Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Nhã. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Nhã. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 3 tháng 2, 2019

TRIẾT LÝ CỦA BÁNH CHƯNG TẾT VIỆT

Triết lý Bánh Chưng Tết Việt 

Hãn Nguyên Nguyễn Nhã
.

Dân tộc nào cũng có thức ăn truyền thống. Song chưa thấy dân tộc nào có một thức ăn vừa độc đáo, vừa ngon lành, vừa bổ, vừa gắn liền với truyền thuyết dân tộc lâu đời, lại vừa có nhiều ý nghĩa sâu xa về vũ trụ, nhân sinh như bánh chưng, bánh dầy của Việt Nam.

Bánh chưng hình vuông, màu xanh, tượng trưng trái Đất, âm. Bánh dầy hình tròn, màu trắng, tượng trưng Trời, dương, thể hiện triết lý Âm Dương, Dịch, Biện chứng Đông Phương nói chung và triết lý Vuông Tròn của Việt
Nam nói riêng.

Bánh chưng âm giành cho Mẹ, bánh dầy dương giành cho Cha. Bánh chưng bánh dầy là thức ăn trang trọng, cao quí nhất để cúng Tổ tiên, thể hiện tấm lòng uống nước nhớ nguồn, nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục to lớn, bao la như trời đất của cha mẹ.

Chủ Nhật, 27 tháng 8, 2017

BBC: QUANH BỘ SÁCH "LỊCH SỬ VIỆT NAM" ĐANG XÔN XAO DƯ LUẬN


Bộ sách 'Lịch sử Việt Nam' - vấn đề và ý kiến

BBC Tiếng Việt
Thứ Năm 24.08.2017 


Bàn tròn thứ Năm và các khách mời bình luận sự kiện bộ sách 'Lịch sử Việt Nam' mới được Viện Sử học Việt Nam công bố.

Các khách mời đã bình luận nhiều vấn đề, khía cạnh từ việc 'bộ Thông sử' 15 tập này không gọi Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa là 'ngụy quân, ngụy quyền', cho tới việc gọi cuộc chiến Biên giới 1979 là Chiến tranh Xâm lược của Trung Quốc nhắm vào Việt Nam và nhiều sự kiện đáng lưu ý khác.

Thứ Ba, 22 tháng 8, 2017

THỰC CHẤT ĐÁNH GIÁ VIỆT NAM CỘNG HÒA KHÔNG KHÁC TRƯỚC

PGS.TS Trần Đức Cường, nguyên Viện trưởng Viện sử học, hiện là Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, đồng thời là tổng chủ biên bộ sách Lịch sử Việt Nam.

Tổng chủ biên bộ sử Việt Nam: 
Gọi “ngụy quân, ngụy quyền” là miệt thị!

Lan Hương
RFA  
2017-08-21 

Ngày 18-8, Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã cho ra mắt bộ Lịch sử Việt Nam. Một trong nhiều điểm mới của bộ sách lịch sử này được báo Tuổi Trẻ nói là việc đề cập đến sự tồn tại của chính quyền Việt Nam Cộng hòa như một thực thể chính trị độc lập tại miền Nam Việt Nam, xóa bỏ tên gọi ngụy quân, ngụy quyền trước đây. 

Thứ Hai, 21 tháng 8, 2017

THỪA NHẬN VIỆT NAM CỘNG HÒA, VÀ GỌI TÊN GIẶC TÀU XÂM LƯỢC


TS Nguyễn Nhã phát biểu trong một tọa đàm về chủ quyền biển đảo - Ảnh: L.Điền

Thừa nhận Việt Nam cộng hòa 
là bước tiến quan trọng

Tuổi trẻ
20/08/2017 21:25 GMT+7

TTO - “Việt Nam cộng hòa và trước đó là Quốc gia Việt Nam là một thực thể chính trị mà Hiệp định Genève 1954 có nhiều nước trong đó Trung Quốc và Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ký, công nhận".

Như tôi đã nhiều lần phát biểu trong đó có hội thảo xây dựng bộ lịch sử trên, rằng để đấu tranh bảo vệ chủ quyền chính đáng của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa mà pháp lý quốc tế hồi cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, khi Trung Quốc bắt đầu tranh chấp chủ quyền năm 1909 cho Paracels (mà Trung Quốc gọi là Tây Sa là đất vô chủ - res -nullius) thì sự chiếm hữu phải mang tính thật sự, nhà nước, liên tục và hòa bình.

Từ năm 1954 - 1975 chỉ có chính quyền ở miền Nam Việt Nam mới có quyền quản lý Hoàng Sa và Trường Sa vì hai quần đảo này ở vị trí dưới vĩ tuyến 17, cũng đã từng được rất nhiều nước thừa nhận, nên chính quyền Việt Nam cộng hòa phải được chính thức thừa nhận mới bảo đảm tính pháp lý quốc tế liên tục
TS Nguyễn Nhã
Nhân việc bộ Lịch sử Việt Nam không dùng từ “ngụy quyền Sài Gòn” để chỉ chính thể Việt Nam cộng hòa trước 1975, TS sử học Nguyễn Nhã cho rằng việc thừa nhận này có lợi trước nhất cho công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam.

Thứ Sáu, 26 tháng 6, 2015

TS. Nguyễn Nhã: NGƯỜI RA ĐI ĐỂ LẠI NIỀM TIẾC THƯƠNG VÔ HẠN


Giáo sư Trần Văn Khê ra đi 
để lại niềm tiếc thương vô hạn

TS Nguyễn Nhã

Như thế GS Trần Văn Khê đã biết trước ngày giáo sư phải ra đi và chắc ông cũng biết sự ra đi của mình sẽ để lại biết bao niềm tiếc thương cho mọi người, nhất là những người quan tâm đến Hồn Việt, về giá trị của Hồn Việt đối với việc xây dựng đất nước hùng cường.

Thứ Bảy, 30 tháng 5, 2015

TIN VUI: TÁI BẢN "ĐẶC KHẢO HOÀNG SA - TRƯỜNG SA" SAU 40 NĂM


Đặc khảo Hoàng Sa -Trường Sa,  
khẳng định chủ quyền Việt Nam

Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok

Đặc khảo về Hoàng Sa - Trường Sa, tiền thân là Tập san Sử Địa số 29 ra đời 40 năm truớc, vừa được tái xuất bản trong tháng Giêng năm 2015. Tập san Sử Địa số 29- Đặc khảo về Hòang Sa- Trường Sa do Hãn Nguyên Nguyễn Nhã thực hiện sau khi Trung Quốc vào ngày 19 tháng 1 năm 1974 hòan tất việc cuỡng chiếm tòan bộ quần đảo Hòang Sa của Việt Nam.

Thứ Năm, 26 tháng 6, 2014

TS. Nguyễn Nhã: NẾU VN PHẢN ỨNG YẾU ỚT, TRUNG QUỐC SẼ LẤN TỚI

Tiến sĩ Nguyễn Nhã: 
'Nếu Việt Nam phản ứng yếu ớt, Trung Quốc sẽ lấn tới'

Trung Quốc chủ động làm nhiều chuyện bất chấp lịch sử, luật pháp quốc tế. Nếu Việt Nam không kiên quyết, họ sẽ càng lấn tới, tìm mọi cách đạt mục đích đã đề ra - tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã trao đổi với VnExpress. 

- Gần 2 tháng bị phản đối vì đặt trái phép giàn khoan 981, Trung Quốc không lùi bước mà kéo thêm 4 giàn khoan ra Biển Đông, có nhiều tuyên bố phá vỡ nguyên trạng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam, diễn biến tiếp tới theo ông sẽ là gì? 

- Trung Quốc đang thực hiện hàng loạt các bước đi nguy hiểm ở Biển Đông, hiện thực hóa "đường lưỡi bò" tạo dựng từ lâu, nhằm biến Biển Đông thành ao nhà. Tuyên bố chủ quyền với khu vực này nên họ chủ động làm nhiều chuyện bất chấp lịch sử, luật pháp quốc tế. Nếu chúng ta phản ứng yếu ớt, họ sẽ càng lấn tới và tìm mọi cách đạt bằng được mục đích đề ra. Việt Nam bày tỏ thái độ và có hành động kiên quyết thì làm sao Trung Quốc có thể thành công được. Phải để Trung Quốc đối mặt với luật pháp thì mới có thể thay đổi hành động của họ ở Biển Đông. 

- Việt Nam cần phải làm gì để ứng phó? 

- Việt Nam nên tận dụng cơ hội để không bị lệ thuộc vào Trung Quốc ở tất cả các mặt, trong đó có kinh tế để xây dựng một đất nước hùng mạnh.

Thứ Bảy, 7 tháng 6, 2014

TS. Nguyễn Nhã: VIỆT NAM VÀ CƠ HỘI THOÁT TRUNG LẦN 4

'Việt Nam và cơ hội thoát Trung lần 4'

Hãn Nguyên Nguyễn Nhã
Theo BBC  
.
Trung Quốc đang tăng cường phát triển hải quân
Ngày 1/5 năm 2014, Trung Quốc hạ đặt Giàn khoan Hải Dương 981 tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, cách đảo Tri Tôn 17 hải lý với sự hỗ trợ lực lượng trên trăm tàu đủ loại và cả không quân.

Thời gian này Trung Quốc cho là thời cơ tốt thực thi chủ quyền tại “Đường chín đoạn Lưỡi Bò” chiếm 80% Biển Đông, trước hết có thể lôi kéo Nga đang bị Mỹ các nước Phương Tây gây áp lực sau khủng hoảng ở Ukraine.


Còn với Việt Nam thì Trung Quốc nắm rất kỹ nội tình, đang thu tóm kinh tế Việt Nam và nghĩ có thể xử ép, có khả năng xúi bẩy các cấp và cả người dân sau Hội nghị Thành Đô 1990.

Vì sao lúc này?

Thứ Tư, 4 tháng 6, 2014

TS. Nguyễn Nhã: TÀI LIỆU CỦA TRUNG QUỐC MƠ HỒ VÀ KHÔNG CÓ GIÁ TRỊ

Tiến sĩ sử học Hãn Nguyên Nguyễn Nhã: 
Tài liệu của Trung Quốc mơ hồ và không có giá trị 

Đại Đoàn Kết (4.6.2014)

Trao đổi với PV Báo ĐĐK, TS Hãn Nguyên Nguyễn Nhã khẳng định, việc người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho rằng  quần đảo "Tây Sa” (tức Hoàng Sa của Việt Nam) là lãnh thổ vốn có của Trung Quốc ngay từ thời nhà Hán, thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, là một phát ngôn không những mơ hồ, hết sức vô lý, mà còn cho thấy Trung Quốc cố tính phớt lờ các ghi chép lịch sử của chính họ. 

Lễ khao lề thế lính tiễn người thân đi làm nhiệm vụ tại Hoàng Sa
 được người dân đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) thực hiện liên tục hàng năm,
 từ hơn 300 năm trước

Thứ Hai, 6 tháng 1, 2014

TS. Nguyễn Nhã: CẦN VINH DANH NHỮNG NGƯỜI HY SINH KHI BẢO VỆ HOÀNG SA

Tiến sĩ Nguyễn Nhã:   
Cần vinh danh những người hy sinh khi bảo vệ Hoàng Sa

'Tôi từng đề nghị vinh danh những ai hy sinh trong sự nghiệp bảo vệ Hoàng Sa, Trường Sa. Bản thân tôi sẽ mãi mãi dõi theo Hoàng Sa’, tiến sĩ Nguyễn Nhã.

Chuyên đề: 40 năm hải chiến Hoàng Sa
>> Hải chiến Hoàng Sa - 40 năm nhìn lại - Kỳ 1: Trung Quốc nuốt dần Hoàng Sa
>> Hải chiến Hoàng Sa - 40 năm nhìn lại - Kỳ 2: Hành quân giữ đảo >> Quyết liệt vì Hoàng Sa

 Tiến sĩ Nguyễn Nhã - Ảnh: Trung Hiếu  
Tiến sĩ Nguyễn Nhã - Ảnh: Trung Hiếu

Tiến sĩ Nguyễn Nhã, tác giả của nhiều công trình khoa học nghiên cứu về lịch sử xác lập chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cho rằng nhân dịp 40 năm trận Hải chiến Hoàng Sa, việc vinh danh những con người đã từng ngã xuống bảo vệ Hoàng Sa là cần thiết, để từ đó đoàn kết dân tộc nhằm đòi lại chủ quyền vùng đảo thiêng liêng này.

“Nếu phải chờ đến ngàn năm để giành lấy Hoàng Sa, chúng ta vẫn sẵn sàng”, ông Nhã khẳng định.

Thứ Hai, 28 tháng 10, 2013

THẦN ĐỒNG ĐẤT VIỆT XUẤT QUÂN, TRUYỀN THÔNG TRUNG CỘNG NHỚN NHÁC


Truyền thông Trung Quốc “điếng người” 
vì truyện tranh Thần đồng Đất Việt

Lucy Nguyễn

Việc công ty Phan Thị vừa công bố dự án bộ truyện tranh Thần đồng Đất Việt – Hoàng Sa – Trường Sa 10 tập, và phát hành tập 1-Khẳng định chủ quyền đã khiến Trung Quốc lo ngại.

Yêu biển đảo tổ quốc từ truyện tranh 

Thần đồng Đất Việt-Hoàng Sa-Trường Sa 10 tập là bộ truyện tranh Việt Nam đầu tiên mang nội dung chủ quyền biển đảo với tập 1 đầy hấp dẫn với nhiều hình ảnh vui nhộn, cách dẫn chuyện rất con nít, nhí nhảnh nhưng vẫn truyền tải được những kiến thức lịch sử sinh động.

Thứ Sáu, 25 tháng 10, 2013

TRUNG QUỐC "THỂ HIỆN MỘNG BÁ QUYỀN" QUA VIỆN KHỔNG TỬ Ở VIỆT NAM?


Trung Quốc ‘thể hiện mộng bá quyền’
qua Viện Khổng Tử ở Việt Nam? 

VOA Tiếng Việt 
24.10.2013 

Thứ Hai, 21 tháng 1, 2013

THÊM MỘT NHÀ TRÍ THỨC CẢNH BÁO NGUY CƠ BẮC THUỘC

TS Nguyễn Nhã: "Nguy cơ Bắc thuộc ngày càng lớn"



Tiến sĩ Nguyễn Nhã thuyết trình về Hoàng Sa - Trường Sa tại Hà Nội ngày 24/9/2011

Thanh Phương - RFI
 
Vào dịp đầu năm 2013, tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã, một trong những nhà nghiên cứu hàng đầu về Biển Đông tại Việt Nam, đã cho phổ biến một bài viết của ông đề ra "Kế sách cứu nước-xây dựng nội lực đất nước hùng cường" gởi cho các lãnh đạo Việt Nam, cũng như cho thanh niên Việt Nam trong và ngoài nước.

Tiến sĩ Nguyễn Nhã đề ra kế sách này trong bối cảnh mà đối với ông, nguy cơ Việt Nam trở thành thuộc quốc ngày càng lớn, bởi vì họa xâm lược từ phương Bắc không chỉ có ở Biển Đông, mà còn ở các lĩnh vực kinh tế, văn hóa...

Sau đây mời quý vị nghe phần phỏng vấn tiến sĩ Nguyễn Nhã về những phương cách để đối phó với họa Bắc triều :



Kế sách cứu nước – xây dựng nội lực đất nước hùng cường thế kỷ XXI của Tiến sĩ Sử học Nguyễn Nhã gửi quý lãnh đạo đất nước cùng thanh niên Việt Nam ở trong và ngoài nước.
 
Tôi vốn là nhà sử học nghiên cứu lịch sử Việt Nam với cách nhìn ngàn năm trước hướng về ngàn năm sau, nhận thấy rằng hiện nay không còn là nguy cơ xâm lược mà thật sự đã xảy ra xâm lược lãnh thổ ở Biển Đông và xâm lược phá nát kinh tế văn hóa xã hội Việt một cách thâm sâu chưa từng có.

Thứ Năm, 22 tháng 11, 2012

TRUNG QUỐC "XUỐNG NƯỚC" TẠI HỘI NGHỊ BIỂN ĐÔNG?

TQ 'xuống nước' tại hội nghị Biển Đông?

Cập nhật: 14:53 GMT - thứ tư, 21 tháng 11, 2012

Thuyền thúng trên đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi

Tiến sĩ Nguyễn Nhã nói các học giả Trung Quốc tỏ ra 'mềm mỏng hơn tại Hội nghị Biển Đông vừa kết thúc tại TP Hồ Chí Minh. 

Hội nghị Biển Đông lần thứ tư này có sự tham gia của học giả có uy tín từ Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Nhật, Nga, Trung Quốc, Singapore, Việt Nam và nhiều nước khác với số tham luận lên tới trên 30.
Các bài liên quan
Hàng trăm học giả, công chức và nhân viên ngoại giao của các nước đã tới dự 10 phiên họp trong ba ngày 19, 20 và 21/11.

Hai học giả Trung Quốc Tô Hạo và Nguyễn Tông Trạch, phó giám đốc Học viện Quan hệ Quốc tế Trung Quốc, đã có tham luận về 'lợi ích quốc gia căn bản' và 'Trung Quốc, Asean, Mỹ nên hướng đến điều tốt nhất mặc cho tranh chấp'.

Bình luận về hai học giả này, Tiến sĩ Nhã nói: "Các học giả Trung Quốc có nói rằng là đối với các nước Asean, Trung Quốc càng ngày càng phát triển hợp tác kinh tế. "Họ cũng nói luôn là lợi ích cốt lõi của Trung Quốc không phải là Biển Đông. "Theo tôi thì thái độ của các học giả Trung Quốc kỳ này không có như trước. "Họ đã rất là mềm mỏng.

"Cái phát biểu của tôi lúc kết luận tôi có nói rằng tôi rất quan tâm tới suy nghĩ của ông Su Hao.

"Ông Tô Hạo có nói rằng cần có những suy nghĩ khoa học và khách quan để tạo ra quyết sách của nhà nước thì tôi thấy cái đó là cái rất hay."

'Tranh luận thẳng thắn'

Học giả Tô Hạo từ Đại học Ngoại giao Trung Quốc ở Bắc Kinh có vẻ cho rằng quan hệ kinh tế giữa các nước Asean với Trung Quốc quan trọng hơn so với những gì Asean thu được từ Biển Đông.

Vì lý do này ông Tô nói các nước Asean đã để 'lợi ích quốc gia thứ yếu' lên trên 'lợi ích quốc gia căn bản'.

Tại hội nghị vừa kết thúc ngày hôm nay, các diễn giả cũng khẳng định sự quay lại Châu Á Thái Bình Dương của Hoa Kỳ trong khi học giả Nga nói Moscow cũng đang trở lại khu vực và Đông Nam Á sau khi thất vọng với Châu Âu.

Các tham luận được trình bày tại hội nghị cho thấy một bức tranh quốc tế phức tạp với sự tham gia và tái tham gia của các nước khác nhau với những mức độ quan tâm và quyết liệt khác nhau.

Ngoài các yếu tố quốc tế, một số học giả cũng nói các vấn đề chính trị nội bộ trong đó có lợi ích của chính quyền trung ương, địa phương và chủ nghĩa dân tộc tại các quốc gia liên quan càng làm cho vấn đề Biển Đông thêm phức tạp.

Tiến sĩ Nguyễn Nhã nói quy mô của  hội nghị lần này, cả về số lượng và sự đa dạng của các diễn giả cũng như của quan khách, lớn hơn hẳn so với ba hội nghị trước đó. 

Ông nói các học giả đã tranh luận hết sức thẳng thắn và 'phân tích kỹ và khoa học' các vấn đề nhằm đóng góp cho sự 'chuyển biến ở Biển Đông'.

Nguồn:BBC.

Thứ Hai, 24 tháng 9, 2012

TRÒN MỘT NĂM, CUỘC THUYẾT TRÌNH VỀ HS - TS BỊ KHỦNG BỐ

Nhân tròn 01 năm, buổi thuyết trình của TS. Nguyễn Nhã bị khủng bố

 

TS NGUYỄN NHÃ THUYẾT TRÌNH VỀ CHỦ QUYỀN VIỆT NAM TẠI HS - TS



Thưa chư vị,
Nhân dịp có chuyến công tác tại Hà Nội, TS Nguyễn Nhã - chủ nhiệm của Tập san Văn Sử Địa nổi tiếng hồi trước năm 1975, người đầu tiên ở VN bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ Sử học về chủ quyền VN tại HS - TS đã có buổi gặp gỡ giao lưu với anh chị em đã từng tham gia biểu tình yêu nước tại Hn trong thời gian qua.

Hôm nay, TS Nguyễn Nhã thuyết trình về chủ đề:

CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA 
QUA HỒ SƠ TƯ LIỆU CỦA NGUYỄN NHÃ

Thời gian bắt đầu: 15h00
Với sự tham dự của TS Nguyễn Hồng Kiên, TS Nguyễn Xuân Diện và đông đảo các bác, các anh chị em.

Sau lời giới thiệu của TS Nguyễn Xuân Diện về diễn giả, TS Nguyễn Nhã (mặc áo phông lưỡi bò) đã bắt đầu nói những lời đầu tiên. Ông nói, năm 27 tuổi, ông bắt đầu làm tờ tập san Sử Địa. Ông muốn một bạn trẻ năm nay tròn 27 tuổi lên để ông tặng một món quà. Món quà ấy là tài liệu Luận án TS Sử học của ông. Một SV năm nay tròn 27 tuổi, vinh dự được nhận món quà của ông.

15h04, ông nói về một số lần ông thuyết trình tại nước ngoài về chủ quyền Việt Nam tại HS - TS. Ông nói về sự tự cường của mỗi người dân và cả dân tộc. 

Khi ông cất lời được ít phút thì đèn và máy chiếu phụt tắt. Được biết, cơ quan an ninh đã gọi điện và đến yêu cầu chủ quán cắt điện và ngưng phục vụ cuộc thuyết trình này. 

Mặc dù vậy, buổi thuyết trình vẫn tiếp tục. TS Nguyễn Nhã 72 tuổi đã đến bên mọi người và tiếp tục câu chuyện. Ông đang nói về tư liệu chữ Hán Nôm và chữ la- tinh về chủ quyền của VN tại Hoàng Sa - Trường Sa, một cách vắn tắt, rồi chuyển sang nói về sự vô lý của đường lưỡi bò mà Trung Quốc muốn áp đặt lên Biển Đông.

16h, ông nói về công hàm 1958 do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký. Mọi người say sưa lắng nghe ý kiến của một nhà sử học nhiều kinh nghiệm và điềm tĩnh.

TS. Nguyễn Nhã điềm tĩnh trả lời các câu hỏi về quan điểm của ông về lịch sử và trách nhiệm của nhà sử học trước lịch sử.

Ông cho biết, Trung Quốc đã cử hàng trăm trí thức trẻ nghiên cứu về Biển Đông và có hàng chục luận án Tiến sĩ về Biển Đông.

Nguồn: tại đây.
.
Các tin bài liên quan:

Thứ Ba, 11 tháng 9, 2012

NHỮNG BẰNG CHỨNG VỀ CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI HOÀNG SA - TRƯỜNG SA

Tham luận tại Hội thảo về Biển Đông ngày 28/8 tại Hà Nội 
            
Những bằng chứng văn bản nhà nước, chính sử, địa chí, bản đồ  về chủ quyền  của Việt Nam tại Hòang Sa & Trường Sa & Các giải pháp giải quyết ở Biển Đông*

Hãn Nguyên Nguyễn Nhã,
tiến sĩ sử học

1. Chưa hề có nước nào như ở Việt Nam trước năm 1909 qua châu bản, văn bản chính quyền  từ trung ương đến địa phương ghi rõ việc xác lập và hành xử chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa.

2. Chưa hề có nước nào như ở Việt Nam trước năm 1909 có sách ghi điển chế, luật định của triều đình định lệ hàng năm sai thủy quân đi xác lập, thực thi chủ quyền tại Hoàng Sa , Trường Sa.

3.Chưa hề có nước nào như ở Việt Nam trước năm 1909, chính sử,  sách địa lý ghi rõ việc xác lập chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa.

4. Chưa hề có nước nào như ở Việt Nam trước năm 1909, lại có nhiều tư liệu phương Tây từ thế kỷ 19 trở về trước và của chính  Trung Quốc ghi rõ việc xác lập và hành xử chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa.

5.Chưa hề có nước nào như Việt Nam mà người phương Tây và nhà nước Việt Nam từ thế kỷ 19 trở về trước đã vẽ bản đồ xác định rất rõ “Paracel tức Hoàng Sa” và ghi chú Hoàng Sa thuộc xứ Đàng Trong của Vương quốc An Nam tức Việt Nam.
 
Mặt mạnh của Việt Nam về tranh cãi chủ quyền tại Hoàng Sa & Trường Sa là học thuật nắm rất chắc sự thật lịch sử  quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa & Trường Sa. Song Việt Nam chưa làm tốt, quảng bá rộng rãi , phát huy tác dụng  mặt mạnh của mình. 

Nếu làm được như thế thì ngay cả nhân dân Trung Quốc nếu muốn trái đất này và ngay cả đất nước mỉnh tồn tại và phát triển, không thể để xảy ra bi kịch Á Châu  như các học giả quốc tế trong Hội thảo quốc tế Biển Đông lần thứ ba vừa qua tại Hà Nội ái ngại xảy ra như  bi lịch Ấu châu  thế kỷ trước vì shung dữ của chính quyền ở Châu Ấu. Mọi nước phải tôn trọng sự thật và lẽ phải, không thchấp nhận sự hung dữ, trái với luật pháp quốc tế như chính quyền Trung Quốc hiện nay.

Về pháp lý quốc tế nhất là hiệp định Genève lại có khả năng phản bác luận điểm mạnh nhất của Trung Quôc cũng như Hiến Chương LHQ cấm sử dụng võ lực và Công Uớc LHQ về Luật biển năm 1982.

Như chúng ta đã biết năm 1909, Chính quyền Quảng Đông tuyên bố “Paracel” là đất vô chủ (res- nullius),  đã cho tàu chiến đến thám sát, thực hiện chủ quyền theo cách thức Phương Tây như bắn 21 phát súng đại bác, cắm cột mốc chủ quyền, khi ấy Việt Nam bị Pháp đô hộ, mất quyền tự chủ ngoại giao. Trước đó, năm 1898 Trung Quốc đã nêu lý do “Paracel” không thuộc chủ quyền của Trung Quốc, đã dứt khoát  từ chối yêu cầu của công ty bảo hiểm Anh đòi Trung Quốc  bồi thường việc dân Hải Nam hôi của tàu Le Bellona của Đức đắm năm 1895 và tàu Imazi Maru của Nhật đắm năm 1896.

Sự thật là thế và bởi “Paracel” không  thuộc chủ quyền Trung Quốc, nên các bằng chứng của Trung Quốc đưa ra hoàn toàn mang tính suy diễn, xuyên tạc, hoàn toàn không đúng sự thật. Việc đăng ký chính thức “Đường Lưỡi bò” và “thành lập Thành phố Tam Sa”đã  không dựa vào sự thật lịch sử  cũng như không có  bất cứ cơ sở  pháp lý  quốc tế nào!

Chính vì vậy, từ năm 2011, tôi  nỗ lực tập hợp một tập hồ sơ tư liệu về chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Hoàng Sa dịch ra tiếng Anh và sau đó  các thứ tiếng như tiếng Trung, Pháp…Ngày 16/6/ 2012 tại Hội thảo về Biển Đông ở Đại học Harvard, tôi đã đặt vấn đề làm sao nhanh chóng giúp tôi hoàn chỉnh bản tiếng Anh tập hồ sơ này, thì được trả lời phải thuê một người  hay nhóm người tập trung nhiều tháng mới làm xong được. Song cho đến nay bản dịch Tiếng Anh vẫn chưa hoàn chinh.

Tập Hồ sơ tư liệu được tóm tắt 11 trang và toàn văn hơn 500 trang, bao gồm nguyên văn Bản phân tích  sự tranh chấp chủ quyền tại Hoàng Sa & Trường Sa của Quân Đội Mỹ ở Thái Bình Dương năm 1960, các đoạn trích nguyên văn 37 cuốn sàch địa lý, du ký của Phương Tây  từ thế kỷ 19 trở về trước, 3 bài tham luận chọn lọc trong các hội thảo ở trong và ngoài nước cùng toàn  văn luận án tiến sĩ sử học bao gồm cả các phụ bản  “ Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại Hòang Sa & Trường Sa” của tác giả.

Tập Hồ sơ tư liệu Chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa & Trường Sa bằng Tiếng Anh này chứa đựng những măt mạnh, cụ thể như sau:

1. Chưa hề có nước nào như ở Việt Nam trước năm 1909 qua châu bản, văn bản chính quyền  từ trung ương đến địa phương ghi rõ việc xác lập và hành xử chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa. 

Tài liệu rất quý giá là châu bản triều Nguyễn (thế kỉ XIX), là các văn bản của triều đình nhà Nguyễn hiện đang được lưu trữ tại Kho lưu trữ Trung ương 1 ở Hà Nội. Ở đó người ta tìm thấy những bản tấu, phúc tấu của các đình thần các bộ như bộ Công, và các cơ quan khác hay những Dụ của các nhà vua về việc xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa dưới triều Nguyễn như việc vãng thám, đo đạc, vẽ hoạ đồ Hoàng Sa, cắm cột mốc… Chẳng hạn như Dụ ngày 18 tháng 7 năm Minh Mạng thứ 16 (1835) trong Châu bản tập Minh Mạng số 54, trang 92 có đoạn viết: “vua Minh Mạng ra chỉ dụ giao cho Bộ Công phạt cai đội Hoàng Sa Phạm Văn Nguyên 80 trượng vì tội trì hoãn thời gian công tác hay phạt 80 trượng giám thành Trần Văn Vân, Nguyễn Văn Tiệm, Nguyễn Văn Hoằng chưa chu tất việc vẽ bản đồ Hoàng Sa. Trong khi đó lại thưởng dân binh đội Hoàng Sa Võ Văn Hùng, Phạm Văn Sanh, mỗi người một quan tiền vì đã có công hướng dẫn hải trình của thủy quân đi Hoàng Sa”. Hoặc như Dụ ngày 13 tháng 7 Minh Mạng 18 (1837) trong tập Châu bản Minh Mạng 57, trang 245 có đoạn cho biết trước có phái thủy sư, giám thành, binh dân hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định đi Hoàng Sa đo đạc, cắm mốc, vẽ hoạ đồ, trừ bọn Phạm Văn Biện gồm bốn tên can tội đã có chỉ phạt trượng, còn binh dân đi theo lặn lội biển cả cực khổ, thưởng mỗi tên binh đinh một tháng lương dân phu mỗi tên 2 quan tiền. Cùng với đó còn có Phúc tấu của Bộ Công ngày 12 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 17 (1836 ) trong tập châu bản Minh Mạng 55 trang 336, ghi lời châu phê của vua Minh Mạng: “Mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ (cột mốc) dài 4, 5 thước, rộng 5 tấc, khắc sâu hàng chữ: “Năm Bính Thân (Minh Mạng thứ 17), họ tên cai đội thủy quân phụng mệnh đi đo đạc, cắm mốc ở Hoàng Sa để lưu dấu”. Vua cũng phê rằng “thuyền đi đâu, phải cắm cột mốc đến đó để lưu dấu. Phúc tấu cũng còn ghi chánh đội trưởng Phạm Hữu Nhật được phái từ Thuận An  vào Quảng Ngãi để đi công tác Hoàng Sa”. Hoặc Tấu của tỉnh Quảng Ngãi ngày 19 tháng 7 Minh Mạng 19 (1838) xin miễn thuế cho hai chiếc “bổn chinh thuyền”. Trong tập Châu bản Minh Mạng số 64 trang 146 có đoạn viết rằng ngày 19 tháng 7 Minh Mạng thứ 19 (1838): “Xin chiếu lệ miễn thuế năm nay cho hai chiếc “bổn chinh thuyền” đã đưa binh dân đến Hoàng Sa đo đạc giáp vòng từ  hạ tuần tháng 3 tới hạ tuần tháng 6, hoàn tất công vụ nay đã trở về”.

Gần đây, một gia đình ở xã An Hải, huyện đảo Lý Sơn đã trao tặng Bộ Ngoại giao một văn bản là giấy lệnh viết trên hai tờ (bốn trang), đây là tờ tư và tờ lệnh công tác Hoàng Sa của quan Bố chánh, Án sát tỉnh Quảng Ngãi (triều vua Minh Mạng vào năm 1834), ghi rõ ông Võ Văn Hùng đã tuyển chọn một bọn gồm 10 người, đứng đấu là Đặng Văn Siểm, người thôn Hoa Diêm, phường An Hải huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi có thể đảm nhận công việc lái thuyền. Nhân đấy mà cấp cho bằng này để đi một thuyền dẫn các thủy thủ trên thuyền theo quân của phái viên và Võ Văn Hùng cùng đến Hoàng Sa thi hành việc công.

Tại Huế cũng mới phát hiện tờ Tâu số 664 ngày 27 tháng 12 năm Bảo Đại thứ 13 (15-2-1939) của Phạm Quỳnh, Tổng lý Ngự tiền văn phòng Nội các thời Minh Mạng, tâu xin vua Bảo Đại phê chuẩn thưởng tặng cho người có công phòng thủ Hoàng Sa, thể hiện sự thực thi chủ quyền liên tục tại Hoàng Sa (Paracels) suốt triều Nguyễn từ vua đầu tiên Gia Long đến vua cuối cùng Bảo Đại. Đây là tờ Châu bản thời Bảo Đại, đánh máy bằng chữ quốc ngữ, với lời phê: “Chuẩn y” và chữ ký tắt BĐ (Bảo Đại) đều bằng bút chì màu đỏ, khổ giấy cỡ 21,5x31,0cm.

Gần đây nhất, với công trinh nghiên cứu khoa hoc :  « Font tư liệu về chủ quyền của Việt Nam đối với huyện đảo Hoàng Sa-Thành Phố Đà Nẵng »,TS Trần Đức Anh Sơn vừa công bó một số phát hiện mới cuả ông Trần Văn Quyền, giảng viên Khoa Xã Hội,ĐH Phú Xuân Huế đã phát hiện quyển  sách « Khải đồng thuyết ước » , sách giáo khoa dạy trẻ học vỡ lòg bang chữ Hán , khắc in thời vua Tự Đức thứ 6 , năm 1853,trang15-16 có vẽ Hoàng Sa .

Châu bản triều Nguyễn ngày 2 tháng 4 nhuận năm Minh Mệnh thứ 19 (1838)

Dịch nghĩa:   Bộ Công tâu:

Vâng mệnh chiếu xét khoản cử người đến Hoàng Sa, Bộ thần đã bàn xin đến hạ tuần tháng 3 ra khơi đến [Hoàng Sa để] đo vẽ khảo sát toàn bộ xứ đó, đến hạ tuần tháng 6 thì trở về. Vâng theo sự phê chuẩn của nhà vua, [Bộ thần] đã sao gửi cho 2 tỉnh Bình Định, Quảng Ngãi thực hiện và tuyển chọn các viên Thị vệ, Khâm thiên giám thành cùng Thủy sư, binh thuyền phái đi trước. Nay tiếp nhận được tờ tư của tỉnh Quảng Ngãi trình bầy cụ thể từng mục rằng binh thuyền ở kinh được phái đi, ngày 21 tháng 3 đã đến. Dân thuyền tỉnh Bình Định ngày 3 tháng 4 cũng đã đến. Viên dẫn đường Phạm Văn Sênh ngày 9 tháng đó cũng đã đến. Theo sự trình bày chi tiết của Phái viên thì từ ngày 10 đến ngày 26 tháng 4, gió Đông liên tục thổi, không tiện cho việc ra khơi. Viên Cai tỉnh quan sát cũng thấy như vậy và khẩn thiết xin đợi đến khi có gió Nam thổi thì thuận tiện cho việc đưa thuyền ra khơi ngay và tiếp tục báo về.

Bộ thần vâng mệnh chiếu xét: Việc đi khảo sát đo đạc ở Hoàng Sa đã có hạn định rõ ràng là hạ tuần tháng 3 thì xuất phát ra khơi, nhưng vì hướng gió và con nước chưa tiện, kéo dài [hạn định] đến hạ tuần tháng 4 mà vẫn chưa ra khơi được là quá hạn. [Bộ thần] căn cứ vào sự thực tấu trình đầy đủ. Thần Lê Văn Côn vâng mệnh soạn thảo.Thần Hà Duy Phiên, thần Phạm Thế Trung vâng mệnh đọc duyệt.

Xuất xứ: Bộ Công. Nơi lưu trữ: Trung tâm Lưu trữ quốc gia I. Ký hiệu: Tập 68, tờ 21.



2. Chưa hề có nước nào như ở Việt Nam trước năm 1909 có sách ghi điển chế, luật định của triều đình định lệ hàng năm sai thủy quân đi xác lập, thực thi chủ quyền tại Hoàng Sa , Trường Sa

Chủ Nhật, 25 tháng 3, 2012

PHIM VỀ TS NGUYỄN NHÃ - "MỘT ĐỜI NGHIÊN CỨU HOÀNG SA" ĐOẠT GIẢI

Phim về học giả Hoàng Sa được giải

 

Một phim tài liệu cũ, từng bị gạt đi vì biến cố ngư dân Việt bị bắn chết năm 2005, được trao giải Cánh diều Bạc.

Phim Một đời nghiên cứu Hoàng Sa (kịch bản và đạo diễn: Phạm Xuân Nghị) nói về thành quả nghiên cứu hơn 30 năm của nhà sử học Nguyễn Nhã tại TP. HCM.
Tại lễ trao giải của Hội Điện ảnh Việt Nam hôm 17/3, phim được trao Cánh diều Bạc ở hạng mục Phim tài liệu truyền hình.

Đáng chú ý, phim này đã hoàn thành và được mang đi dự thi ở một vài liên hoan trong nước năm 2005, nhưng bị bỏ qua vì lý do "nhạy cảm".

Khi đó, vào ngày 8/1/2005, tám ngư dân thuộc tỉnh Thanh Hóa bị cảnh sát biển Trung Quốc bắn chết khi đang đánh cá tại vịnh Bắc Bộ.

Tám người khác bị bắt và đưa về đảo Hải Nam một thời gian trước một phiên tòa ở Hải Nam thả họ.
Bộ Ngoại giao Trung Quốc khi đó nói các ngư dân Việt Nam là ''cướp biển'' và rằng vụ việc là trường hợp "ăn cướp có vũ trang nghiêm trọng trên biển”.
Việt Nam phản bác rằng "việc tàu Trung Quốc bắn chết chín ngư dân Việt Nam và làm bị thương nhiều người khác, gây thiệt hại đến tài sản và ngư cụ của ngư dân Việt Nam là nghiêm trọng".

Trước những căng thẳng ngoại giao vì biến cố này, phim Một đời nghiên cứu Hoàng Sa tưởng như bị rơi vào quên lãng.

Phim nói về nhà sử học Nguyễn Nhã, từng chủ trương tập san Sử Địa ra mắt năm 1966 ở Sài Gòn.

Số cuối cùng của tập san này, ra mắt đầu năm 1975, là một Đặc khảo về Hoàng Sa và Trường Sa.

Kể từ ngày đó, ông Nguyễn Nhã vẫn tiếp tục nghiên cứu, thu thập bằng chứng lịch sử với mục đích chứng tỏ Hoàng Sa là của Việt Nam.

Phim của đạo diễn Phạm Xuân Nghị được làm không lâu sau khi ông Nguyễn Nhã nhận luận án tiến sĩ lịch sử năm 2003 với chủ đề về Hoàng Sa.

Bộ phim được giới thiệu là "tài liệu giáo khoa lịch sử bằng hình ảnh cụ thể, sinh động".

Sự liên quan giữa biến cố 2005 và tác động đến phim này hoàn toàn không được truyền thông trong nước nhắc đến.

Dẫu vậy, việc trao giải thưởng muộn cho tác phẩm dường như cho thấy sự thay đổi trong thái độ của giới chức.

Những ngày đầu tháng Ba năm nay chứng kiến khẩu chiến giữa Việt Nam và Trung Quốc quanh tranh chấp ở quần đảo Hoàng Sa.

Nguồn: BBC Tiếng Việt.

Mời chư vị xem phim "Một đời nghiên cứu Hoàng Sa" 
- Phim tài liệu toàn tập về TS Nguyễn Nhã:



Hình ảnh Tiến sĩ Nguyễn Nhã trong buổi thuyết trình tại Hà Nội
(buổi thuyết trình đã bị công an quấy rối)







Xem thêm về buổi thuyết trình này tại đâytại đây nữa.

Thứ Sáu, 27 tháng 1, 2012

RFI: HỒI ỨC VỀ CHIẾN THẮNG ĐỐNG ĐA 1789

Hồi ức về Chiến thắng Đống Đa 1789 
 
Trọng Thành
 
Một trong những ngày hội sớm nhất trong năm tại Việt Nam là Hội Đống Đa, ngày mùng 5 tháng Giêng âm lịch. Đây là ngày hội kỷ niệm chiến thắng của Tây Sơn đối với quân đội nhà Thanh. Chiến thắng năm Kỷ Dậu 1789 ngày càng được tôn vinh là một thực tế. Tuy nhiên, rất nhiều khoảng tối của giai đoạn lịch sử này cần được được các nhà nghiên cứu giải đáp.

Năm Nhâm Thìn 2012 vừa bắt đầu. Những ngày đầu năm mới là dịp các gia đình sum họp, bạn bè gặp gỡ mừng Xuân. Mùa Xuân cũng là mùa hội. Một trong những ngày hội sớm nhất trong năm tại Việt Nam là Hội Đống Đa, ngày mùng 5 tháng Giêng âm lịch. Theo nhiều tư liệu lịch sử cũng như theo những lời truyền miệng, ngày mùng 5 Tết cách đây 223 năm, quân đội Tây Sơn do Nguyễn Huệ, tức hoàng đế Quang Trung chỉ huy, từ Nam thần tốc ra Bắc, tiến vào Thăng Long, kết thúc chiến dịch dẹp tan đội quân viễn chinh của nhà Thanh.

Trong sử sách chính thống ở Việt Nam hiện nay, Quang Trung được coi như là một biểu tượng kiệt xuất của tinh thần dân tộc Việt Nam, một trong những thần tượng mà rất nhiều người Việt Nam ngưỡng mộ.

Trong những năm gần đây, tại Việt Nam, nhiều hoạt động văn hóa lớn gắn liền với hình tượng Quang Trung – Nguyễn Huệ và thời kỳ Tây Sơn lần đầu tiên được tổ chức, ví dụ như việc diễn lại cảnh Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế tại Festival Huế lần đầu tiên vào năm 2008, … Một trong những bộ phim lịch sử cổ trang hoành tráng nhất được thực hiện tại Việt Nam, gắn liền với thời kỳ Quang Trung, mang tên gọi « Tây Sơn hào kiệt », đã ra mắt khán giả năm 2010.

Chiến thắng năm Kỷ Dậu 1789 ngày càng được tôn vinh là một thực tế.

Các khách mời của Tạp chí Khoa học của RFI hôm nay là tiến sĩ Nguyễn Nhã từ Sài Gòn và nhà sử học Dương Trung Quốc từ Hà Nội. Một trong những câu hỏi chính mà chúng tôi mong muốn được hai ông giải đáp là hồi ức và những tưởng niệm về chiến thắng Đống Đa và thời kỳ Quang Trung. Bên cạnh thực tế của sự tôn vinh chiến thắng Đống Đa và hình tượng Quang Trung, còn rất nhiều khoảng tối của lịch sử trong giai đoạn này cần được bổ khuyết, đây cũng là điều mà chúng ta hy vọng sẽ được các nhà nghiên cứu dần dần khai mở.

Mãi mãi mùa Xuân Kỷ Dậu

Khách mời đầu tiên của chúng ta là nhà sử học Nguyễn Nhã. Ông là một trong những nhà nghiên cứu, ngay từ những năm 1960, đã dồn nhiều tâm sức cho việc phục dựng lại hình ảnh Nguyễn Huệ và thời kỳ Tây Sơn.

RFI : Xin kính chào nhà sử học Nguyễn Nhã, ngày đầu Xuân hôm nay, có một chủ đề chắc được nhiều người quan tâm là sự kiện mùng 5 tháng Giêng, tức là trận chiến của quân đội Quang Trung đẩy lùi quân Thanh, cách đây đã hơn 2 thế kỷ. Tuy diễn ra lâu rồi, nhưng đây là sự kiện rất đặc biệt, về mặt lịch sử, cũng như về mặt văn hóa. Sự kiện này để lại nhiều kỷ niệm, cũng như các suy nghĩ trong nhiều thế hệ. Nhân dịp sắp tới dịp kỷ niệm, xin ông cho biết đôi nét về sự kiện này. 

Nhà sử học Nguyễn Nhã : Nói đến Mùa Xuân Kỷ Dậu là nói đến chiến thắng Đống Đa, như chúng ta biết. Từ khi vua Lê Chiêu Thống sang cầu cứu nhà Thanh, thì vua nhà Thanh là Càn Long chắc là rất mừng, vì đó là một cơ hội tốt, cũng lấy cớ để phục hồi lại nhà Lê, nhưng thật ra là để thể hiện những sức mạnh của đế quốc Đại Thanh lúc đó. Chính hồi đó Tôn Sĩ Nghị cũng cho là sức mạnh của quân Thanh là vô địch, nên rất là ỷ y, mùa xuân Kỷ Dậu ấy thì cho quân sĩ nghỉ ngơi. Nhưng không ngờ rằng, Nguyễn Huệ đã thể hiện thiên tài quân sự : 20 vạn quân Thanh chỉ trong có 5 ngày là bị tiêu diệt và phần còn lại chạy về Trung Quốc.

Tôi nghĩ rằng, đây là một võ công oanh liệt vô tiền khoáng hậu, trong một thời gian quá nhanh, mà đánh dàn trận chính quy, chứ không phải chỉ đánh du kích mà thôi. Thành thử tôi nghĩ rằng, mọi người Việt Nam, kể cả những người đối thủ của Tây Sơn, của Quang Trung, cũng phải thừa nhận.

RFI : Xin được hỏi nhà sử học một câu cuối cùng, trong sự phát triển của Việt Nam và khu vực, Quang Trung - Nguyễn Huệ đã để lại những giá trị gì ? 

Nhà sử học Nguyễn Nhã : Đây không phải chỉ là một cuộc đại thắng. Chiến công hiển hách đó mở đầu một triều đại rất ấn tượng. Bởi vì, lần đầu tiên, chữ nôm chính thức được Quang Trung cho sử dụng trong các văn bản, thay vì chữ Hán. Đây là điều thể hiện rất rõ nét bản sắc Việt Nam. Chúng ta thấy, từ thế kỷ thứ X, các vua ở Việt Nam đều có xưng là hoàng đế, đại hoàng đế, Đại Việt, Đại Cồ Việt, … nhưng về vấn đề văn hóa vẫn còn có sự nô lệ ở mức độ nào đó, nhất là khi mà sử dụng chữ Hán và dùng Nho học làm khoa cử. Theo tôi, đấy là một sự sai lầm. Bởi vì Nho học tức là học sách Tàu, lịch sử Tàu, và đặc biệt là trong các kỳ thi hương không có thi Nam sử, mà chỉ thi Bắc sử. Quang Trung chính là người mở đầu tinh thần độc lập về văn hóa như thế.
Thứ hai là Quang Trung rất trọng những hiền tài. Khi làm vua rồi, đối với ông La Sơn Phu Tử - Nguyễn Thiếp hết sức là trọng thị. Tôi nghĩ rằng, chỉ cần hai điều đó thôi đã để lại cho đời một tinh thần, một di sản rất quý giá.

Tôi là một người hồi còn trẻ, rất ngưỡng mộ sự nghiệp của Quang Trung. Khi lập sự nghiệp, Quang Trung chỉ mới là thanh niên thôi, và khi mất ông mới có 40 tuổi. Vì vậy, khi tôi chủ biên tập Văn Sử Địa, tôi đã ra số đặc khảo về Quang Trung (số 9-10), số 13 là về chiến thắng Đống Đa, số 21 là kỷ niệm phong trào Tây Sơn.

Tôi nghĩ là người Việt Nam, bất cứ ai, bất cứ ở đâu, cả già hay trẻ, chắc đều có chia sẻ cũng như tôi vậy. Theo tôi, phải thừa nhận là Quang Trung – Nguyễn Huệ không những là một thiên tài quân sự, mà còn là một Đại Hùng của dân tộc.

(…) Mong rằng mùa Xuân Kỷ Dậu sẽ mãi mãi đến với chúng ta.

Giỗ trận Đống Đa vốn của người Hoa

Tiếp theo đây là những lời kể của nhà sử học Dương Trung Quốc và những ghi nhận của ông về chiến thắng Đống Đa và một số thành quả mà triều đại Tây Sơn đã để lại. 

Nhà sử học Dương Trung Quốc : Đối với người Việt Nam, cái Tết gần như được kết thúc bằng một sự kiện, hay một lễ kỷ niệm đã trở thành một truyền thống, một tập quán, không chỉ riêng của người dân Hà Nội, mà còn của nhiều địa phương trên cả nước. Đó là cái giỗ trận. Giỗ trận là một cách nói một mạc, giản dị, nhắc lại trận chiến đánh thắng quân Mãn Thanh ở Đống Đa.

Cái quá trình diễn ra trận này chắc nhiều người được biết, nhưng ai cũng nhớ tới hình tượng đã được văn học hóa, như trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí có hình ảnh của hoàng đế Quang Trung cùng đại quân của mình, kéo vào Thăng Long, giữa một mùa xuân đầy xác pháo, khói súng và ánh sắc của hoa đào. Có thể nói đấy là biểu tượng của chiến thắng có thể nói lừng lẫy nhất trong lịch sử bảo vệ nền độc lập và chủ quyền của tổ quốc, trước các thế lực xâm lược từ phương Bắc tới. Nhưng chiến trận năm Kỷ Dậu không chỉ ghi nhận chiến thắng chống ngoại xâm, như nhiều thế hệ cha ông ta đã lập nên trước đây trong lịch sử.

Những đóng góp rất to lớn của nhà Tây Sơn, đặc biệt là hoàng đế Quang Trung nói riêng, đã chấm dứt tình trạng phân tranh Nam Bắc, tạo ra nền tảng cho sự thống nhất quốc gia và trên một lãnh thổ đã tương đối hoàn chỉnh, sau nhiều thế kỷ mở mang bờ cõi và cũng là tiến trình không ngừng đương đầu với các thế lực từ bên ngoài, cho dù triều đại Tây Sơn sau đó rất ngắn ngủi, vì thất bại trước Gia Long. Triều Nguyễn lên ngôi, kế thừa thành quả thống nhất quốc gia của Quang Trung. Về mặt chính trị, trong sử sách nhà Nguyễn vẫn gọi Tây Sơn là ngụy, là giặc, … cho nên rõ ràng về mặt kỷ niệm cái chiến thắng Đống Đa không được duy trì như một quốc lễ, trong bối cảnh chiến thắng này gắn với nhà Tây Sơn, là một địch thủ của nhà Nguyễn.

Phải nói là cho đến trước năm 1945, quanh khu vực Đống Đa, chỉ có diễn ra một lễ hội, cũng gọi là giỗ trận, nhưng theo sách vở để lại, chủ yếu là do những người Hoa tổ chức để nhớ lại tổ tiên của mình chăng ? Người Việt thì họ đến đấy, họ chiêm ngưỡng, họ quan sát lễ hội ấy, nhưng không phải là lễ hội để giỗ những chiến binh của Tây Sơn, mặc dù gần đấy, chúng ta thấy có những ngôi đền, ngôi chùa rất kín đáo, có tượng của Đức Ông, nhưng thực ra là hiện thân của hoàng đế Quang Trung.

Năm thứ 1 Việt Nam DCCH : Lần đầu tiên công khai kỷ niệm Quang Trung

Mặc dù hơn hai thế kỷ đã trôi qua, hồi ức về Chiến thắng Đống Đa 1789 dường như vẫn còn tươi rói trong ký ức của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, cũng như nhiều người Việt Nam ngày nay. Trên thực tế, chiến thắng lịch sử của thời kỳ Quang Trung – Nguyễn Huệ mới chỉ được các cộng đồng thuộc xã hội dân sự tại Việt Nam công khai tưởng niệm cách đây mới hơn nửa thế kỷ. Nhà sử học Dương Trung Quốc nhấn mạnh đến tính chất lịch sử của việc phục hồi ký ức về cuộc chiến 1789, mấy tháng sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố độc lập. Đây là một điều mà chắc còn ít người biết đến. 

Nhà sử học Dương Trung Quốc : Biên niên sử ghi nhận rằng, lần đầu tiên người Việt Nam tổ chức giỗ trận Đống Đa theo đúng nghĩa, tức là kỷ niệm chiến thắng của hoàng đế Quang Trung, diễn ra vào năm 1946, tức là mùa xuân độc lập đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Dẫu sao, cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 cũng là đỉnh cao của tinh thần dân tộc, chống đô hộ nước ngoài. Cho nên trong sử sách hiện nay vẫn còn lưu lại những hình ảnh, những bài báo cho thấy rõ là, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc đó đã khai thác rất là triệt để những yếu tố mang tinh thần dân tộc, để động viên lòng yêu nước của dân.

Mùa Xuân năm Bính Tuất, Tết độc lập đầu tiên, lần đầu tiên chúng ta giữ được hình ảnh người dân lũ lượt kéo đến gò Đống Đa để kỷ niệm ngày chiến thắng Đống Đa. Đấy có thể là một biểu trưng rất là tiêu biểu, và kể từ đó trở đi, ngay cả trong cái thời kỳ ta gọi là « tạm chiếm », thì cái nếp tổ chức giỗ trận Đống Đa, như là kỷ niệm chiến thắng Quang Trung vẫn được duy trì, và có thể nói từ sau 1954 đến nay, nó là ngày lễ trọng của Hà Nội nói riêng và của Việt Nam nói chung. Cách đây khoảng hơn 1 năm, tại ngôi chùa Kim Mã, nơi trước kia cơ quan văn hóa của Hà Nội đã làm một tấm bia ghi nhận nơi đây chính là nơi chôn cất các nghĩa sĩ Tây Sơn, đã diễn ra lễ tưởng niệm các nghĩa sĩ, cách không xa, nơi diễn ra giỗ trận Đống Đa.

Tôi nghĩ rằng, những giai đoạn lịch sử hiện đại về sau của Việt Nam rất phức tạp, với nhiều chế độ chính trị khác nhau, nhưng tôi nghĩ, chính thể nào cũng đều tôn vinh những người yêu nước cả, đều tự hào về truyền thống đánh giặc ngoại xâm.

Bài học xưa : Chiến tranh và Hòa bình

RFI : Thưa ông, xin được hỏi ông một câu dành cho những ai quan tâm sâu hơn về lịch sử, liên quan đến việc phục hồi hình ảnh Quang Trung – Nguyễn Huệ, mà ông vừa nói. Câu hỏi đặt ra ở đây là, không biết vì sao hình tượng Quang Trung và chiến thắng này không được chính thức (hay công khai) tôn vinh, mặc dù trong thời kỳ trước năm 1945, việc làm này không hẳn đã bị cản trở từ phía chính quyền thuộc địa ? Phải chăng điều này là do triều đại nhà Nguyễn vẫn tiếp tục có một ảnh hưởng nhất định đến tâm lý của xã hội ? 

Nhà sử học Dương Trung Quốc : Theo tôi được biết, trước năm 1945, chưa bao giờ có một hoạt động công khai mang tính quốc gia của nhà nước. Cho dù là nhà nước thuộc địa, vì đằng sau triều đại phong kiến vẫn còn tồn tại. Mà chúng ta biết, do những hệ lụy lịch sử, triều Nguyễn coi Quang Trung là nghịch tặc, và ngụy triều. Cho nên, chắc chắn là việc tổ chức công khai có tính quốc gia, sự tôn vinh đối với Quang Trung, với Tây Sơn là điều không thể xảy ra dưới triều Nguyễn được. Còn người dân có thể có cách biểu hiện của mình một cách kín đáo, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, thì việc này có thể có.

RFI : Thưa ông, tại sao nhiều người lại cố gắng phục dựng lại niềm tự hào hoặc những kỷ niệm về thời đó vào thời điểm bây giờ ? 

Nhà sử học Dương Trung Quốc : Cũng như tôi nói, thời kỳ tồn tại nhà Nguyễn cho đến năm 1945 thì mới chấm dứt, do những hệ lụy lịch sử thì việc tôn vinh Quang Trung có thể nói thẳng là cấm kỵ, vì thế mà người dân thì phải kín đáo (tưởng nhớ), bên cạnh lễ hội của người Hoa, diễn ra tại khu vực Đống Đa, mà người Việt Nam cũng thừa nhận như một dấu tích của chiến thắng của cha ông xưa.

Chúng tôi biết sau này, Sở văn hóa Hà Nội, trên cơ sở các nghiên cứu sử học đã ghi nhận địa điểm Chùa Kim Mã lâu rồi. Đương nhiên, trong bối cảnh (…) diễn ra một số động thái đặc biệt liên quan đến Biển Đông, trong quan hệ Việt Nam với Trung Quốc, thì rõ ràng, như thế phần nào nó kích thích, nó nhắc nhở. Những hoạt động ấy chứa đựng phần nào không khí thời sự. Bên cạnh việc tiếp tục các lễ hội (liên quan đến thời Tây Sơn) gần như đã trở thành thường niên diễn ra ở Đống Đa, việc tu sửa và nâng cấp một số điểm tại chùa Kim Sơn cũng là để bổ sung thêm, làm cho lễ hội thêm phong phú, và cũng nhắc nhở người Việt Nam luôn nhớ đến bài học xưa.

Tôi cũng muốn nói là, riêng đối với triều đại Tây Sơn, lập được một chiến công vô cùng hiển hách như thế, nhưng chúng ta cũng phải thấy thêm một khía cạnh nữa là bản thân nhà Tây Sơn cũng luôn mong giữ được sự hòa hiếu với Phương Bắc, để bảo vệ sự tự chủ vững bền hơn, mặc dù ông là người chiến thắng. Và điều này cũng đáp ứng được mong muốn của người dân được sống trong hòa bình. Tôi nghĩ đây cũng là một bài học không nhỏ.

Thời Tây Sơn : Rất nhiều dấu hỏi !

RFI : Thưa ông, những điều ông trình bày có thể coi là các đóng góp để lại của Quang Trung – Nguyễn Huệ, đặc biệt là về mặt quân sự. Cũng xin được hỏi ông về những nghiên cứu trong thời gian gần đây có những điểm gì mới, và hiện có những điểm gì tồn nghi, hay những điều cần khai phá trong tương lai ? 

Nhà sử học Dương Trung Quốc : Tôi nghĩ lịch sử là quá trình nhận thức về khoa học, nhưng đồng thời nó cũng gắn rất liền với tâm thế của một quốc gia, tức là những yếu tố mang tính thời sự, mang tính chính trị luôn luôn tác động vào. Như tôi đã nói, kể từ sau khi triều đình nhà Nguyễn không còn nữa, có thể nói là việc nghiên cứu về Quang Trung – Nguyễn Huệ - Tây Sơn được giải phóng. Điều này diễn ra trong tất cả mọi thể chế chính trị ở Việt Nam tiếp theo đó, kể cả trong chế độ Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc, cũng như trong chế độ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam.

Tôi cũng đã theo dõi các nghiên cứu của các sử gia miền Nam trước 1975, thấy được rất nhiều công trình nghiên cứu có giá trị. Còn ở miền Bắc, cũng có nhiều công trình. Có thể nói nhìn chung, mối quan tâm đầu tiên liên quan đến lịch sử quân sự. Chúng tôi cũng ghi nhận là, bên cạnh việc nghiên cứu, sự tôn vinh đối với hoàng đế Quang Trung và triều đại Tây Sơn tại Việt Nam, có thể nói rất được quan tâm.

Về việc nghiên cứu, dù cá nhân tôi không phải là chuyên gia, tôi cũng ghi nhận là bên cạnh nghiên cứu theo góc độ lịch sử quân sự, người ta cũng bắt đầu quan tâm lĩnh vực khác, các đóng góp khác, đặc biệt là lý giải vì sao triều đại Quang Trung được xây dựng trên một nền tảng rất hoành tráng của một cuộc khởi nghĩa nông dân, thực hiện được mục tiêu thống nhất quốc gia, rồi lại đánh bại quân xâm lăng, rồi lại ngắn ngủi như vậy ?

Ngay cả những « phát triển » trong nội bộ ba anh em Quang Trung cũng là một bài học lớn của lịch sử.
Có thể nói cho đến giờ, việc nghiên cứu những gì liên quan đến nhà Tây Sơn vẫn là một điều hấp dẫn nhiều nhà sử học, nó cũng đòi hỏi việc nghiên cứu ngày càng đi vào chiều sâu hơn, để có thể rút ra được các bài học lịch sử đối với một triều đại tuy ngắn ngủi, nhưng hết sức vẻ vang hoành tráng, và cũng để lại nhiều dấu hỏi không dễ dàng giải đáp được.

"Việt Thanh chiến dịch" - một đóng góp mới 

Thời kỳ Tây Sơn và các hoạt động của cá nhân nhân vật lịch sử Nguyễn Huệ - Quang Trung, như nhà sử học Dương Trung Quốc nhận xét, đặt ra nhiều câu hỏi. 

Trong những năm gần đây, có một số nghiên cứu đã được đẩy mạnh theo hướng phục dựng lại hiện thực lịch sử rất phức tạp của giai đoạn này, bên cạnh cuốn "Lịch sử nội chiến Việt Nam (1771-1802)" của sử gia Tạ Chí Đại Trường (viết năm 1973 và được tái bản nhiều lần từ năm 1991 đến nay), chúng tôi xin trân trọng giới thiệu với quý thính độc giả nghiên cứu của tiến sĩ sử học Nguyễn Duy Chính (California - Hoa Kỳ), đặc biệt là cuốn biên khảo "Việt Thanh chiến dịch", mới hoàn tất vào đầu năm 2011. Trong cuốn sách này, nhà sử học Nguyễn Duy Chính đã đặc biệt dựa vào các văn bản trao đổi của triều đình nhà Thanh với quan lại địa phương trong thời kỳ này, được tập hợp trong bộ "Khâm định An Nam kỷ lược" (Nhà xuất bản Hải Nam ấn bản năm 2000), để đối chiếu với các tư liệu phía Việt Nam và quốc tế. Nhiều phát hiện và hướng nghiên cứu mới, thậm chí những cách nhìn rất khác, đã mở ra từ cuốn sách này. Theo đánh giá của một số chuyên gia, đây là một công trình tiếp nối truyền thống nghiên cứu sử học xuyên quốc gia, ở Việt Nam được mở ra đặc biệt với tác phẩm của Hoàng Xuân Hãn "Lý Thường Kiệt, lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý" (1949).

Nhân dịp đầu năm, xin kính gửi đến quý thính độc giả lời chúc hạnh phúc và thành công. 

Xin chân thành cảm ơn hai nhà nghiên cứu Nguyễn Nhã và Dương Trung Quốc đã vui lòng dành thời gian cho tạp chí hôm nay. 
 
Bài xem thêm:
Tại Việt Nam, « Sách giáo khoa hiện nay làm học sinh không tin cậy vào môn lịch sử »
Lễ Khai ấn đền Trần : Linh thiêng hay lừa lọc ?
Việc gán cho rùa Hồ Gươm tính cách « linh thiêng » cản trở việc làm sạch hồ và chữa bệnh cho rùa

 Nguồn: RFI Việt ngữ.