Văn hóa - thay đổi bắt đầu từ những cá nhân
TTCT - Văn hóa bị bỏ quên, bị xuống cấp nghiêm trọng  trong thời buổi kim tiền? Vì sao sự dửng dưng, vô cảm nhiều thế trong  đời sống thường nhật và cái ác hiện diện ở ngay những nơi ít ngờ nhất? 
TTCT gặp nhà văn Nguyên Ngọc, nhà nghiên cứu  Phan Cẩm Thượng, tiến sĩ Nguyễn Thị Hậu (Viện Nghiên cứu phát triển  TP.HCM) và PGS.TS Trần Hữu Quang (Viện Khoa học xã hội Việt Nam) để ghi  lại góc nhìn của họ về câu chuyện văn hóa của năm qua.
 
 |  | 
 | Mỗi cá nhân có ý thức văn hóa và hành xử có văn hóa sẽ tự ngăn chặn sự tha hóa và góp phần cải biến xã hội - Ảnh: Thuận Thắng | 
Cần xây dựng lại một nền đạo đức tự trị
 
* Khi nhìn vào câu chuyện văn hóa hiện nay, ông/bà thấy điều gì đáng lo, điều gì cần được ghi nhận? 
 
- PGS.TS Trần Hữu Quang: Trong năm  qua, báo chí trong nước đã đăng tải khá nhiều sự kiện bất bình thường  như: vợ tẩm xăng đốt chồng, con nhốt cha trong cũi, đánh chết người trộm  chó, bắt cóc và tra tấn để đòi nợ, giảng viên luật bị truy tố vì chạy  án... Có thể nói, đấy là những dấu hiệu tuy ít về số lượng nhưng đã bộc  lộ một tình trạng rạn nứt đáng báo động trong sự vận hành của những tế  bào cơ bản của xã hội. 
 
Người ta không thể không tự hỏi rằng tại sao những mối  quan hệ giữa vợ với chồng, mẹ với con... lại có thể đi đến chỗ quái lạ  và kỳ dị như vậy, tại sao người ta không giải quyết xung đột bằng cách  viện nhờ đến những định chế chính thức như công an hay tòa án, tại sao  nhiều ứng xử của người dân lại bất chấp cả chuẩn mực đạo lý lẫn chuẩn  mực pháp lý đến thế... Đấy hẳn nhiên không phải chỉ là câu chuyện của  một năm qua, mà là hệ quả sự vận hành của xã hội suốt vài thập niên qua. 
 
- TS Nguyễn Thị Hậu: Tôi thấy một đời  sống văn hóa không thiếu các hoạt động, sôi nổi như thể không có (và  chẳng phản ánh) tình trạng lạm phát cao và đời sống ngày càng khó khăn.  Tiếc là ngay trong quản lý hoạt động văn hóa lại để xảy ra nhiều sự cố  “kém văn hóa”, từ vụ mất vài chục tỉ đồng của Cục Điện ảnh, kiện cáo  trong việc xét chọn giải thưởng cao, tai tiếng trong các cuộc thi người  đẹp, cử đại sứ du lịch..., báo chí - nhất là báo mạng - tràn ngập “thảm  họa” trong sinh hoạt nghệ thuật... 
 
Tất cả sự việc ấy đều cho thấy cách thức quản lý chưa  thay đổi đủ để phù hợp với thực trạng mới của đời sống văn hóa trong một  môi trường xã hội phức tạp mà chủ thể của những hoạt động văn hóa cũng  ngày càng đa dạng. Và như nhiều năm trước, sự trông đợi một thành tựu  “văn hóa đỉnh cao” trong các lĩnh vực trên vẫn còn xa vời... 
 
 |  | 
 | Nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng - Ảnh: Nguyễn Anh Tuấn | 
- Nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng: Bất  cứ ai sống ở Việt Nam đều có chút lo ngại về một đời sống văn hóa đang  có chiều hướng đi xuống. Hệ quả của nó là ứng xử nhân luân trong xã hội  có nhiều vấn đề như tai nạn giao thông, nạn tắc đường, nạn tham nhũng và  những tệ nạn dã man chưa từng có trong đời sống của người Việt. Dường  như tất cả cái đó có quan hệ lẫn nhau trong sự thiếu hiểu biết về mặt  trái của nền kinh tế thị trường, của đời sống dân chủ chưa được nâng  cao.
 
Xét riêng trong văn nghệ, có thể nói các ngành nghệ  thuật đều tích cực tìm đường đi để vừa có sáng tạo vừa có thị trường, dù  hai mặt đó không phải lúc nào cũng trùng hợp. Chúng ta vẫn thừa các  tượng đài tốn kém, các bộ phim bạc tỉ, sau đó lại “đắp chiếu”. Điện ảnh  Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc vẫn chiếm thời lượng lớn với một thứ văn  hóa xa lạ và những chuyện tình vớ vẩn nhằm quảng cáo hàng hóa. Giữa  những nghệ sĩ trẻ và già có những khoảng cách khó thông cảm. Bảo tàng  nghệ thuật hiện đại vẫn chưa có và nghệ thuật vẫn luôn phân rẽ bởi các  hoạt động bao cấp kém chất lượng, những hoạt động ngoài luồng lôi kéo  rất nhiều nghệ sĩ trẻ. 
Về cái ác và một cuộc nhìn lại bản thể
 
 | “Cần  thẳng thắn nhìn lại coi có phải nền đạo đức xã hội ở Việt Nam đang có  nguy cơ (hay đã) băng hoại, vì đã quá chú trọng những mục tiêu ngoại trị  mà bỏ quên yêu cầu xây dựng một nền đạo đức tự trị hay không. Và để có  thể làm điều này thì không phải chỉ cần xem xét lại triết lý giáo dục  trong nhà trường và gia đình, mà còn phải cải tổ cả ở quy mô rộng lớn  hơn đối với triết lý xã hội, hay nói chính xác hơn là triết lý quản lý  xã hội. Theo thiển ý của tôi, có làm như vậy may ra mới có thể kiến tạo  được nội lực thật sự của quốc gia. “Nội lực” hiểu theo nghĩa nguyên thủy  và sâu xa của từ này là một cộng đồng những chủ thể luân lý trưởng  thành và tự giác”. PGS.TS TRẦN HỮU QUANG | 
*  Nếu chỉ nhìn vào tin tức đăng tải trên truyền thông thì dễ thấy cái ác  và sự đổ lỗi cho những cá nhân ác. Nhưng sự tha hóa của con người liệu  có thể bắt đầu từ việc vượt đèn đỏ, ngồi vào chỗ của người khuyết tật  trên xe buýt hay bạt tai một đứa trẻ? 
- PGS.TS Trần Hữu Quang: Khi người ta  không còn dám trung thực thì theo tôi, đó chính là dấu hiệu ban đầu của  sự tha hóa hay sự vong thân - một thuật ngữ được dùng để diễn đạt khái  niệm alienation trong triết học. Một cách đơn giản, có thể hiểu sự tha  hóa hay vong thân là tình trạng đánh mất mình, biến thành cái gì khác,  không còn là mình nữa. Ở đây, chữ “mình” không được hiểu theo nghĩa là  tư cách cá nhân, mà là tư cách của một con người với đầy đủ tự do và ý  chí.
 
Tôi nghĩ sự tha hóa không bắt đầu từ việc vượt đèn đỏ  hay ngồi vào chỗ của người khuyết tật trên xe buýt, nhưng sự rạn nứt của  luật pháp và sự suy thoái đạo đức đúng là có thể khởi sự từ những  chuyện tưởng chừng nhỏ nhặt như vậy. Lâu nay, một số người hay lên tiếng  cổ xúy cho những mục tiêu lớn lao của thời đại, những câu chuyện đại sự  của quốc gia và dân tộc. Đấy quả là những điều cần kíp và thích đáng.  Nhưng tôi nghĩ rằng điều cấp thiết không kém là cần bắt đầu thúc đẩy sự  thay đổi từ những chuyện nhỏ, từ cá nhân và nhất là bắt đầu từ nội tâm  mỗi con người. 
 
Từ những chuyện như không đi ngược chiều hay vượt đèn  đỏ (như các cháu mẫu giáo vẫn đang phải học!), lượm một mẩu rác dưới  chân, khóa một vòi nước đang chảy phí phạm, biết chào hỏi, cảm ơn và xin  lỗi vào những lúc cần thiết... Tuy ai cũng biết nhưng dường như người  ta dễ quên rằng hễ không làm được chuyện nhỏ thì khó lòng làm nên chuyện  lớn. Coi chừng có khi chính những khẩu hiệu đại ngôn dễ khiến người ta  xem thường và bỏ qua những phẩm chất đạo lý nền tảng của bất cứ cuộc  sống xã hội nào. Do vậy có khi đấy cũng là một trong những căn nguyên  của tình trạng tha hóa hay vong thân.
 
 |  | 
 | TS Nguyễn Thị Hậu - Ảnh: Gia Tiến | 
  
 | Mỗi  cá nhân có “ý thức văn hóa” và thể hiện ý thức thành hành xử (có) văn  hóa là tự ngăn chặn sự tha hóa và “cải biến” chính mình | 
- TS Nguyễn Thị Hậu: Cái ác  bắt đầu rất đơn giản, có khi chỉ từ một lời nói nhục mạ, từ sự dửng dưng  trước tai nạn của người khác, trước bất công... chứ không đợi đến một  hành vi phạm pháp hay vô đạo đức. 
 
Mỗi ngày chỉ cần lướt qua vài trang báo là có thể thấy  vô số tin “tức” về bạo lực mà nguyên nhân nào có gì to tát. Không thể  không tự hỏi: vì sao trong xã hội bây giờ người ta nhục mạ nhau, đánh  nhau, giết nhau... dễ dàng đến thế? Vì hầu như ai cũng ngại, không muốn  can thiệp vào những việc trái tai gai mắt, “chủ nghĩa mackeno” làm mọi  giá trị đảo lộn, tốt xấu không còn phân biệt, con người trở nên dửng  dưng với cái xấu, dửng dưng cả với lẽ phải, với sự thật! Ý thức cộng  đồng đang băng hoại từ sự dửng dưng như thế! 
 
Trong đời sống xã hội hiện nay, tình trạng khủng hoảng  niềm tin vào điều thiện như những con sóng ngầm mà những hành xử vô văn  hóa chỉ là bề nổi. Mất lòng tin vì một đời sống mà những ứng xử lệch  chuẩn dần trở thành bình thường. Không phải vì giá trị của những hành vi  này thay đổi, mà vì chúng không được xã hội điều chỉnh đúng theo giá  trị văn hóa chuẩn mực.
Nhận thức được cái xấu, cái ác như thế thì việc bắt đầu  là không làm điều xấu, điều ác dù là nhỏ nhất. Mỗi hành xử tốt là loại  bỏ được một nguy cơ cái ác xuất hiện. Đồng thời đứng trước cái ác, cái  xấu chỉ có một chọn lựa là đoàn kết chống lại nó. Một người chống lại  cái xấu cần nhiều người ủng hộ và làm theo. 
Mặt khác, xã hội phải tạo điều kiện (như luật pháp, các  quy định chế tài...) để ngăn chặn cái xấu, lên án những hành vi vô văn  hóa, để ý thức văn hóa phát triển và hành xử (có) văn hóa trở nên phổ  biến trong xã hội. 
- Nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng:  Trong chiến tranh, người chết, máu chảy đầu rơi hằng ngày, nhưng có thể  nói con người Việt Nam luôn hướng thiện, luôn mong bình yên và hòa hợp.  Sau hòa bình, một cuộc chiến khác nảy sinh và lần này hình như sự khoan  nhượng biến mất. Đó là cuộc chiến việc làm, đất đai, nguồn vốn, lợi  nhuận..., sự tranh giành thấy hằng ngày, cụ thể là chiếm đường đi bằng  được trong giao thông bất kể đèn tín hiệu. 
Cuộc chiến vì lợi nhuận này chính là biểu hiện sâu sắc  của cái ác đang bị đơn giản hóa, đang được coi là bình thường. Ví dụ như  nông dân phun thuốc trừ sâu đậm đặc vào rau, hằng ngày cho gia súc ăn  thức ăn tăng trọng, dùng chất bảo quản độc hại đưa vào thực phẩm... là  những việc nhỏ, hằng ngày và thật sự giết dần giết mòn sức sống của dân  tộc. Lớn hơn là người ta biến hàng ngàn thước đất bờ xôi ruộng mật thành  nhà máy, sân golf mà thật sự chẳng vì phát triển kinh tế. Từ đứa trẻ đi  mẫu giáo đến người lớn đi làm, ai nấy cũng phải tham gia ít nhiều vào  cơ chế phong bì... 
 
Tất cả cái đó nếu gọi là cái ác thì hơi quá nhưng làm  bất ổn xã hội lâu dài, làm rối loạn nền kinh tế và đạo đức không biết  bao giờ mới chữa lại được. Chúng ta phải suy nghĩ điều này: tệ nạn,  thiện ác thì bất cứ xã hội nào cũng có, nhưng những xã hội lành mạnh,  phát triển thì cái ác và tệ nạn được kiểm soát. 
 
Nếu tệ nạn là hậu quả mặt trái của nền kinh tế thị  trường thì không thể chỉ khuyến thiện bằng giáo dục hay tôn giáo mà  được. Cái đó chỉ có thể giải quyết bằng sự điều chỉnh vĩ mô của nhà nước  đối với nền kinh tế, sao cho nó đi trong sự cạnh tranh lành mạnh, theo  luật pháp. Nếu những chủ thể kinh tế và địa phương cứ hành động tự do  theo quyền lợi cục bộ của mình, sự tha hóa có khả năng kiếm lời không ai  từ bỏ. Đương nhiên, chẳng hạn như Phật giáo với sự giáo hóa về nhân quả  có thể hạn chế những hành vi quá khích. 
 
 |  | 
 | Nụ cười của anh thợ hồ Nguyễn Vũ Trường Giang, người đã lao ra dòng  sông Sài Gòn cứu sống cô gái nhảy cầu Thủ Thiêm tự tử. Một cộng đồng  lành mạnh và khỏe khoắn bắt đầu từ những cá nhân tử tế và nhân bản -  Ảnh: Minh Đức | 
* Nhiều người cho rằng điều quan trọng trong giáo  dục hiện nay là trang bị cho mỗi người bản lĩnh, nhận thức về cái ác,  cách đối phó đúng với cái ác, để gặp ác mà không thành ác. Để có được  bản lĩnh này, chúng ta phải bắt đầu từ đâu? Chúng ta có cần một cuộc  nghiêm khắc và trung thực xét lại văn hóa dân tộc để bảo tồn và xây dựng  lại những giá trị phù hợp, thải loại những thứ đã hỏng hóc để có một  nền văn hóa Việt Nam thực thụ và độc đáo - nền tảng để nước Việt mạnh  hơn, người Việt được nể trọng hơn? Và nếu cần thì chúng ta phải bắt đầu  từ đâu?
 
- PGS.TS Trần Hữu Quang: Nhà triết học  Đức Immanuel Kant (1724-1804) từng cho rằng cần thiết lập một nền đạo  đức thực thụ trên nền tảng của nguyên tắc tự trị (Autonomie), chứ không  thể dựa trên sự ngoại trị (Heteronomie) (1). Kant phê phán lý thuyết đạo  đức học công lợi (utilitarianism) và nhiều lý thuyết đạo đức học khác,  vì ông cho rằng chúng đã ngoại tại hóa nền tảng của đạo đức bằng cách  quan niệm rằng đạo đức phải nhắm tới lợi ích hay hạnh phúc của cộng đồng  và xã hội. 
 
Theo Kant, “luân lý là tổng thể những quy luật ra mệnh  lệnh vô điều kiện để ta phải hành động theo chúng”. Đạo đức học tự trị  là “một đạo đức học của lý tính”, nghĩa là các mệnh lệnh đạo đức phải  bắt nguồn từ lý tính (tự mỗi chủ thể phải “ban bố” quy luật đạo đức cho  chính mình), chứ không phải là những quy luật bắt nguồn từ kinh nghiệm,  vì kinh nghiệm thì không thể mang tính phổ quát và tất yếu, do đó không  thể lấy kết quả hay sự thành công làm tiêu chuẩn hay thước đo của đạo  đức. 
Mệnh lệnh nhất quyết (kategorischer Imperativ), theo  Kant, là cái mà ta phải làm do lý tính buộc chúng ta phải làm (vì thấy  điều phải làm là đúng, là thiện), chứ không phải vì bất cứ lý do hay  động cơ, hoặc mục tiêu lợi ích nào đó nằm ở bên ngoài lý tính. Cần lưu ý  thêm rằng Kant không phủ nhận yếu tố kết quả của hành động, nhưng ông  không coi đấy là nền tảng của hành vi đạo đức.
Tôi nghĩ rằng tư tưởng của Kant về nền tảng của một nền  đạo đức thực thụ, đặc biệt sự phân biệt giữa nguyên tắc ngoại trị và  nguyên tắc tự trị, là hết sức quan trọng và cần được chúng ta đọc lại  như một cái khung lý thuyết để phân tích những vấn nạn nóng bỏng của xã  hội bây giờ như bệnh thành tích, thói chuộng hư danh, tệ giả dối, óc  thực dụng, tệ cẩu thả (thiếu lương tâm chức nghiệp), sự nghèo nàn và  trống rỗng trong đời sống tinh thần... nhằm từ đó đi tìm gốc rễ của  những câu chuyện “đáng lo ngại” đang xâm thực xã hội chúng ta. 
 
- TS Nguyễn Thị Hậu: Nhiều người trong  chúng ta bây giờ không còn tự hào “mình nghèo mà giỏi”, ngược lại luôn  tự hỏi “sao mình giỏi mà nghèo?”. Cũng như không chỉ ca ngợi những  truyền thống tốt đẹp mà còn biết trăn trở “vì sao truyền thống của mình  tốt đẹp mà bây giờ lại tha hóa như vậy?”. 
Tôi cho rằng có lẽ cần phải nhìn nhận thấu đáo hơn về  những đặc điểm tạo thành “tính cách văn hóa” của con người và truyền  thống dân tộc mình. Cần biết mình rõ hơn, thật hơn, vì không biết mình  đầu tiên là làm khổ chính mình, sau đó sẽ cản trở làm mình “không biết  người”, dẫn đến luôn thua kém người. Nên chăng bắt đầu từ việc vạch ra  những gì làm chúng ta chưa thật sự tốt đẹp?
 
- Nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng: Nói  đến sự hùng cường là mơ hồ quá khi chúng ta vay nợ nhiều, lạm phát,  thiếu việc làm trầm trọng. Để phát triển đất nước không chỉ là tăng  trưởng kinh tế bằng mọi cách, mà phải đi song hành giữa kinh tế và văn  hóa. Bản thân văn hóa trong một xã hội phát triển cũng có khả năng tạo  ra kinh tế, là một phần của hoạt động kinh tế. Thị trường văn hóa càng  lớn tức là xã hội càng phát triển, thay thế những ngành công nghiệp ô  nhiễm bằng công nghiệp phim ảnh, thể thao, nghệ thuật.
 
 
Tôi nghĩ cơ chế kiểm duyệt hoạt động văn hóa nghệ thuật  phải xem xét lại, làm sao thúc đẩy hoạt động văn hóa tiến nhanh vào cơ  chế thị trường. Giai đoạn đầu phải ưu tiên cho nó phát triển, phải  khuyến khích các doanh nghiệp tham gia đầu tư vào văn hóa.
 
 | * Theo ông, vì sao chúng ta ngày càng thấy nhiều  hơn những biểu hiện khác nhau cho một tâm trạng xã hội có phần tránh né,  chấp nhận giả dối, thiếu vắng những cuộc nói thẳng nói thật có tính cải  biến xã hội?   
 |  |   | PGS.TS Trần Hữu Quang - Ảnh: Cẩm Phan |  
 - PGS.TS Trần Hữu Quang: Khi mà người  ta chứng kiến ngày càng nhiều chuyện bất bình thường trở thành bình  thường (như tệ phong bì, đút lót, mãi lộ...), khi mà cái xấu, cái tiêu  cực và cái ác ngày càng lan tràn, điều khó tránh khỏi là người ta cảm  thấy băn khoăn và hoang mang (ít ra vào lúc đầu), để rồi sau đó khi buộc  lòng phải “sống chung” với nó (vì muốn cưỡng lại cũng không được) và  riết rồi người ta đâm ra quen với nó.  
   Nguy cơ cần suy ngẫm ở đây là nguy cơ bình thường hóa  cái bất thường, không chỉ về mặt cấu trúc xã hội mà cả về mặt chủ quan  nơi tâm thức cá nhân người dân và kể cả (hay nhất là) nơi cá nhân công  chức. Sống trong tình trạng này, nhiều người có thể căm ghét nó, rồi do  quá mệt mỏi với nó nên đâm ra bàng quan với nó, nhưng cũng có những kẻ  tận dụng sự tranh tối tranh sáng ấy để thủ lợi, kẻ thì chủ động, kẻ thì  thôi đành nhắm mắt đưa chân... Điều nghịch lý là chính kẻ vi phạm lại  thu được nhiều lợi hơn, còn người ngay thường thua thiệt... 
   Tại sao người ta lại có thái độ tránh né, chấp nhận sự  giả dối, không dám nói thẳng nói thật? Nhìn bề ngoài, dễ lý giải đó là  do cái tiêu cực, cái bất bình thường và cái xấu đã trở nên phổ biến.  Nhưng nhìn sâu vào nội tâm mỗi người, đó là do tình trạng suy thoái đạo  đức và xói mòn luật pháp dẫn tới hệ quả hoài nghi cả các giá trị đạo đức  xã hội lẫn các chuẩn mực pháp lý.  
   Khi người ta không còn tin thì nói thật để làm gì? Cái  nguy ở đây là sự giả dối nói riêng và những nghịch lý nói chung được mọi  người coi là bình thường, “chuyện nhỏ như con thỏ”! Hậu quả nghiêm  trọng của tâm trạng hoài nghi xã hội, xét về mặt xã hội học, đó là xói  mòn cả lòng tin đối với người khác, lòng tin vào xã hội và nhất là lòng  tin vào chính mình. 
 | 
PHAN XUÂN LOAN - CẨM PHAN thực hiện
__________
(1) Xem Immanuel Kant, Phê phán lý tính thực hành  (Đạo đức học) (1788), Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải, Hà Nội, Nxb Tri  Thức, 2007.
__________
Cần một cuộc tự vấn
Cái được nhất về văn hóa và xã hội trong năm qua của  chúng ta đã đến vào gần cuối năm: ba học sinh lớp 11, tức khoảng 15 hay  16 tuổi, ở Quảng Ngãi hi sinh thân mình cứu bạn bị lũ cuốn trôi. Cũng ở  Quảng Ngãi, một học sinh lớp 7 vì xả thân cứu người trong lũ nay bị chấn  thương nặng, chỉ còn sống cuộc đời thực vật.
 
 
Gần đây, trong vụ chìm phà bi thảm ở huyện Núi Thành,  Quảng Nam, liều chết cứu người là hai em nhỏ, một em học lớp 10, em thứ  hai sinh năm 1989... Không quá lời đâu khi nói các em không chỉ cứu  những người bị dòng nước hung dữ nhấn chìm mà còn cứu chúng ta, vực  chúng ta dậy khi chúng ta đã, đang có rất nhiều bi quan về xã hội và con  người.
 
 |  | 
 | Nhà văn Nguyên Ngọc - Ảnh: Thuận Thắng | 
Chuyện hai chiếc xe thản nhiên cán qua người một em bé,  rồi hơn chục người lớn thuộc đủ thành phần xã hội dửng dưng đi qua dù  xảy ra ở bên Trung Quốc nhưng thôi thì nên nói thật đi, ở ta, trong  những mức độ khác nhau, không thiếu những chuyện tương tự... May thay,  cái “lì” đó còn chưa kịp lan đến phần nhiều trẻ em (không biết có ai để ý  điều này không: các em vừa kể trên hầu hết đều ở những vùng có thể gọi  là vùng sâu vùng xa về cái gọi là văn hóa).
 
Vậy có một câu hỏi tiếp: Cái “lì” kia là thế nào và vì  sao? Đấy là một trạng thái chán chường sâu sắc và mênh mông về đạo đức  xâm chiếm mọi con người. Bởi càng ngày người ta càng thấy vây kín quanh  mình, ở bất cứ đâu, trong bất cứ chuyện gì, va vào đâu cũng gặp một thứ,  theo mọi kiểu, trắng trợn hay tinh vi: giả dối. 
 
Tôi cho rằng căn bệnh nặng nhất, chí tử nhất, toàn diện  nhất của xã hội ta hiện nay là bệnh giả dối. Chính cái giả dối tràn lan  khiến người ta không còn thật sự tin vào bất cứ điều gì nữa. Câu hỏi  thường trực bây giờ: Tốt để làm gì? Sạch để làm gì? Quên mình để làm gì?  Xả thân chống lại cái xấu, cái giả để làm gì? Liệu rồi có ai, có cơ chế  nào bảo vệ những nỗ lực đạo đức đó không? Hay thậm chí bị cả cơ chế  quật đánh lại như vẫn thấy không hề ít? 
 
Trẻ em, một bộ phận trẻ em, may thay còn chưa biết đặt  ra những câu hỏi như vậy. Đạo đức trước hết là một trạng thái vô tư. Mà  người lớn thì không còn có thể vô tư được. 
 
Vậy lúc này ở cấp độ cá nhân, dù một cách cô đơn, cũng  phải dám tự mình cưỡng lại cái “lì” kia, với một niềm tin rằng giả dối  không phải là trạng thái tự nhiên của xã hội và con người. Còn ở cấp độ  vĩ mô cần một sự phản tư toàn diện và thẳng thắn, cố gắng triệt để. Cách  đây mười mấy năm, tôi có lần nói về yêu cầu tự vấn, của xã hội và của  dân tộc. Hôm nay TTCT nói đến yêu cầu “nghiêm túc xét lại văn hóa dân  tộc”, tức một cuộc tự vấn về xa tận đâu đó trong đường dài lịch sử dân  tộc, “bản thể” của nó.
 
 
Tôi cũng đồng ý cần có một cuộc trở về nghiêm túc, đến  nơi đến chốn như vậy. Dân tộc bên cạnh những điều mãi mãi đáng tự hào  quả cũng có những nhược điểm, hình thành lâu dài trong lịch sử, cần được  nhìn thẳng. Song tôi cũng không quá bi quan về dân tộc.
NGUYÊN NGỌC