Vụ GS. Đạo văn Nguyễn Đức Tồn xuất hiện thêm tình tiết động trời.
Bài “Bị tố đạo văn, GS Nguyễn Đức Tồn lần đầu giải trình” (Báo PLO.VN ngày 15/3/2018) có đoạn: “Về
việc bị tố lấy bài viết của Nguyễn Thị Thanh Hà đăng trên tạp chí Ngôn
Ngữ, ông Tồn cũng đưa ra rất nhiều chứng cứ. Bà Nguyễn Thị Thanh Hà là
NCS do ông hướng dẫn và đã từng đứng tên chung với GS Tồn trên nhiều bài
báo.
Những ngày gần đây, giới nghiên cứu xôn xao về nghi vấn đạo văn của Giáo sư (GS)-TS Nguyễn Đức Tồn, nguyên Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học Việt Nam.
Theo đó, GS Trần Ngọc Thêm, Chủ tịch Hội đồng chức danh GS ngành ngôn
ngữ học, cho rằng việc đạo văn của ông Tồn từng được đề cập từ năm 2002;
đến năm 2009, hồ sơ xét GS của ông Tồn được công nhận là “do nhân đạo,
khoan dung” khiến dư luận không khỏi tranh cãi.
Để làm rõ vấn đề, chiều 21-5, PV báo Pháp Luật TP.HCM đã có cuộc trao đổi với GS Nguyễn Đức Tồn, Chủ tịch Hội đồng biên tập tạp chí Ngôn Ngữ, nguyên Viện trưởng kiêm Tổng biên tập tạp chí Ngôn Ngữ - xoay quanh vấn đề này.
Mong chờ cơ quan chức năng vào cuộc
Theo GS Nguyễn Đức Tồn, những ngày qua ông có nắm được thông tin việc mình bị tố cáo đạo văn
học trò và đồng nghiệp. Tuy nhiên, dư luận hiện nay chỉ mới nghe ý kiến
một chiều và thông tin chưa xác thực mà đánh giá vấn đề. Do đó, ông sẽ
không đôi co làm phức tạp thêm vấn đề, không trả lời ai đúng ai sai ngay
lập tức mà muốn cơ quan chức năng vào cuộc điều tra.
Cụ thể, vào lúc 15 giờ ngày 18-5, GS Tồn
nhận được công văn của Hội đồng Chức danh GS nhà nước (Hội đồng CDGSNN)
do ông chủ tịch Hội đồng CDGS ngành ngôn ngữ học chuyển qua hộp thư
điện tử. Công văn yêu cầu Hội đồng CDGS ngành ngôn ngữ học “khẩn trương
kiểm tra (việc bị tố đạo văn), đồng thời có ý kiến chính thức bằng văn
bản gửi Hội đồng CDGSNN trước ngày 1-6.
GS
Tồn cho biết khi nhận được công văn của Hội đồng CDGSNN, ông hoàn toàn
nhất trí và cũng đang rất mong chờ cơ quan chức năng thẩm tra để xác
định và kết luận rõ ràng ông có đạo văn hay không. Ông nói: “Vì vấn đề
báo chí đưa tin là hết sức hệ trọng, không chỉ liên quan đến sinh mạng
khoa học, sinh mệnh chính trị và nhân phẩm công dân của cá nhân tôi mà
còn liên quan đến uy tín của cả ngành ngôn ngữ học Việt Nam vì tôi đã
từng là viện trưởng viện này kiêm tổng biên tập tạp chí Ngôn Ngữ và hiện nay là đương kim chủ tịch Hội đồng biên tập tạp chí Ngôn Ngữ”.
“Mặt khác, cũng liên quan đến uy tín,
chất lượng hoạt động của Hội đồng CDGS các cấp năm 2009 - năm tôi được
xét phong học hàm GS - do đó cần phải được tiến hành thẩm tra một cách
cẩn trọng, theo đúng pháp luật” - ông Tồn nói.
GS Tồn tố ngược GS Trần Ngọc Thêm
Về vấn đề thành lập ban thẩm tra, ông
Tồn nói phải bao gồm các thành viên có chuyên môn và đảm bảo sự công
tâm, khách quan. Ông Tồn cho biết ông còn gửi kèm yêu cầu cơ quan chức
năng không cử vào ban thẩm tra này những người đã trả lời phỏng vấn trên
báo chí quy kết ông đạo văn. Trong đó, ông nêu đích danh hai người là
thành viên của Hội đồng CDGS ngành ngôn ngữ học ở thời điểm hiện tại là
ông Trần Ngọc Thêm và ông Phạm Hùng Việt.
Bên cạnh đó, ông Tồn yêu cầu tài liệu
thẩm tra cần phải đầy đủ và đảm bảo tính hợp pháp, trong đó có hồ sơ đề
nghị xét phong GS của ông năm 2009 hiện đang lưu tại Hội đồng CDGSNN.
Ông nói hồ sơ này phải được niêm phong, đảm bảo đúng hồ sơ gốc để chuyển
cho ban thẩm tra, không tùy tiện lấy bất cứ cuốn nào trên thị trường để
thẩm định.
Ông Tồn nói thời gian và quy trình thẩm
tra cần chặt chẽ, tránh sự dồn ép, vội vàng, cần phải đảm bảo thực hiện
các công đoạn thẩm tra “trung thực, đúng luật định để có kết luận chính
xác, đúng người đúng tội, tránh gây oan sai”.
“Tôi rất nhất trí và thấy rất cần thiết
phải tiến hành việc thẩm tra này. Song nếu cơ quan quản lý nhà nước có
chủ trương thẩm tra tư cách khoa học và điều kiện phong học hàm của tôi
thì tôi cũng kính đề nghị cơ quan quản lý nhà nước cần phải chỉ đạo xem
xét tất cả các trường hợp tương tự khác cũng đã được thông tin đại chúng
phản ánh đạo văn. Chẳng hạn như trường hợp ông Trần Ngọc Thêm về các
công trình: Cơ sở văn hóa Việt Nam và Văn hóa người Việt vùng Tây Nam bộ. Như thế mới đảm bảo kỷ cương và sự bình đẳng của các công dân trước pháp luật” - ông Tồn nhấn mạnh.
Ông Tồn cho biết trong ngày 21-5, ông đã
gửi đơn kiến nghị những nội dung trên đến Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ
tướng Vũ Đức Đam, phụ trách Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Ban
Tuyên giáo Trung ương, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT, Chủ tịch Hội đồng CDGSNN…
TTO - GS Nguyễn Đức Tồn - người đang bị hội đồng chức danh GS ngành ngôn ngữ rà soát, kiểm tra việc có "đạo văn" của trò hay không - vừa có đơn kiến nghị đến Thủ tướng đề nghị làm rõ cả những “nghi án” GS, PGS khác “đạo văn”.
TÔI PHẢN ĐỐI: KHÔNG THỂ SỬA SAI BẰNG BÀN TAY CỦA KẺ ĐÃ LÀM SAI!
Tổng thư ký HĐCDGS Nhà nước Trần Văn Nhung vừa ký văn bản yêu cầu Chủ tịch HĐCDGS ngành ngôn ngữ học xem xét và báo cáo "nghi án" ăn cắp văn của ông Nguyễn Đức Tồn.
Tôi không hoan hô điều này mà phản đối kịch liệt.
A.Einstein nói: "Không thể sửa sai bằng chính bàn tay của kẻ đã làm sai"!
Bên ngành tư pháp hay ngành thanh tra, nếu cơ quan, bộ phận điều tra, thanh tra kết luận và xét xử sai thì ắt cơ quan, bộ phận ấy trở thành đối tượng điều tra, thanh tra chứ không có chuyện giao cho thanh tra, điều tra lại, trừ phi cơ quan, bộ phận đó vô tình sơ sót về nghiệp vụ đã bỏ lọt người lọt tội buộc phải thanh tra, điều tra bổ sung.
Trao
đổi với VietNamNet tối 16/5, GS Trần Ngọc Thêm khẳng định việc ông
Nguyễn Đức Tồn đạo văn đã trở thành một "căn bệnh" trầm kha cần tước bỏ
tận gốc.
Theo
GS Trần Ngọc Thêm, ông hiểu được việc bà Nguyễn Thuý Khanh "rất sốc",
và rất đồng tình với đề xuất thành lập "một Hội đồng khoa học xem xét,
đối chứng cụ thể và giải quyết dứt điểm" việc này. Tuy nhiên, có lẽ bà
Khanh đã không đọc kỹ những điều ông trả lời trên VietNamNet
ngày 15/05/2018, mà chỉ tập trung vào một vài chi tiết, để rồi đi đến
những kết luận vội vã về ông như "biện hộ cho GS Tồn", "thiếu khách
quan, ngụy biện", thậm chí quy chụp nặng nề hơn là "có sự mờ ám phía
sau". Liên quan đến ý kiến của TS Nguyễn Thúy Khanh, GS Thêm muốn nói rõ
ba điểm như sau:
(Dân Việt) TS Nguyễn Thúy Khanh (từng là nghiên cứu sinh do GS Nguyễn Đức Tồn hướng dẫn – PV) cho rằng, nghi vấn Giáo sư Nguyễn Đức Tồn đạo văn nhất thiết phải giải quyết dưới góc độ khoa học, cần một Hội đồng khoa học xem xét, đối chứng và giải quyết dứt điểm.
GS. Trần Ngọc Thêm: "Ông Tồn trải qua 7 năm hồ sơ xét giáo sư không được thông qua, tuy nhiên cuối cùng đến năm 2009 vẫn được thông qua vì tinh thần nhân văn và lòng vị tha".
GS Trần Ngọc Thêm: "Ông Nguyễn Đức Tồn đạo văn nhưng được phong giáo sư vì tinh thần nhân văn"
GS Trần Ngọc Thêm, Chủ tịch Hội đồng Chức danh Giáo sư ngành Ngôn ngữ
học khẳng định, việc ông Nguyễn Đức Tồn đạo văn của học trò là có thật.
Việc đạo văn đã khiến ông Tồn trải qua 7 năm hồ sơ xét giáo sư không
được thông qua, tuy nhiên cuối cùng đến năm 2009 vẫn được thông qua vì
tinh thần nhân văn và lòng vị tha.
“Ông Nguyễn Đức Tồn đạo văn đã rõ ràng” – GS. Trần Ngọc Thêm lên tiếng trong cơn bão dư luận về vụ đạo văn của ông Nguyễn Đức Tồn.
Nhiều người khen ông Thêm trung thực. Trong lúc quyết liệt với nạn đạo văn, tôi cũng muốn khen ông Thêm một câu, như thể dựa hơi vào tiếng nói của người có uy tín như ông. Tuy nhiên, lương tâm của một kẻ sĩ, tôi không thể làm như vậy.
Trong bài “Thời của hai chữ đạo văn”
(Báo Lao Động – 2015), tôi có viết: “Đạo luận án” có thể xếp vào hàng
“đại bợm”, sẵn sàng bê nguyên xi hàng chục trang viết của người khác.
(Đa số các công trình này đều “xếp kho” sau khi “bảo vệ” xong nên rất ít
khi bị phát hiện) […] Tục ngữ có câu “Gái đĩ già mồm, kẻ trộm lắm gan”.
Tuy mức độ manh động có khác nhau, nhưng có thể nói “gan” kẻ “đạo văn”
to hơn gan kẻ trộm nhiều. Bởi xưa nay, có đạo chích, đại bợm nào sau khi
đột nhập lại dám để lại tên tuổi, địa chỉ đàng hoàng như kẻ “đạo văn”?.
TỪ TỤC HÀ BÁ LẤY VỢ THỜI XƯA ĐẾN TỤC CHÉM LỢN, ĐẬP TRÂU THỜI NAY
Đào
Tiến Thi
Vào những lúc thịnh trị của chế độ phong kiến, các vua chúa
Trung Quốc cũng như Việt Nam đều quản lý
không chỉ thần dân mà còn “quản lý” cả thần thánh. Thần nào, thánh nào được nhà
vua sắc phong mới được lập đền thờ. Những việc thờ cúng nhảm nhí đều bị trừng
trị.
Xin lấy câu chuyện Hà Bá lấy vợ dưới đây trong tập sách Cổ học tinh hoa (Nguyễn Văn Ngọc và Trần
Lê Nhân, 1925) làm ví dụ.
Nhiều môn học sẽ được tích hợp và giảng dạy theo phương pháp mới ở nhà trường phổ thông, theo Bộ Giáo dục Việt Nam.
Cả hai phía trong cuộc tranh luận khá nóng đang diễn ra về việc dạy môn lịch sử trong nhà trường ở Việt Nam đều có những điểm 'chưa chính xác', 'chưa hiểu hết' chính chủ đề, nội dung được đưa ra tranh luận, theo một nhà nghiên cứu khoa học xã hội từ Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
Trong xu thế khắp các tỉnh, thành cả nước VN, chính quyền địa phương đua nhau xây tượng đài và mới đấy nhất dự án tượng đài Bác Hồ 1400 tỷ ở tỉnh Sơn La vừa được thông qua gây nên làn sóng phản đối mạnh mẽ trong công chúng. Tìm hiểu về góc độ văn hóa, liệu rằng việc xây dựng tượng đài trong bối cảnh hiện tại có còn phù hợp?
Lễ hội chém lợn: "Không hiểu thì đừng đến xem" Báo Dân Việt 2.2.2015
“Nếu người nào muốn tham gia Lễ hội chém lợn phải hiểu văn hóa riêng đó, nếu không hiểu thì đừng có bàn”, Giáo sư Trần Ngọc Thêm bày tỏ.
Ngày 27.1, Tổ chức Động vật Châu Á đề nghị chấm dứt Lễ hội chém lợn ở thôn Ném Thượng, xã Khắc Niệm (Tiên Du, Bắc Ninh). Tổ chức này bày tỏ lo ngại nghi thức “chém lợn” tác động tiêu cực đối với xã hội. Trong đó, ảnh hưởng xấu tới tâm lý của người chứng kiến, tác động xấu tới ngành du lịch cũng như hình ảnh của Việt Nam.
Trước đề nghị trên, phóng viên có cuộc trao đổi với Giáo sư Trần Ngọc Thêm, Giám đốc Trung tâm Văn hóa học lý luận và ứng dụng, Trường Đại học Khoa học xã hội & nhân văn (Đại học Quốc gia TP.HCM) - tác giả của cuốn sách nổi tiếng“Cơ sở văn hóa Việt Nam”.
Thưa Giáo sư, thời gian qua có nhiều ý kiến cho rằng, Lễ hội chém lợn với nghi lễ “chém đứt đôi con lợn” là lễ hội dã man, tàn bạo, cần phải loại bỏ. Ý kiến của ông thế nào?
- Dưới góc độ người nghiên cứu văn hóa, tôi không đồng ý với yêu cầu cấm Lễ hội chém lợn, nhất là khi yêu cầu này dựa trên lý lẽ rằng đây là cách đối xử dã man với động vật.
Trao đổi về bài trả lời của Trần Ngọc Thêm với cuốn 'Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ'
Nguyễn Thanh Lợi
Báo TT & VH - Thứ Hai, 04/08/2014 11:24 .
Thethaovanhoa.vn -LTS: Sau bài viết của tác giả Nguyễn Thanh Lợi nhan đề Cuốn sách Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ tái bản vẫn quá nhiều sai sót trên báo Thể thao & Văn hóa
ngày 9/7/2014, GS Trần Ngọc Thêm đã có bài trả lời trên báo ngày
23/7/2014. Tác giả Nguyễn Thanh Lợi lại tiếp tục có thêm bài trao đổi.
Báo Thể thao & Văn hóa xin giới thiệu bài viết mới này trên ấn bản điện tử.
1. Về giường thờ, Trần Ngọc Thêm dẫn sách Nói về miền Nam của Sơn Nam: "Ở
miền quê, quen gọi “cái giường thờ”, vì như đã nói ở phần trước, lấy
cái giường ngủ của người quá cố đem ra thờ (như khi còn sống)... Cái
giường, vì nhu cầu thâu hẹp, lần hồi được thay thế với cái bàn thấp, đặt
sát vách, khi làm đám giỗ, thức ăn trưng bày trên đó” và như vậy Trần
Ngọc Thêm vẫn cho rằng: “Giường thờ thực sự (mà người chết đã nằm) ở Tây
Nam Bộ hiện nay thường chỉ thấy ở một số ngôi nhà cổ”. Có thật vậy
không?
Sách Đại Nam quốc âm tự vị của
Huỳnh Tịnh Của xuất bản từ năm 1895 ở mục từ Giầng tức Giường: “Giường
thờ sắm riêng để thờ ông bà” (tập 1, tr.370). Điều Huỳnh Tịnh Của đưa ra
là có cổ hơn so với điều Sơn Nam. Và chính Sơn Nam cũng đã lại viết:
“Giường thờ và bàn thờ là hai món riêng, gắn bó hữu cơ. Bàn thờ ở phía
ngoài nhìn vào, khá cao, chưng bộ lư, chân đèn, lư cắm nhang, chén cúng
nước, tô đựng nước (để súc miệng trước khi ăn trầu, để uống trà
Huế)...Giường thờ thấp hơn, nối liền từ bàn thờ đến sát vách buồng, trên
giường đặt vài món kỷ niệm của người quá cố (quạt, gối) nhưng công dụng
chánh của giường này là bày biện thức ăn khi cúng giỗ...(Đồng bằng sông Cửu Long nét sinh hoạt xưa, NXB TP.HCM, 1985, tr.121). Như vậy là đã rõ.
Lại
nữa, Trần Ngọc Thêm còn viết: “Về Huế, ta vẫn thấy những chiếc long
sàng của vua chúa đã qua sử dụng được đặt thờ trong các khu lăng tẩm”.
Các long sàng đó, nếu có, cũng chỉ là tưởng niệm về người quá cố hay hàm
ý để vong hồn người chết ngủ nghỉ theo quan niệm “sự tử như sự tồn”,
chứ cái long sàng không phải là bàn thờ/hương án thờ các vị vua.
Lời dẫn của Tễu Blog: Vừa qua, tác giả Nguyễn Thanh Lợi có đăng bài báo tố cáo GS.TS Trần Ngọc Thêm, ủy viên Hội đồng lý luận trung
ương Đảng, giám đốc Trung tâm văn hóa học ứng dụng Trường Đại học
KHXH-NV TP. Hồ Chí Minh cùng nhóm tác giả đã đạo văn của nhiều nhà
nghiên cứu khác. Bài đăng trên báo Thể thao & Văn hóa, chúng tôi có đăng lại ở đây.
Giáo sư Trần Ngọc Thêm đã có bài viết để trả lời những phê bình của Nguyễn Thanh Lợi đối với cuốn 'Văn hóa người
Việt vùng Tây Nam
Bộ' đăng trên báo Thể thao & Văn hóa
số ra ngày 23-7-2014. Bài trên Thể thao & Văn hóa (có cắt
bớt đoạn đầu và các chú thích nguồn), xem tại đây. Bài đầy đủ đăng tải trên website của Trung tâm văn hóa học ứng dụng Trường Đại học
KHXH-NV TP. Hồ Chí Minh, tại đây.
Tôn trọng tranh luận đa chiều, chúng tôi đăng tải lại toàn bộ bài viết của Giáo sư Trần Ngọc Thêm bản đầy đủ đăng trên website của Trung tâm văn hóa học ứng dụng Trường Đại học
KHXH-NV TP. Hồ Chí Minh.
Trả lời “Những câu hỏi chung quanh cuốn sách Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ”
Trần Ngọc Thêm
Báo Nhân Dân. Thứ ba, 18/02/2014 - 11:29 AM (GMT+7)
Trên báo Nhân Dân điện tử, số ra ngày 14-2-2014, trong chuyên mục “Bình luận - phê phán” có đăng bài viết của
Nguyễn Thanh Lợi nhan đề “Những câu hỏi chung quanh cuốn sách Văn hóa
người Việt vùng Tây Nam Bộ”. Bài viết này có ba phần. Phần thứ nhất viết
về việc “đạo văn”. Phần thứ hai viết về việc “làm sai lạc nội dung
tham khảo”. Phần thứ ba là kết luận. Thay mặt cho tập thể tác giả gồm
16 thành viên, chúng tôi xin trình bày việc tiếp thu và trả lời theo
từng phần.
1. Ở phần viết về “đạo văn”,
trong ba thí dụ mà tác giả bài báo nêu ra thì xin nhận ngay rằng ở thí
dụ thứ nhất, chúng tôi có lỗi nặng. Phần viết về nghề đươn (đan) đệm
chủ yếu sử dụng tài liệu của Lê Công Lý (2006), nhưng trong bản in đã
không có dẫn nguồn. Nói “trong bản in” là vì đây không phải là một sai
sót do cố ý. Ở bản kết quả trung gian được lưu vào ngày 13-8-2012, ngay ở
đoạn mở đầu phần này, chúng tôi đã dẫn tài liệu của Lê Công Lý và trong
danh mục tài liệu tham khảo có tài liệu này (hình chụp dưới đây, tất cả
những tài liệu này còn lưu giữ đầy đủ trong hồ sơ đề tài):
Tuy nhiên, trong quá trình xử lý (do nhiều người tham gia), phần
trích nguồn này đã bị rơi rụng lúc nào không rõ. Nói lên điều này, chúng
tôi không nhằm thanh minh (“án tại văn”, chúng tôi đã trực tiếp liên
lạc xin lỗi tác giả Lê Công Lý và sẽ chỉnh sửa - cùng các sai sót khác
- trong lần tái bản), mà chỉ muốn nói rằng đó là một “tai nạn nghề
nghiệp” ngoài ý muốn mà chúng tôi phải rút kinh nghiệm sâu sắc.
HAI BÀI BÁO VỀ VIỆC GS.TRẦN NGỌC THÊM VÀ NHÓM TÁC GIẢ ĐẠO VĂN
Lời dẫn của Giang Nam Lãng tử: Mời bạn đọc
2 bài báo tố cáo GS.TS Trần Ngọc Thêm, ủy viên Hội đồng lý luận trung
ương Đảng, giám đốc Trung tâm văn hóa học ứng dụng Trường Đại học
KHXH-NV TP. Hồ Chí Minh cùng nhóm tác giả đã đạo văn của nhiều nhà
nghiên cứu khác. Bài đăng trên 2 tờ báo nhà nước: Nhân dân và Thể thao văn hóa.
Bài 1 trên báo Nhân Dân điện tử:
Những câu hỏi chung quanh cuốn sách
“Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ”
Thứ sáu, 14/02/2014 – 02:28 AM
“Văn hóa
người Việt vùng Tây Nam Bộ” là đề tài nghiên cứu KHXH – NV trọng điểm
của Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, do GS, TSKH Trần Ngọc Thêm làm chủ
nhiệm, thực hiện trong hai năm 2009 – 2010.
Sau khi đề tài được nghiệm thu, năm 2013, NXB Văn hóa – Văn nghệ in thành cuốn sách Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ do GS, TSKH Trần Ngọc Thêm chủ biên. Theo tác giả Nguyễn Thanh Lợi, nhiều câu hỏi đặt ra với cuốn sách này.
Đọc cuốn sách Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ
dày 889 trang do GS, TSKH Trần Ngọc Thêm chủ biên, tôi thấy trong đó có
hiện tượng đạo văn từ kết quả nghiên cứu của rất nhiều tác giả đã công
bố về văn hóa dân gian Nam Bộ như: Huỳnh Ngọc Trảng, Nguyễn Đại Phúc,
Huỳnh Thanh Bình, Lê Công Lý, Trương Ngọc Tường, Nguyễn Thanh Lợi, Trần
Minh Thương…
Đơn cử một vài thí dụ:
1a. Bài Nghề
đươn đệm ở Đồng Tháp Mười (Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 2-2006) Lê
Công Lý viết: “Có thể nói, cây bàng là một trong những loài cây chủ đạo ở
Đồng Tháp Mười thuở còn hoang vu. Chính vì thế mà trong các tài liệu cũ
của người Pháp, Đồng Tháp Mười được gọi là “Plaine des Joncs”, tức
“Đồng cỏ lát” mà Nguyễn Đình Đầu cho rằng để đúng thực với địa lý đương
thời thì nên dịch là “Đồng Cỏ Bàng”… Theo Phạm Hoàng Hộ thì cây bàng có
tên khoa học là Lepironia articulata và được miêu tả như sau: “Căn hành
(thân dưới) cứng nằm trong bùn, to 8-10 mm; thân đứng cao khoảng 1m, có
ngấn ngang, đáy có 3-4 bẹ, bao cao 15-20 cm. Gié hoa ở chót thân, cao
1,5-2 cm, rộng đến 1cm.