Hiển thị các bài đăng có nhãn trao đổi. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn trao đổi. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 10 tháng 3, 2018

TS TRẦN TRỌNG DƯƠNG TRẢ LỜI HỌC GIẢ AN CHI


Mỗi chữ là một lần tri ân: 
Thư cảm ơn học giả An Chi  

Trần Trọng Dương
Chủ Nhật, 25 tháng 2, 2018 
Tễu Blog: Xin xem lại bài của học giả An Chi, phê bình cuốn sách Khảo cứu từ điển song ngữ Hán Việt Nhật dụng thường đàm của Phạm Đình Hổ (Nxb Văn học, Hà Nội, 2016) do TS Trần Trọng Dương biên soạn, tại đây:
https://xuandienhannom.blogspot.com/2018/01/hoc-gia-chi-phe-binh-cuon-sach-cua-ts.html
*CHÚ Ý: Do giao diện BLOG có giới hạn về trình bày và bài hơi dài (gần 25.000 lượt chữ), nên quý vị có thể download toàn bài của chúng tôi ở đây:

Thứ Sáu, 2 tháng 2, 2018

Tranh luận: CÓ THẬT VUA QUANG TRUNG SANG TRUNG HOA NĂM 1790?


Xưa và Nay:

Có thực người sang Trung Hoa năm 1790 

là hoàng đế Quang Trung? 

Nguyễn Thanh Tuyền
Vài trao đổi với học giả Nguyễn Duy Chính
 


Năm 2016, Nhà xuất bản Văn hóa –  Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh cho ra mắt bạn đọc quyển sách nhan đề Giở lại một nghi án lịch sử “Giả Vương nhập cận” – Có thực người sang Trung Hoa là vua Quang Trung giả hay không? của học giả Nguyễn Duy Chính. Tác giả là người rất đam mê khám phá lịch sử Việt Nam thời cổ. Với vốn ngoại ngữ (Anh, Pháp) thành thạo và khả năng Hán học  vững vàng, Nguyễn Duy Chính đã dành nhiều tâm sức tìm hiểu, làm rõ  một số khía cạnh của lịch sử Việt Nam thời trung đại, đặc biệt là giai đoạn cuối thế kỷ XVIII liên quan đến vương triều Tây Sơn. Quá trình tìm hiểu, khám phá sử Việt của ông được cụ thể hóa thành nhiều bài viết đăng trên Tạp chí Xưa&Nay, được  xuất bản thành nhiều đầu sách khác nhau. Đó là  điều đáng trân trọng về một người  đầy tâm huyết  với khoa  học lịch sử, có ý thức tìm về cội nguồn, dụng tâm soi sáng các vấn đề lịch sử bằng những nguồn tài liệu mới và hiếm quý.

Thứ Bảy, 28 tháng 5, 2016

VÀI TRAO ĐỔI QUANH CHUYỆN HƯỚNG DẪN ÔNG OBAMA THĂM CHÙA

Giáo sư Dương Ngọc Dũng giải thích cho Tổng thống Obama về ý nghĩa
 của việc thắp ba cây nhang. Ảnh: Hải An.

Lời dẫn của Tễu Blog: Báo Zing.vn đăng bài “Người hướng dẫn ông Obama ở chùa Ngọc Hoàng kể gì?” vào ngày 25/05/2016, viết về tiến sĩ khoa Tôn giáo học Dương Ngọc Dũng là người hướng dẫn ông Obama ở chùa Ngọc Hoàng.


Ông Dương Ngọc Dũng tốt nghiệp Thạc sĩ khoa Đông Á học tại Đại học Harvard (Mỹ) năm 1995, tốt nghiệp Tiến sĩ khoa Tôn giáo học tại Đại học Boston (Mỹ) năm 2001, tốt nghiệp MBA của United Business Institute (Bỉ) năm 2007.

Thứ Sáu, 20 tháng 11, 2015

VỀ VIỆC ÔNG BAN KI MOON THĂM NHÀ THỜ VÀ BÁI TỔ HỌ PHAN


TRAO ĐỔI VỚI ÔNG TRẦN THẾ KỶ:
Về việc ông Ban Ki Moon thăm nhà thờ và bái tổ họ Phan
ở Sài Sơn, Quốc Oai, Hà Nội

Phùng Hoài Ngọc 

Nhân đọc bài viết của ông Trần Thế Kỷ “Tin nên tin: Nếu ông Ban Ki Moon là anh hốt rác” đăng trên VNTB (Việt Nam Thời Báo) ngày 15/11, chúng tôi thấy ông Kỷ đã hiểu lầm lung tung. Vậy xin có mấy lời trao đổi cùng tác giả.

Thứ Hai, 3 tháng 8, 2015

THẢO LUẬN VỚI GIÁO SƯ LIAM C KELLEY VỀ TRIẾT GIA KIM ĐỊNH

THẢO LUẬN VỚI GIÁO SƯ LIAM C KELLEY 
VỀ TRIẾT GIA KIM ĐỊNH

Hà Văn Thùy 


Ông Hà Văn Thùy
Từ Cali, nhà nghiên cứu Việt Nhân Nguyễn Cảnh Hậu chuyển cho tôi bài viết của Giáo sư L.C.Kelley về học giả Kim Định, qua bản dịch của Trà Mi, nhan đề: “Sử gia lớn nhất (không ai biết đến/không được công nhận) của Việt Nam.”* Ông không quên kèm theo nhận xét: “Ông này chỉ mới nhận được cái ngọn mà chưa hiểu tận cái gốc của Con Người và Tinh thần Dân tộc Việt Nam. Kim Định nhờ tinh thần triết học Đông phương tức là triết lý An Vi mới khai quật lên được nền Văn hoá độc đáo Việt Nam. Kim Định không phải là một sử gia.”

Đồng ý với nhà Kim Định học lão thành, tôi cho rằng, Kim Định không phải là sử gia. Bởi lẽ, mở đầu cuốn sử của mình, ông viết: “ Sống sót sau bốn lần băng giá, khoảng 500.000 năm trước, loài người tập trung ở phía nam dải Thiên Sơn. Những người đi về phía tây trở thành tổ tiên người da trắng. Người đi về phía đông trở thành tổ tiên các tộc người Việt, Hán, Hồi, Mông, Mãn. Người Việt theo ngọn sông Dương Tử vào chiếm 18 tỉnh của Trung Quốc. Người Hán theo phương thức du mục lang thang trên cao nguyên Thanh Hải lúc đó còn là phúc địa. Về sau vượt sông Hoàng Hà vào chiếm đất của người Việt…” “Người Hán đuổi người Việt chạy có cờ qua sông Dương Tử rồi quay về chế ra chữ Việt bộ Tẩu phỉ báng người Việt.”

Thứ Hai, 16 tháng 9, 2013

Mai Thái Lĩnh: THÁC BẢN GIỐC - NHỮNG CĂN CỨ PHÁP LÝ

Thác Bản Giốc - Những căn cứ pháp lý
(Phản biện bài trả lời của ông Trần Công Trục [1])

Mai Thái Lĩnh

Trước hết, tôi ghi nhận thiện ý của ông Trần Công Trục khi ông viết: “tôi mong muốn thông qua quá trình trao đổi, đối thoại để thu hẹp khoảng cách trong nhận thức xã hội về vấn đề chủ quyền lãnh thổ sao cho có lợi nhất cho công cuộc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ hợp pháp của quốc gia, dân tộc, đặc biệt trong bối cảnh căng thẳng trên Biển Đông ngày càng gia tăng và tiềm ẩn những nhân tố khó lường.”

Tuy nhiên, để có thể “thu hẹp khoảng cách” trong nhận thức của xã hội về vấn đề chủ quyền lãnh thổ, chúng ta không thể dựa trên ý chí của từng cá nhân, từng nhóm người hay thậm chí dựa trên ý chí của một đảng chính trị – cho dù đảng đó đang nắm giữ bộ máy Nhà nước. Khoảng cách đó chỉ có thể được thu hẹp và tạo nên sự đồng thuận một khi dựa trên quyền lợi chung của toàn dân tộc, và nhất là phải tôn trọng sự thật. Ngày nay, với phương tiện truyền thông có tính toàn cầu, không thể bưng bít sự thật hay tìm cách khuôn sự thật theo ý muốn của một cá nhân hay một nhóm người nào cả.

Về những bằng chứng lịch sử liên quan đến Thác Bản Giốc, tôi có một cách nhìn hoàn toàn khác với ông Trần Công Trục, bởi vì đối với đường biên giới Việt-Trung – vốn là một đường biên giới có lịch sử lâu đời và có liên quan đến sự tồn vong của dân tộc ta, đất nước ta, không thể không đề cập đến phương diện lịch sử. Hơn thế nữa, những bằng chứng lịch sử đó có từ rất lâu – trước khi Đảng Cộng sản nắm chính quyền trên toàn miền Bắc, thậm chí trước khi Đảng Cộng sản ra đời, vì thế không thể nói rằng đó là kết quả của “hệ thống tài liệu tuyên truyền chính thức” trong giai đoạn cuối thập niên 1970 – khi quan hệ giữa hai nước trở nên căng thẳng. Chính vì lẽ đó, tôi đã giới thiệu lại các bài viết của ông Diệp Đình Huyên (tức Hàn Vĩnh Diệp) để chứng minh rằng “Thác Bản Giốc hoàn toàn thuộc về Việt Nam” từ rất lâu và suốt trong thời kỳ quan hệ giữa hai nước vẫn còn hữu hảo, phía Trung Quốc không hề thắc mắc gì về “sự thật” này. Hơn thế nữa, nếu Việt Nam thật sự là một quốc gia dân chủ bảo đảm đầy đủ quyền tự do ngôn luận cho mọi công dân thì sẽ có rất nhiều người noi gương ông Diệp Đình Huyên sẵn sàng đứng ra làm nhân chứng cho “sự thật” đó.

Trong phạm vi của bài phản biện này, tôi tạm thời gác lại khía cạnh lịch sử của chủ đề “Thác Bản Giốc”, để tập trung bàn về những căn cứ pháp lý.

1) Tại sao các tài liệu liên quan đến Thác Bản Giốc và Cồn Pò Thoong không được mang đi đàm phán?

Ông Trần Công Trục viết: “Về nguyên tắc chung tôi đã nói rõ trong bài phỏng vấn ngày 3/9 trên Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam cũng như nhiều lần đã phân tích, các tài liệu ông Lĩnh nêu ra trên đây mặc dù là tài liệu chính thức của các cơ quan nhà nước Việt Nam ban hành công khai và rộng rãi thời kỳ những năm 1979 nhưng không được xem là “căn cứ pháp lý” được thỏa thuận để làm cơ sở giải quyết tranh chấp biên giới phía Bắc, vì rõ ràng các tài liệu này không phải là bộ phận cấu thành của Công ước Pháp – Thanh 1887, 1895 mà 2 nước Việt Nam, Trung Quốc đã thỏa thuận lấy làm căn cứ pháp lý để hai bên tiến hành hoạch định biên giới.”

Như vậy, theo ông Trục, các tài liệu này không được sử dụng vì “không phải là bộ phận cấu thành của Công ước Pháp – Thanh 1887, 1895 mà 2 nước Việt Nam, Trung Quốc đã thỏa thuận lấy làm căn cứ pháp lý để bai bên tiến hành hoạch định biên giới.”

Thế nhưng, việc lấy hai công ước Pháp-Thanh 1887 và 1895 để làm cơ sở đàm phán trong vấn đề biên giới không phải là điều mới mẻ. Theo cuốn VĐBG (Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc) [2] thì vào năm 1977, để phá vỡ thế bế tắc trong đàm phán biên giới, phía Việt Nam đã đưa ra một “dự thảo hiệp định” [3], trong đó điều 1 có nội dung như sau:

[Điều 1] Hai bên chính thức xác nhận đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được hoạch định và cắm mốc theo các văn kiện về biên giới ký kết giữa Chính phủ Cộng hoà Pháp và Chính phủ nhà Thanh Trung Quốc là đường biên giới quốc gia giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. 

Các văn kiện biên giới đó gồm có: (1) Công ước về hoạch định biên giới giữa Bắc Kỳ và Trung Quốc ký ngày 26 tháng 6 năm 1887, với các biên bản và bản đồ hoạch định kèm theo. (2) Công ước bổ sung Công ước về hoạch định biên giới giữa Bắc Kỳ và Trung Quốc ngày 26 tháng 6 năm 1887, ký ngày 20 tháng 6 năm 1895, với các biên bản và bản đồ hoạch định kèm theo. (3) Các biên bản và bản đồ cắm mốc thực hiện hai Công ước nói trên ký kết từ ngày 15 tháng 4 năm 1890 đến ngày 13 tháng 6 năm 1897, ngày hoàn thành việc cắm mốc đoạn đường biên giới giữa Bắc Kỳ (Việt Nam) và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Trong các điều khoản sau đây, các văn kiện về biên giới nói trên được gọi tắt là “ Công ước 1887 và Công ước 1895”.

Nội dung này không có gì khác với “nguyên tắc chung” mà ông Trần Công Trục nêu ra.

Vấn đề đặt ra là: tại sao dựa vào điều khoản căn bản đó, Bộ Ngoại giao Việt Nam vào cuối thập niên 1970 vẫn có đủ căn cứ pháp lý để khẳng định rằng phía Trung Quốc đã “vi phạm ngày càng nghiêm trọng sự thoả thuận đó và không tôn trọng nguyên tắc giữ nguyên trạng đường biên giới do lịch sử để lại, và đã lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam ở 90 điểm trên toàn tuyến biên giới Việt Trung từ 1949 đến nay.”? [4] Bất cứ ai đọc được điều này cũng có thể đặt câu hỏi: Bộ Ngoại giao Việt Nam vào thời kỳ đó đã căn cứ vào hệ thống bản đồ nào và những chứng cứ pháp lý nào để khẳng định Trung Quốc vi phạm đường biên giới?

Mặt khác, ông Trần Công Trục lại viết: “Tôi không phủ nhận những giá trị của các tài liệu chính thức của ta mà ông Mai Thái Lĩnh đề cập, nhưng nó chỉ có giá trị trong thời điểm đó và bối cảnh đó, những tài liệu như vậy không thể mang đi đàm phán.”

Điều này quả thật rất khó hiểu. Hãy lấy một ví dụ: các tài liệu chứng minh “vào năm 1976 Trung Quốc đã dùng vũ lực xâm chiếm cồn Pò Thoong – một địa điểm hoàn toàn thuộc chủ quyền của Việt Nam” thì cho dù vào năm 1979 hay vào năm 1999 cũng đều có giá trị như nhau chứ sao lại “chỉ có giá trị vào năm 1979” và đến thập niên 1990 lại “không thể mang đi đàm phán”?

Để hiểu rõ vấn đề này, có lẽ chúng ta cần phải tìm hiểu ý nghĩa của các tài liệu mà tôi nêu ra trong bài “Sự thật về Thác Bản Giốc”:

- Tài liệu 1 về việc Trung Quốc đã “sửa bản đồ” vào năm 1955-56 để âm mưu chiếm cồn Pò Thoong và một phần Thác Bản Giốc: đây chính là bằng chứng về việc Trung Quốc đã sửa chữa bản đồ, làm sai lạc vị trí của cột mốc 53; nói cách khác qua tài liệu này chúng ta được biết cột mốc 53 nằm ở vị trí khác chứ không phải nằm ở vị trí của cột mốc 835 (mới) hiện nay (xem bản đồ – hình 1 và hình 2):

15.png
Hình 1: Sơ đồ Thác Bản Giốc được phân chia lại


Thứ Năm, 22 tháng 8, 2013

ĐÃ CÓ ĐỦ CĂN CỨ PHÁP LUẬT CHO SỰ RA ĐỜI CỦA NHỮNG CHÍNH ĐẢNG MỚI

CÓ ĐỦ CĂN CỨ PHÁP LUẬT CHO SỰ RA ĐỜI 
CỦA NHỮNG CHÍNH ĐẢNG MỚI 

Phạm Đình Trọng

Nhà văn Phạm Đình Trọng
Trả lời phóng viên đài BBC, ông giáo sư Vũ Minh Giang, thành viên hội đồng Lý luận Trung ương cho rằng: “Đề xuất việc thành lập đảng chính trị, nhất lại là đề xuất của những người đang là đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam thì đấy là nguyện vọng nào đó, mong muốn nào đó của cá nhân hay nhóm cá nhân nào đó...nhưng mong muốn đó phải nằm trong khuôn khổ pháp luật... Theo hiểu biết của tôi thì chưa có hệ thống (pháp luật) đó” Và “Nhiều thành phần kinh tế phải có đa nguyên đa đảng chỉ là logic hình thức”. *

Ấp úng, quanh co, ông giáo sư trong Hội đồng lí luận Trung ương nói rất dài cũng chỉ đưa ra một nội dung rất ngắn và hồ đồ là: Chưa có căn cứ pháp lí cho việc thành lập chính đảng mới.

Thưa nhà lí luận của Đảng và Nhà nước Cộng sản Việt Nam, giáo sư Vũ Minh Giang.

Với một thể chế, một xã hội lành mạnh và tử tế thì Nhà nước và pháp luật được hình thành theo một qui trình: Nhân dân lựa chọn và bầu cử ra những người quản lí xã hội được gọi là Nhà nước và Nhân Dân trao quyền cho Nhà nước để thực hiện chức trách trước Nhân Dân.

Kẻ có quyền thường lạm quyền để vụ lợi và áp bức người Dân thân cô thế yếu. Từ đó pháp luật phải ra đời. Nhà nước lại được người Dân ủy quyền soạn thảo ra pháp luật để quản lí xã hội và điều quan trọng hơn cả của pháp luật là ngăn chặn sự lạm quyền của kẻ cầm quyền để bảo vệ người Dân thấp cổ bé họng. Để bảo vệ người Dân, nguyên tắc thực thi pháp luật là: Quan chức chỉ được làm những việc pháp luật cho phép còn người Dân được làm mọi việc pháp luật không cấm.

THƯA GS. VŨ MINH GIANG, ĐẢNG CSVN HOẠT ĐỘNG TRÊN CƠ SỞ PHÁP LÝ NÀO?

 
Thưa ông Vũ Minh Giang,  
Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trên cơ sở pháp lý nào?*
Hoàng Xuân Phú
Hiến pháp 1992 có năm lần nhắc đến từ "Đảng", trong đó có ba lần ở "Lời nói đầu“, hai lần đề cập đến lịch sử và công lao của Đảng CSVN, lần thứ ba trong câu:
"Hiến pháp này... thể chế hoá mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý.
Hai lần còn lại là ở Điều 4, nguyên văn như sau:
"Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Như vậy, mặc dù Hiến pháp 1992 khẳng định "Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, nhưng trong toàn bộ văn bản Hiến pháp không có quy định cụ thể nào về khuôn khổ mà Đảng CSVN được phép hoạt động, và cho đến nay vẫn chưa có "Luật về Đảng“ (hay tương tự) để quy định về quyền hạn, trách nhiệm, phạm vi và hình thức hoạt động của Đảng, cũng như hình thức xử lý khi tổ chức Đảng vi phạm Hiến pháp và pháp luật. Rõ ràng, xét về lô-gíc, tính hợp pháp của việc "Công dân... biểu tình theo quy định của pháp luật“ khi chưa có Luật biểu tình không hề yếu hơn so với tính hợp pháp của việc "Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật“ khi chưa có "Luật về Đảng“. 
Vậy thì quý vị có cho là Đảng CSVN phải... đợi đến khi cóLuật về Đảng“ hay không?
*Đầu đề do T-blog đặt
 Trích trong bài Quyền Biểu tình của công dân của GS. Hoàng Xuân Phú

Thứ Ba, 20 tháng 8, 2013

TRAO ĐỔI VỚI GS. VŨ MINH GIANG, NGUYÊN PGĐ ĐẠI HỌC QUỐC GIA HN - BÀI 3

 
Trao đổi với Giáo sư Vũ Minh Giang: 
Cơ sở pháp lý cho phép việc thành lập
các chính đảng mới ở Việt Nam

Đào Tiến Thi

Trong trả lời BBC mới đây, GS. Vũ Minh Giang nói: “Hiện chưa thấy có cơ sở pháp lý nào để cho phép việc thành lập các chính đảng mới ở Việt Nam”.

GS. Vũ Minh Giang dùng chữ “cho phép” như trên khiến nhiều người cảm thấy phản cảm, vì liên hệ ngay đến cái cơ chế “xin cho” tồn tại lâu nay trong chế độ XHCN ở Việt Nam. Chính vì thế GS. Ngô Đức Thọ và nhà văn Phạm Đình Trọng đã phản ứng tức thời.

Lẽ dĩ nhiên Đảng CSVN chẳng bao giờ muốn một lực lượng khác bên cạnh mình. Nhưng muốn là một chuyện, còn điều muốn đó có hợp thức hay không, tốt xấu thế nào lại là chuyện khác. Bởi vì Hiến pháp hiện hành cũng như Điều lệ Đảng hiện hành đều ghi nguyên tắc của Đảng: “hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. 

Cho nên muốn kết tội tổ chức nào đó “bất hợp pháp” thì, về mặt chính danh (chỉ nói mặt chính danh thôi, chứ nếu bất chấp thì không có gì để bàn), cũng không thể qua mặt Hiến pháp và pháp luật. 

Thứ Hai, 19 tháng 8, 2013

TRAO ĐỔI VỚI GS. VŨ MINH GIANG, NGUYÊN PGĐ ĐẠI HỌC QUỐC GIA HN

Về ý kiến của ông GS Vũ Minh Giang trên BBC
Ngô Đức Thọ

Do PV BBC mà ông  GS Vũ Minh Giang trở thành người đầu tiên của ĐCS lên tiếng về Lời kêu gọi thành lập Đảng XHDC VN do các ông Lê Hiếu Đằng- Hồ Ngọc Nhuận đề ớng! Chắc hẳn đó là do cái "tính Đảng" nhạy bén của ông Giang, chứ lãnh đạo cấp cao thường đọc “châm rãi”, chưa có thì giờ để phân công cho ai phản hồi ! Theo tôi,̀ có lẽ không phải ông Giang nói loanh quanh đâu. Hai ông đề xuất lập Đảng XHDC để hoạt động đối lập với ĐCSVN, nhất là bài ông Hồ Ngọc Nhuận kêu gọi Phá Xiềng-đã gồng người lên để phá xiếng mà còn phải tìm cơ sở pháp lý của ĐCS thì còn nói phá cái gì ? Tất nhiên là trong Hiến Pháp hiện hành  (chưa sửa đổi) vẫn đã có quyền lập hội, nhưng ngay cả không có hoặc bỏ quyền ấy đi, ai thấy cần người ta cứ lập. Ông Giang chưa biết mấy người đề xướng kia ứng phó ra sao với nhà cầm quyền, có thể không cần phải khúm núm đội đơn đi xin phép, nhưng các nhà khởi xướng sẽ có một cách nào đó hợp hiến, hợp pháp để thông báo cho chính quyền sở tại biết hoạt động quang minh chính đại của họ thì sao? Chưa gì ông Giang quá lo xa (cho họ?), liên tục truy vấn :  “Căn cứ pháp lý đâu?” “Căn cứ pháp lý đâu?”. Bảo người ta phải chờ hoặc mang đơn từ lễ vật đi van nài hưởng ơn “ xin - cho” để có “căn cứ pháp lý", thì thà ngủ khèo đến mùa quýt cho khỏe!  Có "căn cứ pháp lý"  rồi về lập "đảng mới " làm "quân xanh quân đỏ" cho ĐCSVN ư? Đã có ông GS  Vũ Minh Giang mở đầu, vài ngày hay vài tuần tiếp theo chắc sẽ cấp tập xuất hiện đủ mọi "khuôn mặt", từ tầm tầm đến “nổi”danh dày dạn sẽ  liên tục chửi rủa, vu khống bôi nhọ những người đề xướng, mà bài mẫu  vẫn là câu  truy vấn “Căn cứ pháp lý đâu?”mà ông GS Vũ Minh Giang đã dùng trong bài PV đài BBC vừa rồi. 

PV Quốc Phương phỏng vấn ông Giang sớm thế là muốn thăm dò xem giới Đại học VN có cảm đông đậy gì về vấn đề nóng sốt nhạy cảm bậc nhất này không? Than ôi, cứ tìm mấy người như ông Vũ Minh Giang mà PV thì còn khuya mới thấy có gì cảm động đậy! 
17-8-2013

Chủ Nhật, 18 tháng 8, 2013

Trần Đình Sử: ĐÔI ĐIỀU THƯA LẠI VỚI NHÀ THƠ TRẦN TRƯƠNG

Lời dẫn của Lâm Khang chủ nhân: Vừa qua, chúng tôi có đăng tải bài viết "Nghề văn không sang trọng" của tác giả Trần Đình Sử (ảnh bên). Tác giả là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, một nhà nghiên cứu hàn lâm, một nhà sư phạm từng giảng dạy Lí luận Văn học hơn 50 năm tại các đại học. Năm 2000, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về Khoa học và Công nghệ cho cụm công trình nghiên cứu về Thi pháp học. Ông cũng từng là ủy viên Hội đồng Lí luận Phê bình Văn học Nghệ thuật Trung ương. 

Bài viết nhỏ, ghi lại tâm tư của GS. TS Nhà văn Trần Đình Sử được nhiều người tán thưởng và bàn luận. Đã có 3 bài viết trao đổi thêm xung quanh bài của Trần Đình Sử. Đầu tiên là bài "Nghề văn không sang trọng thì nghề nào hơn" của Nguyễn Hoàng Đức đăng trên trang Nguyễn Tường Thụy,  rồi đến bài "Nghề văn không sang trọng nhưng văn chương lại cần sự sang trọng" của đạo diễn - nhà báo Nguyễn Anh Tuấn đăng trên TranNhuong.com, và gần đây nhất là bài "Mấy lời với ông Trần Đình Sử" của nhà văn Trần Trương cũng đăng trên TranNhuong.com.

Thứ Ba, 20 tháng 12, 2011

MẤY ĐIỀU HỎI LẠI GIÁO SƯ TRẦN NGỌC VƯƠNG

 

MẤY ĐIỀU HỎI LẠI GIÁO SƯ TRẦN NGỌC VƯƠNG
Đào Tiến Thi

Tôi từng đọc một vài công trình của PGS.TS Trần Ngọc Vương, từng tiếp thu được một số tư liệu và nhận định; về con người, tôi cũng từng gặp đôi lần và vẫn kính cẩn gọi bằng thầy, coi ông như một người thầy đáng kính.

Nhưng tôi thấy trong bài viết Giới trí thức tinh hoa trong lịch sử Việt Nam trên tạp chí Tia sáng ngày 9-9-2010, được blog Nguyễn Xuân Diện đăng lại ngày 17-12-2011, thì có nhiều điều nghe khó lọt.
Bài của PGS.TS Trần Ngọc Vương có 3 phần:
- Trí thức Nho học Việt Nam, hay trí thức Việt Nam thời phong kiến
-  Trí thức Tây học Việt Nam, hay trí thức Việt Nam thời Pháp thuộc
- Trí thức mới Việt Nam, hay trí thức Việt Nam thời XHCN
Tôi xin chỉ nói về hai vấn đề đầu.
1. Phần thứ nhất, theo tác giả thì trí thức Nho giáo ở ta có một lịch sử lâu đời nhưng đóng góp cho tư tưởng học thuật thì không đáng kể, thua hẳn trí thức Nho giáo Trung Hoa và thua trí thức Phật giáo Việt Nam. Theo cảm nhận của tôi, điều này có lẽ đúng và hình như cũng có người nói rồi. Tuy nhiên chỗ này cũng nên tìm rõ cội nguồn. Không nên vội kết luận Không có ai có hứng thú đi vào những tư tưởng triết học”. Nói như thế thì hóa ra trí thức Nho giáo Việt Nam hoặc lười biếng hoặc mang căn tính nô lệ, chỉ biết học của Tàu hay sao?
Theo tôi có hai nguyên nhân khiến trí thức Nho giáo Việt Nam khó có thể chuyên tâm đi vào học thuật.
Thứ nhất, với nền sản xuất tiểu nông là chủ đạo, con người phải vật lộn với nhu cầu mưu sinh đầy khó khăn, chúng ta khó mà có được những nhà tư tưởng thuần túy, chỉ biết có học thuật. Trí thức Nho học luôn gắn sự tồn tại bản thân với nghiệp làm quan, nếu có lui về ẩn dật thì lại gắn với ruộng vườn. Trước dư luận xã hội, cả hai trạng thái trên đều cần có danh phận (đỗ đạt, chức tước, bổng lộc của triều đình). Dư luận xã hội không khuyến khích những người “tử vì đạo” (theo nghĩa say mê một học thuyết, không quan tâm nhu cầu mưu sinh cũng như dư luận xã hội). Trong bối cảnh ấy khó có cá nhân nào đủ bản lĩnh đi ngược đám đông. Hoài Thanh từng cay đắng thốt lên điều này:
“Quang cảnh học giới nước ta tiêu điều làm sao! Dễ thường thế giới không có nước nào mà những người tự nhận là học giả lại lạnh lùng với việc học như ở nước mình. Người mình vẫn được tiếng là hiếu học nhưng đúng ra chỉ hiếu lợi và hiếu danh. Khi sự học không đưa đến cho mình lợi và danh thì ít ai còn màng đến nó nữa”[i]
Thứ hai, cũng có những lúc có tài năng lớn xuất thiện, nhưng lại gặp lúc vận nước nghiêng ngả nên họ phải đặt việc cứu nước cứu đời lên trên hết. Đấy là trường hợp của Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu và nhiều sỹ phu cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Nếu cho phép đặt ra chữ “nếu”, vâng, nếu không phải bôn ba cứu nước thì thiết nghĩ thay vì nhà cách mạng Phan Bội Châu, chúng ta có sẽ có nhà tư tưởng Phan Bội Châu. Tôi dám “nếu” điều này vì đọc thấy ngay trong thơ văn tuyên truyền cách mạng của Cụ, thứ trước tác vốn phải làm gấp, không trau chuốt, lại phải đại chúng hóa, mà luôn chứa những tư tưởng lớn của thời đại. Và chỉ trong 15 năm cuối đời bị an trí ở Huế, với tuổi già sức yếu, sự bó buộc, và đặc biệt là nỗi đau buồn về đất nước, Cụ  vẫn còn viết được hai tác phẩm triết học đồ sộ: Chu dịch diễn giảiKhổng học đăng (hai tác phẩm nay in ở Phan Bội Châu toàn tập, tập 9 và 10, khoảng 1500 trang khổ 16 x 24). Trong lời giới thiệu Chu dịch diễn giải, nhà sử học Chương Thâu viết: “Như là một học giả uyên bác, Cụ đã dồn hết sức lực và tâm huyết để nghiên cứu thêm, giải thích lại một số thành tựu vĩ đại của văn hóa Phương Đông dành cho các thế hệ con cháu mai sau”[ii].Khổng học đăng, tư tưởng chủ quan của người khảo cứu càng lớn hơn. Chương Thâu đánh giá: “Bộ sách này đủ cho ta thấy rõ tư tưởng học thuật và đời sống tinh thần của cụ Sào Nam. Cụ không viết theo lối nghiên cứu khách quan của học giả, mà Cụ viết theo sự tâm đắc của bản thân mình. Bởi thế nên Cụ có rất nhiều tư tưởng chủ quan của mình. Nhưng cũng vì thế mà ta thấy rõ được những ý kiến để bồi bổ cho linh hồn và để nuôi dưỡng cái hoài bão cao đẹp của mình”[iii].
2. Phần thứ hai của bài, nói về trí thức thời Pháp cai trị, PGS.TS. Trần Ngọc Vương  càng có xu hướng hạ thấp một cách phi lịch sử:
“Gia nhập xã hội hiện đại theo con đường bị cưỡng bức, không hề được chuẩn bị đầy đủ về mọi phương diện để thích nghi, thiếu nghiêm trọng những kinh nghiệm và thực tế tương ứng được với xã hội hiện đại từ truyền thống, tóm lại, với tính nhược tiểu thể hiện khá “hoàn hảo”, giới trí thức Việt Nam khi trở thành “tầng lớp trí thức bản xứ” thêm một lần nữa bị chủ nghĩa thực dân vày vò, ép ướp hoàn toàn có chủ đích chỉ nhằm biến đổi họ thành đám vong quốc nô có chữ nghĩa. Lịch sử còn lưu lại vô số bằng chứng cả trực tiếp cả gián tiếp chứng minh cho đường lối chính trị, chính sách trí thức thuộc địa này của thực dân Pháp”.
Ở đây có hai khía cạnh đáng nói:
- Tác giả sai lầm về phương pháp.
- Tác giả bất chấp sự thật lịch sử.
Tác giả viết: Lịch sử còn lưu lại vô số bằng chứng…” thế nhưng lại không đưa ra bằng chứng nào mà chỉ gói gọn trong một câu ở chú thích:  
“Các bộ lịch sử, lịch sử tư tưởng Việt Nam của cả các tác giả người Việt lẫn người Pháp đều cung cấp nhiều tài liệu liên quan đến điều này”.
Trong khoa học không cho phép lối chứng minh như thế, bởi vì:
Thứ nhất, luận điểm mà không có luận chứng (dẫn chứng, lý lẽ) thì luận điểm ấy là áp đặt, không có sức thuyết phục; còn nếu bỏ lửng, bắt người đọc tìm đọc thì có khác nào đánh đố, và còn thể hiện không tôn trọng người đọc.
Thứ hai, quan trọng hơn điều thứ nhất, sự thật lịch sử không chỉ tìm ở mỗi trong các bộ sử, lại càng không thể ở trong các sách lịch sử tư tưởng, bởi ở đấy rất có thể lịch sử đã bị cắt xén, giải thích theo ý người viết. Thực ra tìm sự thật lịch sử trong trường hợp này không khó, vì nó là trước tác, hãy còn rành rành trên giấy trắng mực đen. Sao PGS.TS. Trần Ngọc Vương không tìm ở trong chính trước tác của các nhà trí thức thời bấy giờ cùng không khí học thuật của thời đó để từ đó phán xét tư tưởng của họ mà lại tìm qua sự phán xét của người khác?
Và thực tế như mọi người đã biết, biết bao nhận định sai lầm, oan uổng kéo dài mấy chục năm đối với rất nhiều học giả, nhà văn lớn, như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Trọng Kim,... Nhận định của các học giả Pháp cũng không phải bao giờ cũng khách quan, chính xác. (Mà cũng lạ, biết bao lời ca ngợi của các học giả Pháp dành cho Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Mạnh Tường,… thì PGS.TS. Trần Ngọc Vương lại không biết?)
Đi xa hơn, PGS.TS. Trần Ngọc Vương còn muốn xóa sổ tầng lớp trí thức Tây học trước Cách mạng tháng Tám:
“Hệ quả cuối cùng của chính sách thực dân, dù những chính sách cụ thể trong từng thời kỳ nhất định có đổi thay theo hướng xoa dịu sự phản ứng của một cư dân bản địa dù sao cũng có hàng nghìn năm lịch sử đồng thời trên từng bình diện nhất định phải đáp ứng những đòi hỏi của tình hình khó khăn mà “mẫu quốc” lâm vào, vẫn cứ là một tầng lớp trí thức bản xứ với rất ít cá nhân thực sự đạt tới trình độ tinh hoa, đội ngũ chuyên gia tuy có số lượng khá hơn nhưng không toàn diện, gắn bó quá trực tiếp với sự điều tiết từ chính quốc chứ không phải gắn bó với xã hội và nền kinh tế tại chỗ, và một lượng đông đảo nhất những trí thức cấp thấp. Chất lượng của một tầng lớp trí thức như vậy, xét trên tương quan của một sự so sánh lịch đại, nghĩa là so sánh về khả năng đáp ứng những nhu cầu phát triển từng thời điểm lịch sử khác nhau, chắn chắn là còn kém hơn thời kỳ tiền thực dân”. 
Gộp cả ý của hai đoạn ta thấy, PGS.TS. Trần Ngọc Vương gần như phủ định hoàn toàn tầng lớp trí thức Tây học trước Cách mạng:
Một, họ là con đẻ của chủ nghĩa thực dân.
Hai, họ không đáp ứng được nhu cầu lịch sử.
Ba, kết luận lại, lớp trí thức Tây học còn kém hơn thời kỳ tiền thực dân” (tức trí thức Nho học nửa sau thế kỷ XIX – ĐTT).
1. Nhận định thứ nhất thực ra không mới. Nó là một định kiến đã lâu. Tuy nhiên, trong vài thập niên gần đây, dư luận xã hội đã phải nghĩ lại, đã phải cải chính rất nhiều, không hiểu sao PGS.TS. Trần Ngọc Vương vẫn bám lấy định kiến đó. Một phép suy luận đơn giản cũng cho thấy: với âm mưu của thực dân “nhằm biến đổi họ (trí thức bản xứ - ĐTT) thành đám vong quốc nô có chữ nghĩa” hay âm mưuxoa dịu sự phản ứng của một cư dân bản địa” không bao giờ lại có thể đẻ ra một lớp trí thức tài năng, có lòng yêu nước, tự tôn dân tộc cao. Còn thực tế thì đã quá rõ ràng. Nguyễn Khánh Toàn, Đặng Thai Mai, Đào Duy Anh, Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Thái Học, Trần Huy Liệu, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Xuân Hãn, Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu, Tôn Thất Tùng, Trần Hữu Tước, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Tuân, Phạm Ngọc Thạch, Đặng Văn Ngữ, Lương Định Của, Nguyễn Xiển,… toàn những trí thức do trường Tây đào tạo, những trí thức này hoặc đã tham gia các  phong trào cách mạng trước năm 1945, hoặc từ năm 1945 một lòng đi theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tham gia suốt hai cuộc kháng chiến, chính họ là lực lượng rường cột cho nền văn hóa, khoa học mới, và cả rường cột cho giai đoạn non trẻ của chế độ mới.   
Ở đây cần nói thêm để không đến quá “oán” cũng như không quá “ơn” chính sách khai thác thuộc địa của chủ nghĩa thực dân. Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, ngoài ý muốn của họ, đã khách quan mang lại những điều kiện thuận lợi cho sự tiến bộ của xã hội Việt Nam nói chung, của đời sống học thuật nói riêng. Thực dân Pháp (cũng như bất cứ thứ thực dân nào) không có mục đích “khai hóa” nhưng để khai thác được thuộc địa, họ buộc phải đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật và khoa học. Người Pháp ngay khi chưa chinh phục xong Việt Nam, họ đã làm đường sắt, xây cầu, trạm bưu điện, khí tượng, rồi sau đó mở trường đại học, viện nghiên cứu, bảo tàng,… Tầng lớp trí thức ra đời một cách “vô tư” như thế. Mặt khác, do lòng yêu nước, tự tôn dân tộc, lớp trí thức mới nắm ngay lấy công cụ tri thức mà nhà trường thực dân trang bị để làm vũ khí đấu tranh, để xúc tiến công cuộc tiến bộ cho xứ sở mình. Nhiều nhà Nho chủ trương cho con đi học trường Tây để sau này đánh lại Tây là như vậy. Ngoài ra cũng phải kể đến một số quan toàn quyền, một số chính khách, nhà khoa học Pháp có đầu óc tiến bộ, họ đã có những chính sách tích cực nhất định, góp phần thúc đẩy xã hội Việt Nam theo chiều hướng tích cực.
2. Về nhận định thứ hai, chúng tôi không hiểu thế nào mới là “đáp ứng những nhu cầu phát triển từng thời điểm lịch sử khác nhau”?
Thử hỏi, làm thế nào để đưa chữ Quốc ngữ trở thành văn tự quốc gia ngay từ cuối những năm hai mươi, để từ đó tiếp thu văn hóa nhân loại, giúp đất nước nhanh chóng thoát khỏi “đêm trường trung cổ”, nếu không phải là những hoạt động đầy hăng hái bắt đầu từ lớp sỹ phu đầu thế kỷ XX, tiếp theo là các nhà báo, nhà văn chuyên về hoạt động văn hóa như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Hữu Đang và các trí thức trong nhóm Tri tân, Thanh nghị,…? Ai đã làm nên cuộc cách mạng trong văn học những năm ba mươi, bốn mươi nếu không phải là những nhà văn xuất thân trường Tây (Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Xuân Diệu, Huy Cận, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, Nam Cao,…) để trong vòng chưa đầy mười lăm năm, văn học Việt Nam tiến những bước khổng lồ, bắt kịp vào thế giới hiện đại? Ai đã dấy lên rầm rộ phong trào đòi thả cụ Phan Bội Châu và để tang cụ Phan Châu Trinh những năm 1925 – 1926, rồi phong trào Dân chủ những năm ba mươi, và cả Văn hóa cứu quốc những năm chuẩn bị Tổng khởi nghĩa? Nếu không có lớp trí thức ra đời ngay trong lòng chế độ thuộc địa sẽ không có gì cả.
3. Không biết PGS.TS. Trần Ngọc Vương đặt ra tiêu chí nào của giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX để kết luận tầng lớp trí thức giai đoạn này không đáp ứng được vai trò lịch sử, lại còn “chắn chắn là còn kém hơn thời kỳ tiền thực dân”?
Tôi không hiểu lớp trí thức nửa đầu thế kỷ XX kém cái gì so với lớp tiền bối của họ (lớp nhà Nho nửa sau thế kỷ XIX). Tài năng? Nhân cách, Sự đóng góp vào sự phát triển của lịch sử? Hay là tất cả?
Những nhà Nho tích cực nhất của nửa sau thế kỷ XIX có hai loại: loại chỉ bằng ngòi bút với những kiến nghị, điều trần như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch; loại trực tiếp đánh giặc theo tư tưởng tôn quân với đường lối chiến lược, chiến thuật cũ kĩ như Thủ khoa Huân, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Quang Bích, Phan Đình Phùng,… Cả hai loại nhà Nho đó, tuy ta kính phục họ về nhiệt tình yêu nước, về tài đánh giặc nhưng phải nói, so với yêu cầu lịch sử, họ là lạc hậu. Chính họ nhiều khi cũng nhận ra điều đó. Nhiều người đánh giặc biết chắc thất bại, đánh giặc chỉ vì cái nghĩa đáng làm mà thôi. Còn lớp trí thức đầu thế kỷ XX (xuất thân Nho học nhưng tiếp thu Tân học) tìm đường giải phóng dân tộc theo xu hướng cách mạng tư sản dân quyền thì đã thực sự tiến kịp thời đại. Chỉ riêng về văn hóa, họ đề cao khoa học, kỹ nghệ, đề cao thực học, đề cao nếp sống văn minh, phê phán kịch liệt lối hư văn, bài trừ óc mê tín, thói hủ lậu,… cũng là bước tiến kịp thời đại đáng nể, thậm chí còn hơn chúng ta ngày nay với bao trò mê tín, đồng bóng cùng lối sống thực dụng đến thảm hại. Các lớp trí thức sau lớp sỹ phu, tuy không làm cách mạng giải phóng dân tộc mạnh mẽ nhưng tiếp tục hoạt động rất tích cực về văn hóa, văn học, đã đưa văn hóa, văn học nước nhà phát triển theo chiều sâu, nhờ thế nước ta bắt đầu thoát khỏi “đêm trường trung cổ, hội nhập vào thế giới hiện đại từ cuối những năm hai mươi của thế kỷ XX. Giả sử lớp trí thức nửa đầu thế kỷ XX vẫn tiếp tục con đường của Nguyễn Trường Tộ, Phan Đình Phùng,… thì lịch sử nước ta đi lên hay tụt lùi?
Mặt khác, theo quan điểm duy vật lịch sử, đánh giá mỗi nhân vật lịch sử không phải là xem họ làm được gì so với yêu cầu của thời đại mà là họ đã làm gì so với người đi trước đó. Ở đây chúng ta dễ dàng nhận thấy lớp trí thức đầu tiên của thế kỷ XX mà tiêu biểu là hai cụ Phan tuy vẫn là trí thức Nho học nhưng họ đã vượt rất xa những trí thức Nho học cuối thế kỷ XIX, cả về tầm vóc tư tưởng, tri thức văn hóa lẫn tinh thần dấn thân. Còn lớp trí thức những năm ba mươi trở đi thì thì thực sự đã là những trí thức hiện đại, ngang hàng các trí thức Phương Tây. Đọc những sự kiện hội đàm giữa phái đoàn ta với phái  đoàn Pháp những năm 1945 – 1946, các trí thức của ta có tư thế thật đáng tự hào. Trong khoảng vài thập kỷ, lịch sử dân tộc tăng tốc một cách đáng ngạc nhiên nhờ sự đóng góp quan trọng của tầng lớp trí thức này.
Cũng cần nói thêm rằng lớp trí thức khoa học lẫn trí thức văn nghệ sỹ Tây học cho đến 1945 còn rất trẻ, thường chỉ trên dưới ba mươi hoặc chỉ ngoài hai mươi, cứ như bây giờ thì nhiều người hãy còn ở tuổi ăn bám gia đình, thế mà họ đã làm được khối việc như ta đã biết. Nhưng sự nghiệp của họ không nên chỉ tính mấy năm trước Cách mạng, mà còn phải tính giai đoạn sau Cách mạng nữa. Tuy nhiên sau 1945, do dân tộc phải lao vào hai cuộc chiến, rồi do những sai lầm, phiến diện trong quan niệm, mà giới trí thức Tây học trước 1945 (thường gọi là trí thức cũ) người thì được phát huy, người thì bị thui chột, nhiều người còn mắc nạn. Cùng theo Bác Hồ từ Pháp về, tài chế tạo vũ khí của ông Trần Đại Nghĩa có đất dụng võ, danh tiếng ông trở nên lẫy lừng, trong khi đó tài triết học của ông Trần Đức Thảo trở thành tai họa cho chính ông, khiến ông bị đặt ra ngoài lề cuộc sống, suốt đời sống trong nghèo khổ và sợ hãi, đến mức gần như bị bệnh hoang tưởng, tâm thần. Trong số nhà văn, cũng có người sở trường còn phù hợp, cũng có người không. Không ít nhà văn Tiến chiến (Phan Khôi, Trương Tửu, Văn Cao,…) dính vào vụ Nhân văn giai phẩm đầy nghiệt ngã.
Tóm lại, dù đứng ở góc độ nào để đánh giá thì lớp trí thức Tây học trước Cách mạng đã có những cống hiến xuất sắc. Nhiều người gọi đây là “thế hệ vàng”, quả là không ngoa. Không biết bao giờ nước nhà mới lại có một thế hệ như thế.
Bài viết này chưa phải là bài tranh luận, càng chưa phải là bài nghiên cứu. Nếu tranh luận hay nghiên cứu cần bàn một cách toàn diện và có cứ liệu đầy đủ hơn. Mà chỉ vì thấy những nhận định của PGS.TS. Trần Ngọc Vương có nhiều “gợn” quá nên tôi mạn phép đặt ra một số câu hỏi và nêu một số cảm nhận như trên. 



[i] Hoài Thanh: Vấn đề học thuật ở nước ta chỉ là một vấn đề tâm lý và luân lý, Sông Hương, Huế, 1936, in lại trong Hoài Thanh toàn tập, tập 4, NXB Văn học, 1999).
[ii] Phan Bội Châu toàn tập, tập 9, NXB Thuận Hóa, 2000.
[iii] Phan Bội Châu toàn tập, tập 10, NXB Thuận Hóa, 2000.

*Bài do tác giả gửi trực tiếp cho NXD-Blog.
Xin chân thành cám ơn!