu Trị. Vào năm Giáp Thìn (năm 1844), tại thôn Tân Mỹ của tỉnh này xảy ra vụ kiện tranh chấp tài sản. Người cần được lập di chúc để được hưởng thừa tự đã tìm cách đút lót cho Xưởng 80 lạng bạc. Xưởng không những nhận mà còn dung túng người nhà và lại dịch xuống làng sách nhiễu. Những người thân của người bị hại thấy bị thua thiệt bèn khiếu kiện Xưởng, nhưng họ lại kêu kiện ở Gia Định mà không phải ở Biên Hòa. Phan Văn Xưởng lo sợ, bèn thân chinh đến tỉnh Gia Định van xin Tổng đốc tỉnh này giao vụ kiện cho Bố chính tỉnh Biên Hòa Đỗ Huy Cảnh tra xét. Những người khiếu kiện không chịu, tiếp tục về Kinh đô Huế kêu cầu.