Hiển thị các bài đăng có nhãn Trần Kim Anh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Trần Kim Anh. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 18 tháng 4, 2022

NGƯỜI XƯA KHÁM NGHIỆM TỬ THI NHƯ THẾ NÀO?



NGƯỜI XƯA KHÁM NGHIỆM TỬ THI NHƯ THẾ NÀO?

Trình bày: Nguyễn Xuân Diện
Lược thuật kết quả nghiên cứu của Nhà nghiên cứu Trần Thị Kim Anh 

300 năm trước, cha ông ta đã viết sách hướng dẫn cách khám nghiệm tử thi phổ biến đến các quan lại địa phương để họ tự xử lý hiện trường lúc xảy ra án mạng.

"Nhân mạng tra nghiệm pháp" lưu tại thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm kí hiệu A2034. Sách dày 56 trang khổ 27 x 16, niên đại ghi trên sách là Vĩnh Hựu 3 (1737). 

Về nội dung, ở trang đầu, dòng chữ Hán ghi "Hình bộ Lâm quận công Phạm Trạc phụng biên tập" cho biết, sách do Lâm quận công Phạm Trạc ở bộ Hình biên tập theo yêu cầu của triều đình. Có lẽ chính vì vậy so với sách Công án tra nghiệm bí pháp sách này có tính chất qui phạm hơn. 

Sách gồm 49 mục, trình bày khá chi tiết tỷ mỉ về cách xem xét các loại tử thi, các loại vết thương. Cho biết cách phân biệt các vết thương bị đánh do loại hung khí nào, cách làm bộc lộ các vết thương chùm dưới da, cách khám nghiệm xương khi người chết đã bị thiêu cháy, phân biệt xương của nạn nhân là nam hay nữ, cách khám nghiệm tử thi đã rữa nát. Ngoài ra còn có một số bản vẽ cơ thể người ở các vị trí nằm sấp, nằm ngửa cùng các chú thích về tên gọi của các vị trí trên cơ thể. Xin dẫn ra một số dẫn chứng cụ thể. Chẳng hạn khám nghiệm tử thi chết do bị sát thương, sách viết: "người bị sát thương, mắt miệng đều mở, tóc rối, hai tay giơ lên, trên tay tất có thương tổn, chỗ bị thương da thịt rách nát, xung quanh bậm máu". Bàn về khám nghiệm xương thì "Trên xương có chỗ bị đánh thì lộ rõ ngấn đỏ. Nếu bị đánh gẫy thì hai đầu xương vầng máu, lại có các mảnh xương, giơ lên ánh mặt trời để soi thấy sắc hồng còn hoạt thì rõ ràng lúc còn sống bị đánh". Hoặc nói về cách làm bộc lộ vết thương, sách cho biết: Vết thương trên thi thể không rõ, chỉ có chỗ khả nghi thì trước hết đem nước rửa sạch, sau đó dùng hành đâm nhuyễn đắp lên chỗ nghi ngờ, chờ một lúc rồi bỏ hành đi lấy nước rửa sạch, nếu thấy có vết tím đem lấy nước rỏ lên, thực sự là vết thương thì chỗ đó cứng, nước đọng lại không chảy, còn nếu không phải là vết thương thì chỗ đó mềm, nước tuột đi…"
Đọc tiếp...

Thứ Ba, 12 tháng 5, 2020

[LIVE] NGƯỜI XƯA KHÁM NGHIỆM TỬ THI NHƯ THẾ NÀO?


LIVE STREAM VỀ VIỆC NGƯỜI XƯA KHÁM NGHIỆM TỬ THI NHƯ THẾ NÀO:

Theo điều tra của Nhà nghiên cứu Trần Thị Kim Anh (nguyên cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm): Hiện nay về loại sách có liên quan đến khám nghiệm tử thi, trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm chúng tôi tìm được 2 đầu sách, một mang tên Công án tra nghiệm bí pháp và một là Nhân mạng tra nghiệm pháp. Về nội dung, sách có các mục chính như:

Khám nghiệm hiện trường các vụ án trộm cắp;
Nguyên tắc chung khi khám nghiệm các vụ án nhân mạng;
Khám nghiệm thi thể chết đuối;
Khám nghiệm thi thể tự ải;
Khám nghiệm thi thể chết cháy;
Khám nghiệm hoang thai…


Các hình vẽ về thủ tục khám nghiệm các vụ đánh nhau gây chết người, hình vẽ về thai nhi từ tháng thứ nhất đến tháng thứ 7.

Đọc tiếp...

Thứ Bảy, 19 tháng 10, 2019

Tài liệu quý: HAI VĂN BẢN VỀ KHÁM NGHIỆM PHÁP Y THỜI NHÀ LÊ


HAI VĂN BẢN HƯỚNG DẪN KHÁM NGHIỆM PHÁP Y
THỜI LÊ VÀ CHẾ ĐỘ KHÁM NGHIỆM PHÁP Y 

Trần Thị Kim Anh 

Ở thời Lê, việc ban hành Bộ luật Hồng Đức dưới triều vua Thánh Tông cùng hàng loạt các văn bản, sắc, lệnh, điều lệ… của vua chúa các triều đại sau đó mà ngày nay khá nhiều vẫn còn được lưu giữ trong các văn bản như Hồng Đức thiện chính; Lê triều hội điển; Quốc triều khám tụng điều lệ; một phần trong phần còn lại của bộ Thiên Nam dư hạ; Lê triều quan chế điển lệ, Lê triều sự lệ… đã khiến cho pháp luật của thời kì này trở nên khá hệ thống và hoàn chỉnh. Có thể nói hầu như mọi họat động xã hội đều được đặt dưới sự kiểm soát và điều chỉnh của pháp luật, có lẽ, chính vì vậy thời Lê, như đã được đánh giá là thời kì mà nhà nước phong kiến đạt đến mức độ phát triển cực thịnh.

Đọc tiếp...

Thứ Tư, 5 tháng 4, 2017

BÀI 4: KHO GIA PHẢ Ở VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM


GIA PHẢ VÀ TƯ LIỆU GIA PHẢ Ở THƯ VIỆN
VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM

Trần Thị Kim Anh

1/ Gia phả được hình thành trên cơ sở tồn tại của các gia tộc. Gia tộc, theo quan điểm của Nho giáo, là sự liên kết quan hệ huyết thống theo phụ hệ. Từ một ông tổ truyền xuống đến bốn đời được gọi là một tông tộc, một gia tộc.

Đọc tiếp...

Chủ Nhật, 5 tháng 2, 2017

ĐÊM CUỐI TUẦN CÙNG ĐỌC TÙY BÚT CỦA NỮ SĨ KIM ANH


Rau xuân
Tùy bút của Kim Anh

Tôi lớn lên bên dòng sông Đuống, con sông chở nặng phù sa bồi đắp nên những đồng bãi màu mỡ suốt dọc đôi bờ.

Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh …

Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc[1]

Còn nhớ mỗi độ xuân về, đồng bãi ven sông mướt mát màu xanh của ngô non, tôi bấy giờ mới là cô bé 12 -13 tuổi, cắp cái rổ tre cùng chúng bạn len lỏi trong những ruộng ngô tìm hái rau dại mọc đầy dưới những gốc ngô. Loài rau dại mùa xuân ngon nhất trên đồng bãi với tôi hồi đó có lẽ là rau muối. Rau muối là loại cây thân nhỏ với những chiếc lá hình thoi viền răng cưa xanh xanh tim tím, mặt dưới lá bám đầy những hạt li ty như bụi muối, có lẽ vì vậy mà thành tên.

Mùa xuân rau muối mọc đầy đồng bãi, non mởn, chỉ hái một lúc đã được một rổ đầy. Hồi đó mỗi khi hái rau về, tôi thường ngồi trên chiếc ghế con đặt rổ rau trước mặt rồi thích thú sục đôi tay của mình vào mà vầy mãi để đến khi rút tay ra, trên đôi bàn tay bám đầy những bụi muối ly ty óng ánh.

Mới đấy mà bao nhiêu năm tháng đã trôi qua! Cho đến bây giờ tôi vẫn không thể quên được cảm giác mát lạnh mềm mướt như nhung lụa của lá rau bao bọc lấy đôi tay thiếu nữ của mình và mùi vị ngòn ngọt chan chát hăng hăng của món canh rau muối.

Mấy năm nay, chừng như biết người phố thèm nhớ những món quê mùa dân dã, vào độ tháng hai tháng ba, dân quê lại hái rau muối bó thành từng bó đem lên Hà Nội bán. Lần đầu nhìn thấy, tôi không thể đừng được, mua về một ôm rồi một mình ngồi trên chiếc ghế con nhặt từng ngọn nhỏ cho đầy một rổ, khe khẽ lùa đôi bàn tay đã bắt đầu khô héo vào đám rau mềm mại tìm lại cảm giác xưa để chợt thấy lòng rưng rưng buồn!

Rau muối xưa đem nấu canh chỉ với vài hạt muối cũng đã thấy ngọt đậm đà. Nay tôi nấu cùng tôm nõn, hoặc ngao, ngon lạ lùng, chồng con chan húp đến giọt cuối cùng. Hôm trước đọc bàiviết về gây trồng phát triển các loài rau dại của giáo sư Lân Dũng, tôi rất thích nhưng lại lo, lo bởi rồi đây khỉ rau muối được gieo trồng chăm bón theo kiểu công nghiệp, có lẽ rồi lại chỉ đành ngồi nghĩ về rau muối như một hoài niệm, ước sao có được hương vị rau muối hoang dại ngày xưa[2].

*****

Trên những bãi ngô non mùa xuân ấy, còn một loài rau dại nữa mà lũ con gái chúng tôi tìm hái đó là rau khúc. Ôi chao rau khúc, loài rau mà mỗi khi nhắc đến sẽ làm xao xuyến bất cứ ai từng được nếm món bánh khúc đích thực được làm từ nó.
Rau khúc là loài cây dại mọc là là mặt đất, từ thân đến lá đều có một lớp lông trắng mịn màng khiến nó mang màu xanh ngọc. Cứ từ sau khi gặt xong vụ mùa là rau khúc bắt đầu mọc hoang trên khắp cánh đồng, nhưng phải đúng vào sau tết mới là lúc rau khúc ngon nhất. Những cánh lá khúc nếp mỡ màng bóng ngời dưới mưa xuân rây rây. Lũ con gái chúng tôi bấy giờ, má đỏ hây lên vì rét, ngón tay lạnh cứng mà vẫn cố tìm cho được rau khúc nếp, nhặt cho đầy chặt rổ mới chịu về. Tôi còn nhớ sau khi hái rau về, tôi và chị gái loay hoay nhặt rửa sach sẽ, để ráo nước, cho vào cối đá giã nát rồi trộn với bột nếp rắc chút muối nhào thành một thứ bột mịn màu xanh lục, sau đó dùng đậu xanh đã ngâm đãi kỹ đồ chín xào với mỡ nước để làm nhân. Mấy chị em tôi ríu rít ngồi nặn bánh trong căn bếp nhỏ. Vỏ bánh màu xanh lục, bọc lấy viên nhân đậu vàng bóng thành những chiếc bánh xinh xinh. Xong xuôi bánh được xếp vào chõ sành đồ lẫn với gạo nếp. Khi bánh chín, mùi thơm hăng hắc của rau khúc quện với mùi thơm của nếp cái, của đỗ xanh tỏa lan khắp nhà. Cái bánh khúc quê xưa thật mộc mạc thanh tao, chỉ nhỏ bằng quả bóng bàn, xanh đậm màu rau khúc chín, bám bên ngoài là những hạt xôi nếp trắng trong căng mọng thơm lừng. Bột nếp cái trộn chút bột tẻ cho đỡ nát kết hợp với rau khúc khiến vỏ bánh vừa dẻo vừa dai vừa dòn vừa thơm, vị béo bùi của đậu xanh xào mỡ nước chỉ như điểm thêm cho vị bánh đậm đà hơn. Người xưa ăn bánh khúc như để thưởng thức mùa xuân vậy. Chẳng như loại bánh bán ở phố cho người bây giờ ăn, chán không buồn nói! Chả thế mà bánh khúc ngày xưa được vua Trần Nhân Tông coi như quốc hồn quốc túy, đem ra thết đãi sứ thần nhà Nguyên vào tết mùng ba tháng ba. Ngài còn tự hào khoe rằng:
Bánh rau xuân bày trên mâm ngọc
Đó chính là phong tục cổ của nước Nam.

Sách Tề dân yếu thuật, một cuốn sách của người Trung Quốc viết vào thế kỷ thứ VI cũng cho biết, người Giao Chỉ lấy rau này về làm bánh.

Vậy bánh khúc là loại bánh cổ truyền có lịch sử rất lâu đời của người dân đồng bằng Bắc bộ, hay là ta lại xin chi chục tỷ làm hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận là di sản văn hóa ẩm thực của Việt Nam chăng!
Tháng Hoa Đào.

[1] Thơ Hoàng Cầm
[2] Theo Đông y, rau muối vị mặn, tính ấm, mùi thơm, điều hòa các khí, làm thông ấm tỳ vị. Người ta đã phân tích cây rau muối thấy lá và thân chứa nhiều muối chlorua natrium và acid oxalic. Rau muối dùng làm rau ăn giúp tiêu hoá tốt, lại có thể dùng làm thuốc trị đau bụng, phong lở, đau răng, đầu gối và bàn chân sưng nhức.

*Bài viết do tác giả Kim Anh gửi riêng Tễu Blog. Xin cảm ơn tác giả!


Đọc tiếp...

Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2013

"THÁI SƯ TRẦN THỦ ĐỘ" - PHIM VỚI ẢNH, CHÁN MỚ ĐỜI !


Lạm bàn về phim lịch sử Thái sư Trần Thủ Độ
Trần Kim Anh

Thấy đầu phim có dòng: Lịch sử phụ thuộc vào cách nhìn, nên mình cố xem và cố không định kiến, nhưng không thể nuốt nổi. Phim với ảnh chán mớ đời. Lúc xem quảng cáo, hy vọng không đến nỗi tệ. Nhưng mà nó tệ quá. Kịch bản vẫn nguyên kiểu NMT, rối rắm lằng nhằng, thiếu hấp dẫn, lời thoại vẫn ngô nghê, cổ chẳng ra cổ kim chẳng ra kim. Dàn diễn viên vừa xấu vừa èo uột, diễn thì như tuồng. Chỉ đỡ hơn các phim khác về phục trang và thiết kế mỹ thuạt là nhờ ở chỗ phim này nhiều tiền hơn. Thấy diễn viên toàn NSND, NSƯT và nghe nói Nhà văn NMT là người viết kịch bản phim lịch sử giỏi nhất hiện nay mới hiểu là, người ta đã dốc toàn lực cho phim này rồi, nhưng vì sức chỉ đến vậy nên nó chỉ được vậy thôi. Cho nên mới bàn rằng, ngành ĐA phải được thay máu. Nhà nước phải đầu tư lớn, tuyển chọn một thế hệ mới cho đi Mỹ, Trung quốc học cẩn thận từ biên kịch đạo diễn diễn viên, quay phim… thì may ra mới khác đi được, nếu không thì cho dù đầu tư bao nhiêu tiền đi nữa thì với lực lượng như vậy, phim ảnh VN cũng sẽ chẳng khá hơn được bao nhiêu, chỉ phí tiền dân.
________________

Tễu: 

Phim "Thái sư Trần Thủ Độ" là phim được Thành phố HN "vẽ" ra để chiếu trong dịp Đại lễ Thăng Long. Ngu ơi là ngu! Một ngàn năm Thăng Long là dịp tôn vinh triều Lý rực rỡ võ công văn trị, ca ngợi tầm nhìn viễn kiến của cuộc dời đô lịch sử. Vậy mà làm ngay cái phim về ông Thái sư Trần Thủ Độ là một người mưu mô lật đổ nhà Lý, dựng lên nhà Trần. Tận diệt con cháu nhà Lý, Trần Thủ Độ sai bày tiệc mời bà con hoàng tộc nhà Lý đến đánh chén rồi kéo sập bẫy giết đi. Tàn ác đến thế là cùng. (Xem ở đây).

Vậy mà Thành ủy Hà Nội, UBND TP, lãnh đạo Sở Văn hóa toàn các bậc khoa bảng về Triết, về Sử, về Văn...mà lại nhắm mắt phê duyệt việc làm phim như thế! 

Phim này, vì thế không chiếu được trong Đại lễ năm 2010, giờ đem ra chiếu. Chiếu lúc nào thì chiếu, cứ đem ra chiếu, xem là phải chửi, chửi để lần sau không ngu nữa! Tiền thì cứ đút túi, nhưng ngu cũng vừa vừa thì dân mới chịu được!

Đúng như Nhà thơ Trần Đăng Khoa viết:

Ngồi buồn cởi cúc xem chim
Còn hơn vào rạp xem phim nước mình!
Đọc tiếp...

Thứ Sáu, 19 tháng 7, 2013

MỘT KIẾN GIẢI VỀ NGUỒN GỐC NGÔI ĐÌNH LÀNG VIỆT NAM


Một kiến giải về nguồn gốc ngôi đình làng Việt Nam
Trần Thị Kim Anh
Vấn đề nguồn gốc và thời điểm xuất hiện ngôi đình làng từ lâu đã được nhiều nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa để tâm tìm hiểu. Mở đầu là nghiên cứu của Nguyễn Văn Huyên, trong một công trình nghiên cứu công phu về thành hoàng Lý Phục Man vào năm 1938, ông đưa ra giả thuyết: Đình vốn là hành cung của vua rồi sau mới thành đình làng.
Đọc tiếp...

Thứ Ba, 25 tháng 6, 2013

VĂN BIA THỜI LÝ CHO BIẾT NHỮNG GÌ VỀ KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO THỜI KỲ NÀY


 Chiểu thả sen, giữa hồ nổi lên một cột đá lớn, trên đỉnh cột là đóa sen vàng ngàn cánh nở rộ.

VĂN BIA THỜI LÝ CHO BIẾT NHỮNG GÌ VỀ KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO THỜI KỲ NÀY

Trần Thị Kim Anh
-viết riêng cho NXD-Blog

Văn bia thời Lý hiện còn cho biết về kiến trúc của 13 ngôi chùa. Dưới đây là những gì các văn bia ghi lại:
1. Chùa Linh Xứng trong văn bia Ngưỡng Sơn Linh Xứng tự bi minh (1089)
Chùa nằm trên sườn núi Ngưỡng Sơn (nay thuộc xã Hà Ngọc, huyện Hà Trung, Thanh Hóa) được Lý Thường Kiệt và Sùng Tín trưởng lão là thầy học của Thái Hậu Ỷ Lan chọn đất xây dựng trong 4 năm (1085-1089). Văn bia cho biết Lý Thường Kiệt và Sùng Tín trưởng lão đến vùng núi Ngưỡng Sơn, thấy cảnh trí thanh u, cây cối tốt tươi lại không quá xa làng xóm, bèn quyết định cho xây dựng chùa. Chùa được xây khá bề thế ở phía đông núi:
Đọc tiếp...

CHÙA MỘT CỘT - MỘT HUYỆT MẠCH QUAN TRỌNG CỦA LONG THÀNH



Chùa Một Cột rất cần có một cuộc đại trùng tu, nhưng…
Trần Thị Kim Anh 
viết riêng cho NXD-Blog 

Được biết ngày 30/9, UBND quận Ba Đình đã tổ chức Hội nghị xin ý kiến các nhà khoa học và các nhà quản lý về việc tu bổ, tôn tạo di tích lịch sử văn hóa chùa Một Cột- chùa Diên Hựu. Không thuộc diện được hỏi ý kiến, nhưng là người yêu quý lịch sử Thăng Long – Hà Nội, tôi xin cống hiến đến chư vị bài viết dưới đây. 

Điểm lại các tư liệu về chùa Diên Hựu - Một Cột: 

Tư liệu đầu tiên và cổ nhất hiện biết về chùa Diên Hựu - Một Cột chắc chắn là văn bia Đại Việt quốc Lý gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp bi được khắc đá năm 1121 đời vua Lý Nhân tông, 16 năm sau khi chùa được trùng tu. Văn bia cho biết, năm 1105 niên hiệu Long Phù Nguyên Hóa đời vua Lý Nhân tông, chùa được trùng tu lớn. Văn bia mô tả rất kỹ kiến trúc chùa trong lần trùng tu này như sau: “Mở rộng chùa Diên Hựu ở viên lâm phía tây cấm thành, noi theo quy chế cũ trước đây, nhưng thực hiện những mưu tính mới theo ý vua, đó là đào ao sen Linh Chiểu, giữa ao vọt lên một cột đá. Trên đỉnh cột đặt hoa sen ngàn cánh, trên hoa đặt vững một tòa điện tía. Trong điện đặt tượng Quan Âm dát vàng. Bên ngoài ao có hành lang vẽ vây quanh, bên ngoài vòng hành lang là ngòi nước biếc, mỗi mặt đều bắc cầu vồng đi thông vào. Nơi cây cầu ở sân phía trước, hai bên đầu cầu có hai ngọn bảo tháp lợp ngói lưu ly”. (Hướng tây cấm chi danh viên, quảng Diên Hựu chi quang tự. Tích tòng tiền chi cựu chế, xuất thánh ý chi tân mưu. Tạc Linh Chiểu chi phương trì, nhi trì trung dũng nhất thạch cán. Cán thượng kỳ thiên diệp liên hoa, hoa thượng nhi kiều an cam điện. Điện trung tọa kim tướng chi Năng nhân. Trì chi ngoại chu nhiễu họa lang, hoàn lang chi ngoại hựu sơ bích trì, mỗi giá phi kiều dĩ thông chi. Tiền kiều chi đình tả hữu Phạn  lưu ly bảo tháp… Thác bản hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu 32724 – 32725).

Đọc tiếp...

Chủ Nhật, 23 tháng 6, 2013

Trần Thị Kim Anh: TRAO ĐỔI TIẾP VỀ CỘT ĐÁ CHÙA DẠM

.
Trao đổi tiếp về cột đá chùa Dạm
Trần Thị Kim Anh

Lời dẫn của T- Blog: Bài viết này, tác giả Trần Thị Kim Anh nhằm trao đổi với một độc giả có ý kiến bình luận dưới đây, đăng trên Tễu Blog:

Chị Kim Anh nữ sĩ thân yêu của em. Em tra mãi các từ điển mà chưa ra cái chữ "Phật tràng", chỉ gặp cái chữ là "Kinh tràng / chàng" hoặc "thạch tràng / chàng" mà thôi. Kinh tràng có nghĩa như sau:Nhà Phật viết kinh vào lá cờ dùng làm nghi vệ thì gọi là kinh tràng, khắc vào cột đá thì gọi là thạch tràng. Cũng có khi người ta chú giải: Kinh chàng, cũng được gọi là thạch chàng. Cây cột đá có khắc văn kinh. Thông thường là cột đá hình bát giác khắc kinh Phật đính tôn thắng đà la ni. Phong tục này thịnh hành ở Trung quốc từ khoảng giữa đời Đường đến đời Ngũ đại Liêu Kim. Về sau truyền đến Triều Tiên, Nhật bản. Hiện nay rất nhiều di tích Kinh chàng còn được tìm thấy ở miền Bắc Trung quốc. Đọc "tràng" hay "chàng" thì cũng một chữ mà thôi.

Như vậy, cái khái niệm "Phật tràng" mà chị nói có thể là cách nói tắt "Phật kinh tràng" rồi bỏ chữ "kinh" đi chăng? Hoặc nó là một tạp ngữ / tục ngữ nên từ điển không đưa vào. Bởivậy, ta nên cứ nói là Thạch tràng hoặc Kinh tràng cho nó ổn. Ngày trước, khi thầy Hà Văn Tấn viết bài về mấy Kinh tràng Hoa Lư chúng em cũng đã dị nghị một số điều cần sửa rồi. Hai cái "kinh tràng" tiêu biểu, gần như cùng thời, ở ta là: 1 ở Nhất trụ tự (Hoa lư), 1 ở thôn Cầu Tự (vốn là Cựu tự) ở xã Ngọc xá huyện Quế võ, Bắc ninh. Bao giờ chị em mình lên đó chơi.

Còn cái chuyện cái cột đá chùa Dạm là gì, em mách chị gõ lên mạng mấy chữ Hán " Đăng Tháp - Đồng Tử Tự " thì thấy rõ Lý Nhân Tông đã "kiến Quảng chiếu chi đăng đài, hướng đoan môn chi đình thượng" ở Lãm Sơn như thế nào. Nó cũng là cái Đăng đài quảng chiếu như cái Đăng đài chùa Đồng tử đời Bắc Tề (dựng năm 556, cao 4m có 6 góc) bên Trung quốc thôi. Có điều cái của mình cao đẹp hơn 1 ít. Ông Nguyễn Hùng Vĩ ngày xưa nói trúng rồi đấy. Kính.

Đọc tiếp...

Trần Thị Kim Anh: CỘT ĐÁ CHÙA DẠM KHÔNG PHẢI LÀ LINGA (DƯƠNG VẬT)

Cột đá chùa Dạm là một Phật tràng
Trần Thị Kim Anh
- bài gửi riêng NXD- Blog

Về cột đá chùa Dạm, cũng như Nhà nghiên cứu Nguyễn Hùng Vĩ, tôi cũng có ý kiến phủ nhận đây là một linga. 

Nữ sĩ Trần Thị Kim Anh
Gần đây tôi có bài viết về chùa Một Cột trong đó có đưa ra ý kiến về kiến trúc Kinh tràng Phật tràng ở Phật giáo thời Đinh - Lê - Lý, trong đó có cho rằng Chùa Một cột nguyên là một Phật tràng - một loại hình kiến trúc Phật giáo thời cổ. Xin được dẫn lại một đoạn trong bài viết này:

“Ban sơ, khi xây dựng chùa Diên Hựu, trước chùa, người ta cho dựng một cột đá lớn trên mặt đất, với đỉnh cột là tượng Phật Quan Âm ngồi trên tòa sen. Lối kiến trúc này cho phép liên tưởng đến cấu tạo của các Phật tràng, Kinh tràng – một loại kiến trúc Phật giáo thường được dựng lên để kiến tạo công đức. Loại kiến trúc này bắt đầu thịnh hành vào thời Đường, lan truyền đến Triều Tiên Nhật Bản và Việt Nam. Thời Đinh - Lê ở nước ta, kinh tràng được tạo dựng khá nhiều, Nam Việt vương Đinh Liễn từng dựng 100 tòa kinh tràng vào năm Quý Dậu (973).

Đọc tiếp...

Thứ Hai, 2 tháng 7, 2012

Nhật ký biểu tình: CHÚNG TÔI KHÔNG ĐƠN ĐỘC


Biểu tình chống Trung Quốc ngày 1/7: 
Chúng tôi không đơn độc
Trần Thị Kim Anh

Từ mấy hôm trước khi cả nhà vừa ăn cơm vừa xem TV, thấy chương trình thời sự đưa tin tin TQ gọi thầu khai thác 9 lô dầu khí ở thềm lục địa của VN, có nơi chỉ cách mấy chục hải lý, mình hỏi Mr.chồng: “Thế là khoảng bao nhiêu cây?”. Lão đáp “hơn 50 cây”. Thế có uất không, thế là xâm lược rồi còn gì nữa, nó vào tận cửa nhà mình rồi.

Mấy hôm sau điện thoại réo, Hương gọi:  “Chủ nhật đi nhé”. Mình ậm ừ, đang bận mù ra, nếu đi thế nào lão chồng cũng gầm gừ. Nhưng không đi không được, bởi cứ tức nghẹn lên, đi để xả nỗi uất ra cho đỡ nghẹt. Vả lại, được chứng kiến những sự kiện như thế này là một cơ may. Thế là quyết định đi.

Đêm trằn trọc, thấy trời mưa, nghĩ mưa thế này mát, mai bà con đỡ vất vả, nào ngờ càng về sáng mưa càng to. 5h30 mò dậy, gọi điện cho Hương: “Mưa thế này có đi không?”. Giọng mụ tỉnh queo: “Đi chứ, mày gọi xe đi rồi sang đây”. Hơn 6h đón Hương tận cổng. Mụ thật xinh đẹp, đầm tím, tóc bồng bềnh. Xe chạy theo lối phố cổ lên Cầu Gỗ.
Đọc tiếp...

Thứ Hai, 12 tháng 3, 2012

Ý KIẾN MỚI VỀ BỂ XƯƠNG NGƯỜI Ở HUYỆN QUỐC OAI, HÀ NỘI


 Những bộ hài cốt trong hang động núi Sài Sơn 
không phải của quân cờ đen Lưu Vĩnh Phúc

Hoàng Hoa

Về chuyện có hàng ngàn bộ xương cốt tồn tại trong hang động trên núi Sài Sơn thực ra vào cuối thế kỷ XVIII đã được Phạm Đình Hổ (1768 – 1839) nói đến trong bài ký Du Phật Tích sơn của ông, đoạn văn đó như sau: “Đêm, nói chuyện về núi Phật tích, ông anh họ tôi kể rằng, cụ ngoại tôi là quan Bảng nhãn có bà con gái, tức cô ngoại tôi, từ nhỏ đã mộ đạo Phật. …rồi xuất gia đi tu ở chùa Tiên Lữ. Cụ từng đi chơi núi Phật Tích, vào hang thần, hang tối mù, ngày cũng như đêm, …Ở một chỗ hõm, thấy xương người chồng chất, nhũ đá rủ xuống thành trăm thứ kỳ quái….

Vậy là xương người chồng chất ở trong động đã có từ thế kỷ XVIII, nên chắc chắn không thể là xương của quân cờ đen Lưu Vĩnh Phúc cố thủ trong hang bị người Pháp hun khói mà chết được. Tuy nhiên bảo đây là những bộ xương của quân Lữ Gia từ cách đây hơn 2000 năm thì cũng khó tin, bởi đúng như GS Lân Cường nói, trải qua hơn 2000 năm, trong môi trường nóng ẩm như vậy, xương cốt đã tan thành đất từ lâu rồi.

Có một thông tin có lẽ chúng ta nên tham khảo, theo tôi được biết, khi quân Minh xâm lược Đại Việt, nhiều nơi, dân làng bỏ trốn vào hang núi, bị quân Minh phát hiện, chúng đã tàn bạo đốt lửa ở miệng hang hun chết hàng ngàn người. Chuyện này đã từng xảy ra ở Ninh Bình, Thanh Hóa, khiến Nguyễn Trãi phải viết:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Sách Thanh Hóa Vĩnh Lộc huyện chí viết: “Thời người Minh chiếm đóng, việc phu phen tạp dịch phiền hà nặng nề, mọi người không kham nổi, có người dẫn đường vào trốn trong động (núi Cô Sơn, huyện Vĩnh Lộc). Sau này xã Hoàng Xá nhiều người tránh vào trong đó, bị người Minh truy bắt, phóng hoả rất lớn, người trốn trong động chẳng phân biệt trai gái già trẻ, đều bị thiêu chết hết". 

Việc hang động ở Sài Sơn còn ám khói, lại tìm thấy ở đây những đồng tiền thời Tống và những mảnh gốm rất giống kiểu gốm sứ thời Trần cho thấy, có thể tại đây cũng đã từng xảy ra một vụ tương tự như ở Thanh Hóa, Ninh Bình vào cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, khi quân Minh xâm lược nước ta.
Hoàng Hoa

Đọc tiếp...