Tham luận tại Hội thảo về Biển Đông ngày 28/8 tại Hà Nội
Những bằng chứng văn bản nhà nước, chính sử, địa chí, bản đồ về chủ quyền của Việt Nam tại Hòang Sa & Trường Sa & Các giải pháp giải quyết ở Biển Đông*
Hãn Nguyên Nguyễn Nhã,
tiến sĩ sử học
1. Chưa hề có nước nào như ở Việt Nam trước năm 1909 qua châu bản, văn bản chính quyền từ trung ương đến địa phương ghi rõ việc xác lập và hành xử chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa.
2. Chưa hề có nước nào như ở Việt Nam trước năm 1909 có sách ghi điển chế, luật định của triều đình định lệ hàng năm sai thủy quân đi xác lập, thực thi chủ quyền tại Hoàng Sa , Trường Sa.
3.Chưa hề có nước nào như ở Việt Nam trước năm 1909, chính sử, sách địa lý ghi rõ việc xác lập chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa.
4. Chưa hề có nước nào như ở Việt Nam trước năm 1909, lại có nhiều tư liệu phương Tây từ thế kỷ 19 trở về trước và của chính Trung Quốc ghi rõ việc xác lập và hành xử chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa.
5.Chưa hề có nước nào như Việt Nam mà người phương Tây và nhà nước Việt Nam từ thế kỷ 19 trở về trước đã vẽ bản đồ xác định rất rõ “Paracel tức Hoàng Sa” và ghi chú Hoàng Sa thuộc xứ Đàng Trong của Vương quốc An Nam tức Việt Nam.
Mặt mạnh của Việt Nam về tranh cãi chủ quyền tại Hoàng Sa & Trường Sa là học thuật nắm rất chắc sự thật lịch sử quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa & Trường Sa. Song Việt Nam chưa làm tốt, quảng bá rộng rãi , phát huy tác dụng mặt mạnh của mình.
Nếu làm được như thế thì ngay cả nhân dân Trung Quốc nếu muốn trái đất này và ngay cả đất nước mỉnh tồn tại và phát triển, không thể để xảy ra bi kịch Á Châu như các học giả quốc tế trong Hội thảo quốc tế Biển Đông lần thứ ba vừa qua tại Hà Nội ái ngại xảy ra như bi lịch Ấu châu thế kỷ trước vì sự hung dữ của chính quyền ở Châu Ấu. Mọi nước phải tôn trọng sự thật và lẽ phải, không thể chấp nhận sự hung dữ, trái với luật pháp quốc tế như chính quyền Trung Quốc hiện nay.
Về pháp lý quốc tế nhất là hiệp định Genève lại có khả năng phản bác luận điểm mạnh nhất của Trung Quôc cũng như Hiến Chương LHQ cấm sử dụng võ lực và Công Uớc LHQ về Luật biển năm 1982.
Như chúng ta đã biết năm 1909, Chính quyền Quảng Đông tuyên bố “Paracel” là đất vô chủ (res- nullius), đã cho tàu chiến đến thám sát, thực hiện chủ quyền theo cách thức Phương Tây như bắn 21 phát súng đại bác, cắm cột mốc chủ quyền, khi ấy Việt Nam bị Pháp đô hộ, mất quyền tự chủ ngoại giao. Trước đó, năm 1898 Trung Quốc đã nêu lý do “Paracel” không thuộc chủ quyền của Trung Quốc, đã dứt khoát từ chối yêu cầu của công ty bảo hiểm Anh đòi Trung Quốc bồi thường việc dân Hải Nam hôi của tàu Le Bellona của Đức đắm năm 1895 và tàu Imazi Maru của Nhật đắm năm 1896.
Sự thật là thế và bởi “Paracel” không thuộc chủ quyền Trung Quốc, nên các bằng chứng của Trung Quốc đưa ra hoàn toàn mang tính suy diễn, xuyên tạc, hoàn toàn không đúng sự thật. Việc đăng ký chính thức “Đường Lưỡi bò” và “thành lập Thành phố Tam Sa”đã không dựa vào sự thật lịch sử cũng như không có bất cứ cơ sở pháp lý quốc tế nào!
Chính vì vậy, từ năm 2011, tôi nỗ lực tập hợp một tập hồ sơ tư liệu về chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Hoàng Sa dịch ra tiếng Anh và sau đó các thứ tiếng như tiếng Trung, Pháp…Ngày 16/6/ 2012 tại Hội thảo về Biển Đông ở Đại học Harvard, tôi đã đặt vấn đề làm sao nhanh chóng giúp tôi hoàn chỉnh bản tiếng Anh tập hồ sơ này, thì được trả lời phải thuê một người hay nhóm người tập trung nhiều tháng mới làm xong được. Song cho đến nay bản dịch Tiếng Anh vẫn chưa hoàn chinh.
Tập Hồ sơ tư liệu được tóm tắt 11 trang và toàn văn hơn 500 trang, bao gồm nguyên văn Bản phân tích sự tranh chấp chủ quyền tại Hoàng Sa & Trường Sa của Quân Đội Mỹ ở Thái Bình Dương năm 1960, các đoạn trích nguyên văn 37 cuốn sàch địa lý, du ký của Phương Tây từ thế kỷ 19 trở về trước, 3 bài tham luận chọn lọc trong các hội thảo ở trong và ngoài nước cùng toàn văn luận án tiến sĩ sử học bao gồm cả các phụ bản “ Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại Hòang Sa & Trường Sa” của tác giả.
Tập Hồ sơ tư liệu Chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa & Trường Sa bằng Tiếng Anh này chứa đựng những măt mạnh, cụ thể như sau:
1. Chưa hề có nước nào như ở Việt Nam trước năm 1909 qua châu bản, văn bản chính quyền từ trung ương đến địa phương ghi rõ việc xác lập và hành xử chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Tài liệu rất quý giá là châu bản triều Nguyễn (thế kỉ XIX), là các văn bản của triều đình nhà Nguyễn hiện đang được lưu trữ tại Kho lưu trữ Trung ương 1 ở Hà Nội. Ở đó người ta tìm thấy những bản tấu, phúc tấu của các đình thần các bộ như bộ Công, và các cơ quan khác hay những Dụ của các nhà vua về việc xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa dưới triều Nguyễn như việc vãng thám, đo đạc, vẽ hoạ đồ Hoàng Sa, cắm cột mốc… Chẳng hạn như Dụ ngày 18 tháng 7 năm Minh Mạng thứ 16 (1835) trong Châu bản tập Minh Mạng số 54, trang 92 có đoạn viết: “vua Minh Mạng ra chỉ dụ giao cho Bộ Công phạt cai đội Hoàng Sa Phạm Văn Nguyên 80 trượng vì tội trì hoãn thời gian công tác hay phạt 80 trượng giám thành Trần Văn Vân, Nguyễn Văn Tiệm, Nguyễn Văn Hoằng chưa chu tất việc vẽ bản đồ Hoàng Sa. Trong khi đó lại thưởng dân binh đội Hoàng Sa Võ Văn Hùng, Phạm Văn Sanh, mỗi người một quan tiền vì đã có công hướng dẫn hải trình của thủy quân đi Hoàng Sa”. Hoặc như Dụ ngày 13 tháng 7 Minh Mạng 18 (1837) trong tập Châu bản Minh Mạng 57, trang 245 có đoạn cho biết trước có phái thủy sư, giám thành, binh dân hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định đi Hoàng Sa đo đạc, cắm mốc, vẽ hoạ đồ, trừ bọn Phạm Văn Biện gồm bốn tên can tội đã có chỉ phạt trượng, còn binh dân đi theo lặn lội biển cả cực khổ, thưởng mỗi tên binh đinh một tháng lương dân phu mỗi tên 2 quan tiền. Cùng với đó còn có Phúc tấu của Bộ Công ngày 12 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 17 (1836 ) trong tập châu bản Minh Mạng 55 trang 336, ghi lời châu phê của vua Minh Mạng: “Mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ (cột mốc) dài 4, 5 thước, rộng 5 tấc, khắc sâu hàng chữ: “Năm Bính Thân (Minh Mạng thứ 17), họ tên cai đội thủy quân phụng mệnh đi đo đạc, cắm mốc ở Hoàng Sa để lưu dấu”. Vua cũng phê rằng “thuyền đi đâu, phải cắm cột mốc đến đó để lưu dấu. Phúc tấu cũng còn ghi chánh đội trưởng Phạm Hữu Nhật được phái từ Thuận An vào Quảng Ngãi để đi công tác Hoàng Sa”. Hoặc Tấu của tỉnh Quảng Ngãi ngày 19 tháng 7 Minh Mạng 19 (1838) xin miễn thuế cho hai chiếc “bổn chinh thuyền”. Trong tập Châu bản Minh Mạng số 64 trang 146 có đoạn viết rằng ngày 19 tháng 7 Minh Mạng thứ 19 (1838): “Xin chiếu lệ miễn thuế năm nay cho hai chiếc “bổn chinh thuyền” đã đưa binh dân đến Hoàng Sa đo đạc giáp vòng từ hạ tuần tháng 3 tới hạ tuần tháng 6, hoàn tất công vụ nay đã trở về”.
Gần đây, một gia đình ở xã An Hải, huyện đảo Lý Sơn đã trao tặng Bộ Ngoại giao một văn bản là giấy lệnh viết trên hai tờ (bốn trang), đây là tờ tư và tờ lệnh công tác Hoàng Sa của quan Bố chánh, Án sát tỉnh Quảng Ngãi (triều vua Minh Mạng vào năm 1834), ghi rõ ông Võ Văn Hùng đã tuyển chọn một bọn gồm 10 người, đứng đấu là Đặng Văn Siểm, người thôn Hoa Diêm, phường An Hải huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi có thể đảm nhận công việc lái thuyền. Nhân đấy mà cấp cho bằng này để đi một thuyền dẫn các thủy thủ trên thuyền theo quân của phái viên và Võ Văn Hùng cùng đến Hoàng Sa thi hành việc công.
Tại Huế cũng mới phát hiện tờ Tâu số 664 ngày 27 tháng 12 năm Bảo Đại thứ 13 (15-2-1939) của Phạm Quỳnh, Tổng lý Ngự tiền văn phòng Nội các thời Minh Mạng, tâu xin vua Bảo Đại phê chuẩn thưởng tặng cho người có công phòng thủ Hoàng Sa, thể hiện sự thực thi chủ quyền liên tục tại Hoàng Sa (Paracels) suốt triều Nguyễn từ vua đầu tiên Gia Long đến vua cuối cùng Bảo Đại. Đây là tờ Châu bản thời Bảo Đại, đánh máy bằng chữ quốc ngữ, với lời phê: “Chuẩn y” và chữ ký tắt BĐ (Bảo Đại) đều bằng bút chì màu đỏ, khổ giấy cỡ 21,5x31,0cm.
Gần đây nhất, với công trinh nghiên cứu khoa hoc : « Font tư liệu về chủ quyền của Việt Nam đối với huyện đảo Hoàng Sa-Thành Phố Đà Nẵng »,TS Trần Đức Anh Sơn vừa công bó một số phát hiện mới cuả ông Trần Văn Quyền, giảng viên Khoa Xã Hội,ĐH Phú Xuân Huế đã phát hiện quyển sách « Khải đồng thuyết ước » , sách giáo khoa dạy trẻ học vỡ lòg bang chữ Hán , khắc in thời vua Tự Đức thứ 6 , năm 1853,trang15-16 có vẽ Hoàng Sa .
Châu bản triều Nguyễn ngày 2 tháng 4 nhuận năm Minh Mệnh thứ 19 (1838)
Dịch nghĩa: Bộ Công tâu:
Vâng mệnh chiếu xét khoản cử người đến Hoàng Sa, Bộ thần đã bàn xin đến hạ tuần tháng 3 ra khơi đến [Hoàng Sa để] đo vẽ khảo sát toàn bộ xứ đó, đến hạ tuần tháng 6 thì trở về. Vâng theo sự phê chuẩn của nhà vua, [Bộ thần] đã sao gửi cho 2 tỉnh Bình Định, Quảng Ngãi thực hiện và tuyển chọn các viên Thị vệ, Khâm thiên giám thành cùng Thủy sư, binh thuyền phái đi trước. Nay tiếp nhận được tờ tư của tỉnh Quảng Ngãi trình bầy cụ thể từng mục rằng binh thuyền ở kinh được phái đi, ngày 21 tháng 3 đã đến. Dân thuyền tỉnh Bình Định ngày 3 tháng 4 cũng đã đến. Viên dẫn đường Phạm Văn Sênh ngày 9 tháng đó cũng đã đến. Theo sự trình bày chi tiết của Phái viên thì từ ngày 10 đến ngày 26 tháng 4, gió Đông liên tục thổi, không tiện cho việc ra khơi. Viên Cai tỉnh quan sát cũng thấy như vậy và khẩn thiết xin đợi đến khi có gió Nam thổi thì thuận tiện cho việc đưa thuyền ra khơi ngay và tiếp tục báo về.
Bộ thần vâng mệnh chiếu xét: Việc đi khảo sát đo đạc ở Hoàng Sa đã có hạn định rõ ràng là hạ tuần tháng 3 thì xuất phát ra khơi, nhưng vì hướng gió và con nước chưa tiện, kéo dài [hạn định] đến hạ tuần tháng 4 mà vẫn chưa ra khơi được là quá hạn. [Bộ thần] căn cứ vào sự thực tấu trình đầy đủ. Thần Lê Văn Côn vâng mệnh soạn thảo.Thần Hà Duy Phiên, thần Phạm Thế Trung vâng mệnh đọc duyệt.
Xuất xứ: Bộ Công. Nơi lưu trữ: Trung tâm Lưu trữ quốc gia I. Ký hiệu: Tập 68, tờ 21.