HÃY ĐỂ HỒN CỦA NHỮNG NGÔI LÀNG ĐƯỢC YÊN !!!
Bài: Bùi Xuân Đính
Bài: Bùi Xuân Đính
Nhiều trang MXH mấy hôm nay được tin, bài bình luận về việc sắp tới sẽ tiến hành sáp nhập các làng/thôn để trở thành các thôn có quy mô lớn hơn, đâp ứng được yêu cầu quản lý trong điều kiện của chính quyền địa phương hai cấp, nhất là cấp xã được mở rộng bằng 3- 4 lần so với trước đây.
Trong tình hình đó, rất nhiều làng không còn tên, đội ngũ cán bộ cũng như nếp làm việc, sinh hoạt và nhiều khía cạnh khác của các làng quê bị xáo trộn, đang gây ra những lo lắng cho người dân của các cộng đồng dân cư này.
Chưa rõ phương án, kế hoạch cụ thể của việc sáp nhập này ra sao. Là một người bao năm gắn bó với đề tài “Làng Việt cổ truyền”, tôi xin nêu vài ý kiến.
1. Các nghiên cứu về Sử học và Dân tộc học đã chỉ rõ, đa số làng Việt hình thành thành từ rất sớm, trước cả khi các Vua Hùng dựng nước, bắt đầu từ các cộng đồng dân cư được gọi là “Kẻ”, đi kèm với một từ Nôm khác, thường khó xác định chính xác ngữ nghĩa, như Kẻ Noi, Kẻ Cót, Kẻ Mọc, Kẻ Láng; về sau được phiên âm ra từ Hán -Việt dùng trong giấy từ hành chính, như Kẻ Noi (Cổ Nhuế), Kẻ Cót (Yên Quyết), Kẻ Mọc (Nhân Mục), Kẻ Láng (Yên Lãng) và quê tôi: Kẻ Than (Thạch Thán). Từ các đơn vị dân cư nhỏ, dần dần gia tăng về dân số, ổn định về địa vực, vững về kinh tế, hoàn chỉnh về cơ cấu tổ chức, phong tục, mà trở thành làng Việt, với HỒN riêng, thể hiện ở cấu trúc vật chất (cổng làng, đường làng ngõ xóm, hệ thống các di tích thờ cúng), các thiết chế xã hội, các phong tục tập quán, lễ thức thờ cúng, hội làng, các lề thói sinh hoạt… Và các khía cạnh đó được cô đúc lại trong TÊN LÀNG. Nói một cách khác, chỉ cần nhắc đến tên làng, người ta đã hình dung được những điểm riêng có, nổi bật nhất của cộng đồng dân cư đó. Tên làng như là một chỉ dẫn bao quát nhất về các khía cạnh của làng (địa lý, lịch sử, nghề nghiệp, truyền thống học hành - khoa cử, truyền thống giữ nước và cả truyền thống cách mạng sau này), in đậm trong tâm tư, tình cảm của bao thế hệ người làng; tạo ra niềm tự hào, ý thức gắn bó với cộng đồng, ý thức sống, lao động và phấn đấu của mỗi người dân sinh ra và lớn lên từ các làng quê đó. Và bao thế hệ dân làng đã sẵn sàng đổ máu, hy sinh để giữ làng, giữ tên làng.
Theo thời gian, bất chấp những tác động của chiến tranh xâm lược, nội chiến và thiên tai, làng vẫn tồn tại với HỒN riêng, mạch sống riêng. Chính bởi thế, rất nhiều làng dù nhỏ về diện tích và ít về dân số, nhưng vẫn “quyết” đứng riêng thành một xã, nếu đã bị sáp nhập vào xã với làng khác thì quyết “chạy biệt xã”. Tình hình này tiếp diễn đến sát cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945.
Từ Cách mạng Tháng Tám 1945 trở đi, làng Việt đã trải qua nhiều cuộc sắp xếp lại các đơn vị hành chính cấp cơ sở. Rồi việc thành lập HTX nông nghiệp quy mô toàn xã, tên làng có lúc tưởng như biến mất. Nhưng dường như, nhờ HỒN làng níu lại, mà làng vẫn tỏ rõ sức sống mãnh liệt (với việc lập lại cấp thôn, từ cuối thập niên 1990, dựa trên quy mô làng). Và từ đó, với công cuộc đổi mới được tiếp tục, làng từng bước thay da đổi thịt về chất.
2. Sắp xếp lại các đơn vị dân cư cho phù hợp với điều kiện quản lý hành chính hiện nay là điều tất yếu. Nhưng sắp xếp như thế nào thì cần phải đặc biệt lưu ý đến hai điểm căn cốt:
+ Trước hết, cần lưu ý đến quy mô thôn/làng về dân số. Trước tháng 8/1945, dân số bình quân một làng chỉ 910 người (theo Nhà địa lý học người Pháp Pièrre Gourou). Ngày nay, dân số của đa số các làng đã tăng lên gấp ba, đạt bình quân từ 3.000 - 4.000 người (nhiều địa phương đã phải chia nhỏ làng thành các “thôn” để tiện cho quản lý và giải quyết chế độ cho cán bộ). Thiết nghĩ, quy mô dân số đó vừa đủ, vừa tầm cho các điều kiện về cơ sở hạ tầng, trình độ quản lý của cán bộ thôn làng, không cần thiết phải sáp nhập với các thôn/làng khác. Nếu nhập với làng khác sẽ bất ổn về mọi phương diện, nhất là về tâm lý của cư dân. Cũng cần lưu ý rằng, phải nhìn thôn làng trong sự phát triển, phải tính đến dân số của làng trong 10 năm tới, không thể chỉ nhìn vào dân số hôm nay. Chỉ sáp nhập các thôn làng có quy mô nhỏ (dưới 2.000 dân).
+ Thứ hai, cần lưu ý đến các khía cạnh lịch sử - văn hóa của làng, phải giữ bằng được tên làng, dù mang tên “Thôn” hay “Tổ dân phố”, dứt khoát không gọi theo con số số học. Bởi, như đã nêu ở trên, tên làng hàm chứa cả các đặc điểm lịch sử - văn hóa của mỗi cộng đồng cư dân; còn tên số học (thôn 1, thôn 2, thôn 3 …) là khô khốc, vô hồn, vô cảm. Xã nào mà cũng chỉ gồm các thôn với tên như thế, thì đâu rồi, cả truyền thống lịch sử - văn hóa của mỗi cộng đồng dân cư? Là phủ nhận cả bao công lao gây dựng, bồi đắp và gìn giữ của các thế hệ dân làng.
Có người bảo, lo để làng giàu có không lo, lo mất tên làng làm gì? Thưa vâng, làm cho làng giàu đẹp và văn minh là nhiệm vụ, là trọng trách của chúng ta hôm nay và các lớp cháu con kế tiếp; nhưng đi đôi với việc lo cho có cuộc sống tốt đẹp hơn cả về vật chất và tinh thần, chúng ta và lớp lớp con cháu mai sau còn có trọng trách gìn giữ những giá trị tốt đẹp của truyền thống của làng, thể hiện ở HỒN LÀNG, TÊN LÀNG. Sống trong một vùng đất mà cuộc sống dù phong túc, nhưng con cháu chẳng hiểu gì về giá trị, truyền thống văn hóa thì liệu có cân bằng?
B.X.Đ

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét