HAI VĂN
BẢN HƯỚNG DẪN KHÁM NGHIỆM PHÁP Y
THỜI LÊ VÀ CHẾ ĐỘ KHÁM NGHIỆM PHÁP Y
Trần Thị Kim Anh
Ở thời Lê, việc ban hành Bộ luật Hồng Đức dưới triều vua Thánh Tông cùng hàng loạt các văn bản, sắc, lệnh, điều lệ… của vua chúa các triều đại sau đó mà ngày nay khá nhiều vẫn còn được lưu giữ trong các văn bản như Hồng Đức thiện chính; Lê triều hội điển; Quốc triều khám tụng điều lệ; một phần trong phần còn lại của bộ Thiên Nam dư hạ; Lê triều quan chế điển lệ, Lê triều sự lệ… đã khiến cho pháp luật của thời kì này trở nên khá hệ thống và hoàn chỉnh. Có thể nói hầu như mọi họat động xã hội đều được đặt dưới sự kiểm soát và điều chỉnh của pháp luật, có lẽ, chính vì vậy thời Lê, như đã được đánh giá là thời kì mà nhà nước phong kiến đạt đến mức độ phát triển cực thịnh.
Trước nhận định: chế độ pháp luật
thời Lê khá hệ thống và hoàn chỉnh, chắc không ít người đời nay đặt ra câu hỏi:
Vậy với các vụ án hình sự người xưa có hay không thực hiện các thủ tục khám
nghiệm pháp y đã hết sức đầy đủ, chưa kể trong quá trình giao lưu tiếp xúc với
văn hóa Trung Quốc, người xưa đã học được không ít về lý luận và kinh nghiệm
khám nghiệm pháp y của đất nước được coi là có những tài liệu sớm nhất thế giới
đề cập đến khám nghiệm hiện trường và kiểm nghiệm pháp y này(1).
Xem xét hệ thống pháp luật thời Lê,
có thể thấy chế độ tư pháp thời kì này đã sử dụng bộ máy phân quyền địa phương,
tập quyền trung ương, nhấn mạnh việc phúc tra các án kiện, phân cấp xét xử rõ
ràng, đề cao hết mức hiệu lực thẩm phán tư pháp phong kiến. Từ đó nhấn mạnh
công tác khám nghiệm, xác lập chế độ khám nghiệm pháp y tương ứng, bắt buộc. Do
đó ở thời kì này, ngoài các quy định về khám nghiệm pháp y vốn có trong Bộ luật
Hồng Đức(2) còn có hàng loạt các lệ định ban bố pháp lệnh liên quan đến
việc chỉ đạo khám nghiệm pháp y. Sách Lịch triều hiến chương loại chí, chương
Hình luật(3) cho biết:
- Quang Thuận năm thứ 6 (1465) ban
hành lệnh: Gặp xác chết bên đường có vết thương thì phải cáo rõ với quan sở tại
để làm đủ phép khám nghiệm rồi mới được chôn cất. Làm trái như vậy, luận
tội trượng, biếm.
- Vĩnh Thọ năm thứ 3 (1660) định lệ
đền mạng về đánh giết người, phải nộp lễ khám nghiệm cho nha môn phủ
huyện 15 thước lụa và 1 quan rưỡi. Cho Chánh tổng Xã trưởng 10 thước lụa và 1 quan.
- Niên hiệu Vĩnh Trị thứ nhất
(1676), định lệ xét xử kiện tụng: Việc kiện về nhân mạng thì phủ, huyện cứ theo
án khám nghiệm của tổng xã mà xét đoán theo luật.
- Niên hiệu Chính Hòa thứ 15 (1694),
định các điều lệ về khám kiện: Phạm kiện về nhân mạng thì ngay hôm đó, khổ chủ
phải chạy xin bản tổng bản xã và quan phủ huyện về lập biên bản… Khám nghiệm
cần lấy dấu vết thực làm bằng.
- Niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 15
(1719), Ngự sử đài sức cho nha môn Thừa hiến và phủ huyện: Phàm khi mới nhận
được tin báo nên hỏi rành mạch về duyên cớ… Khám vết thương xem do đánh bằng
chân tay hay khí giới, gậy gộc. Hết thảy phải ghi cho chính xác để lấy chỗ dựa
khi xét xử.
- Niên hiệu Long Đức thứ 3 (1734),
định điều lệ xét xử kiện tụng: Phàm kiện về nhân mạng phải có trình xin lập
biên bản khám nghiệm mới cho xét xử. Nếu người đã chết hàng năm, không
có biên bản khám nghiệm thì không được nhận xét xử.
Qua đó có thể thấy, chế độ khám
nghiệm pháp y trong hệ thống pháp luật đời Lê đã được xác lập. Chính trên cơ sở
đó, nhu cầu cần có những tài liệu mang tính chất như những tài liệu lí luận chỉ
đạo cho công tác khám nghiệm pháp y nảy sinh. Có cầu ắt có cung, sách hướng dẫn
khám nghiệm pháp y đã xuất hiện và lưu hành hoặc tự phát, hoặc dưới sự chỉ đạo
của cơ quan pháp luật nhà nước.
Về những tài liệu này, có thể thời
kì đầu người ta chủ yếu dựa trên một số bộ sách nổi tiếng của Trung Quốc như Tẩy
oan lục đời Tống hay Vô oan lục đời Minh… do các quan lại Trung Quốc
đưa sang trước đó hoặc do người Việt đặt mua tại Trung Quốc. Ở đây xin được nói
đôi chút về bộ sách Tẩy oan lục hay còn gọi là Tẩy oan tập lục, bởi
đây là bộ sách pháp y nổi tiếng của Trung Quốc, từ rất sớm đã được dịch và lưu
truyền bằng nhiều thứ tiếng, có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của khoa
học pháp y phương Tây và các nước phụ cận. Tẩy oan lục được coi là bộ
sách đầu tiên trên thế giới trình bày có hệ thống về chế độ kiểm nghiệm pháp y
và khoa học pháp y. Sách do Tống Từ, giữ chức Đề hình tỉnh Hồ Nam Trung Quốc
(thời Tống) soạn. Sách được chia thành năm quyển. Nội dung gồm 53 mục như Tổng
luận, Phúc tra, Tạp thuyết về những nghi vấn khó xử lý, bàn về việc tự treo cổ,
tự trẫm mình, tự uống thuốc độc… Trong đó lại phân tích phân loại từng hiện
trạng tự thương, những hiện tượng khác nhau trên từng loại thi thể để làm căn
cứ đoán định nguyên nhân cái chết cùng các thủ tục, phương pháp cần phải tuân
theo khi khám nghiệm… Nhìn chung, mọi vấn đề được trình bày khá rõ ràng tỷ mỉ,
hình thành được những nguyên tắc tương đối khoa học cho công tác khám nghiệm
hiện trường và kiểm nghiệm pháp y. Hiện nay tại kho sách của Viện Nghiên cứu
Hán Nôm còn lưu giữ một cuốn sách mang tên Tẩy oan lục, sách này được
đánh kí hiệu là VHb 194, dày 225 trang khổ 18 x 12, được sao lại vào đời Nguyễn
từ bản khắc in của nhà sách Ngô Giang Kim Đình Liệt Trung Quốc. Nội dung tương
tự với sách Tẩy oan tập lục vừa trình bày ở trên.
Sau này qua thực tiễn xét xử, qua
thực tế khám nghiệm, do những quy định của pháp luật và yêu cầu của tình hình
thực tiễn đương thời, đồng thời dựa trên các tài liệu của Trung Quốc, người ta
đã biên soạn ra những tài liệu khám nghiệm pháp y phù hợp với tình hình thực tế
của Việt Nam hơn.
Hiện nay về loại sách này, trong kho
sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm chúng tôi còn tìm được 2 đầu sách, một mang
tên Công án tra nghiệm bí pháp và một là Nhân mạng tra nghiệm pháp.
Về sách Công án tra nghiệm bí
pháp hiện tại có 3 văn bản viết tay mang các kí hiệu A1760; A401 và VHv 2715.
Bản A1760 dày 108 trang, khổ 29 x 16. Bản A401 dày 82 trang khổ 31 x 22, bản
này do EFEO sao lại vào đầu thế kỉ 20. Bản VHv 2715 dày 138 trang khổ 28 x 16,
do Đỗ Huy Tằng sao năm 1964, bản này có nội dung trùng khớp với bản của EFEO. Ở
cả 3 bản, các trang đầu đều ghi rõ, sách do Tham tụng Phan Duy Phiên, cùng các
đệ tử là Dương Hợp, Trần Đôn, Nguyễn Chí biên soạn năm Vĩnh Thịnh 10 (1714).
Riêng bản A1760, sau bài tựa có đề thêm một dòng: "Vĩnh Thịnh thập niên,
Mạnh xuân cốc nhật, Mai Hiên chủ nhân thủ soạn" (Niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ
10 (1714), ngày lành tháng Giêng, Mai Hiên chủ nhân soạn). Song đây cũng không
phải sách có niên đại Lê Vĩnh Thịnh 10, tức năm 1714, bởi tất cả các chữ Thời (時) trong
sách này đều đã được viết kiêng húy theo lệ kiêng húy thời Tự Đức, chứng tỏ văn
bản đã được sao lại sớm nhất là dưới thời Tự Đức. Về nội dung, sách có các mục
chính như: Khám nghiệm hiện trường các vụ án trộm cắp; Nguyên tắc chung khi
khám nghiệm các vụ án nhân mạng; Khám nghiệm thi thể chết đuối; Khám nghiệm thi
thể tự ải; Khám nghiệm thi thể chết cháy; Khám nghiệm hoang thai… Các hình vẽ
về thủ tục khám nghiệm các vụ đánh nhau gây chết người, hình vẽ về thai nhi từ
tháng thứ nhất đến tháng thứ 7. Đặc biệt sách này ngoài phần chữ Hán còn có
phần diễn Nôm. Thời xưa, giao thông khó khăn, từ nha môn phủ huyện về các làng
xã không thể nhanh chóng được, do đó khi xảy ra các vụ án, những người có trách
nhiệm có mặt tại hiện trường đầu tiên thường là các Xã trưởng. Luật lệ thời Lê
cũng qui định, khi xảy ra án mạng khổ chủ phải trình báo ngay cho Xã trưởng
biết và Xã trưởng có trách nhiệm đến ngay hiện trường để khám xét lập biên bản.
Việc khám nghiệm hiện trường là vấn đề đòi hỏi phải có kiến thức chuyên môn, mà
trên thực tế, chữ nghĩa của các vị Xã trưởng chẳng được bao lăm, việc tra đọc
tìm hiểu trong các văn bản chữ Hán về những vấn đề này là hết sức khó khăn. Do
đó đặt ra các bài ca Nôm dễ đọc dễ thuộc đối với các Xã trưởng là cần thiết. Có
thể nói đây thực sự là những yêu cầu nảy sinh từ thực tiễn điều tra xét xử của
xã hội Việt Nam
đương thời. Những bài ca Nôm trình này về cách khám nghiệm khá dễ hiểu, tỷ mỉ,
rõ ràng. Chẳng hạn khi khám nghiệm thi thể chết đuối, để phân biệt được nạn
nhân tự tử hay bị đánh chết rồi mới ném xuống nước, tác giả viết:
Này đoạn nịch tử(4) kể ra:
Này đoạn nịch tử(4) kể ra:
Thực hư ắt phải
hòa tra cho tường.
Dẫu cho đến nỗi
đã trương
Nước trong
chẳng có thường thường chảy ra
Khẩu tý thủy
huyết chẳng pha(5)
Ấy là đả tử
trầm hà mới xong…
Đó là trường hợp nạn nhân đã chết
rồi mới ném xuống nước. Còn ở trường hợp tự tử thì:
Phép nghiệm
chẳng lọ đôi co
Lấy muốn cùng
dấm cùng tro trộn vào
Gối đầu lên khí
cao cao
Lấy ba quan quí
để vào tễ trung(6)
Nhất giây cửu
khiếu lưu thông
Thủy huyết trên
dưới ròng ròng chảy ra
Ấy là hẳn thực
trầm hà…
Còn
với thi thể chết do thắt cổ:
Thực như ải tử(7)
nói ra
Cổ sưng tay
chắp ngã ba hung(8) này
Tay
thời mỗi ngón mỗi ngay
Chân xuông đuột
đuột chỉ ngay đón đầu.
Ngón chân cái
chỉ nơi đâu.
Đào lên thấy
máu ấy hầu thực nay.
Nhược bằng mắt
chẳng lồi rày.
Chân tay chẳng
chỉ ắt rày là gian.
Trên đây là đôi nét sơ lược về sách Công án tra nghiệm bí pháp. Xin được nói tiếp sang sách Nhân mạng tra nghiệm pháp. Sách này tại thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm chỉ có một văn bản viết tay mang kí hiệu A2034. Sách dày 56 trang khổ 27 x 16, niên đại ghi trên sách là Vĩnh Hựu 3 (1737). Về nội dung, ở trang đầu, dòng chữ Hán ghi "Hình bộ Lâm quận công Phạm Trạc phụng biên tập" cho biết, sách do Lâm quận công Phạm Trạc ở bộ Hình biên tập theo yêu cầu của triều đình. Có lẽ chính vì vậy so với sách Công án tra nghiệm bí pháp sách này có tính chất qui phạm hơn. Sách gồm 49 mục, trình bày khá chi tiết tỷ mỉ về cách xem xét các loại tử thi, các loại vết thương. Cho biết cách phân biệt các vết thương bị đánh do loại hung khí nào, cách làm bộc lộ các vết thương chùm dưới da, cách khám nghiệm xương khi người chết đã bị thiêu cháy, phân biệt xương của nạn nhân là nam hay nữ, cách khám nghiệm tử thi đã rữa nát. Ngoài ra còn có một số bản vẽ cơ thể người ở các vị trí nằm sấp, nằm ngửa cùng các chú thích về tên gọi của các vị trí trên cơ thể. Xin dẫn ra một số dẫn chứng cụ thể. Chẳng hạn khám nghiệm tử thi chết do bị sát thương, sách viết: "người bị sát thương, mắt miệng đều mở, tóc rối, hai tay giơ lên, trên tay tất có thương tổn, chỗ bị thương da thịt rách nát, xung quanh bậm máu". Bàn về khám nghiệm xương thì "Trên xương có chỗ bị đánh thì lộ rõ ngấn đỏ. Nếu bị đánh gẫy thì hai đầu xương vầng máu, lại có các mảnh xương, giơ lên ánh mặt trời để soi thấy sắc hồng còn hoạt thì rõ ràng lúc còn sống bị đánh". Hoặc nói về cách làm bộc lộ vết thương, sách cho biết: Vết thương trên thi thể không rõ, chỉ có chỗ khả nghi thì trước hết đem nước rửa sạch, sau đó dùng hành đâm nhuyễn đắp lên chỗ nghi ngờ, chờ một lúc rồi bỏ hành đi lấy nước rửa sạch, nếu thấy có vết tím đem lấy nước rỏ lên, thực sự là vết thương thì chỗ đó cứng, nước đọng lại không chảy, còn nếu không phải là vết thương thì chỗ đó mềm, nước tuột đi…"
Trên đây là đôi nét sơ lược về sách Công án tra nghiệm bí pháp. Xin được nói tiếp sang sách Nhân mạng tra nghiệm pháp. Sách này tại thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm chỉ có một văn bản viết tay mang kí hiệu A2034. Sách dày 56 trang khổ 27 x 16, niên đại ghi trên sách là Vĩnh Hựu 3 (1737). Về nội dung, ở trang đầu, dòng chữ Hán ghi "Hình bộ Lâm quận công Phạm Trạc phụng biên tập" cho biết, sách do Lâm quận công Phạm Trạc ở bộ Hình biên tập theo yêu cầu của triều đình. Có lẽ chính vì vậy so với sách Công án tra nghiệm bí pháp sách này có tính chất qui phạm hơn. Sách gồm 49 mục, trình bày khá chi tiết tỷ mỉ về cách xem xét các loại tử thi, các loại vết thương. Cho biết cách phân biệt các vết thương bị đánh do loại hung khí nào, cách làm bộc lộ các vết thương chùm dưới da, cách khám nghiệm xương khi người chết đã bị thiêu cháy, phân biệt xương của nạn nhân là nam hay nữ, cách khám nghiệm tử thi đã rữa nát. Ngoài ra còn có một số bản vẽ cơ thể người ở các vị trí nằm sấp, nằm ngửa cùng các chú thích về tên gọi của các vị trí trên cơ thể. Xin dẫn ra một số dẫn chứng cụ thể. Chẳng hạn khám nghiệm tử thi chết do bị sát thương, sách viết: "người bị sát thương, mắt miệng đều mở, tóc rối, hai tay giơ lên, trên tay tất có thương tổn, chỗ bị thương da thịt rách nát, xung quanh bậm máu". Bàn về khám nghiệm xương thì "Trên xương có chỗ bị đánh thì lộ rõ ngấn đỏ. Nếu bị đánh gẫy thì hai đầu xương vầng máu, lại có các mảnh xương, giơ lên ánh mặt trời để soi thấy sắc hồng còn hoạt thì rõ ràng lúc còn sống bị đánh". Hoặc nói về cách làm bộc lộ vết thương, sách cho biết: Vết thương trên thi thể không rõ, chỉ có chỗ khả nghi thì trước hết đem nước rửa sạch, sau đó dùng hành đâm nhuyễn đắp lên chỗ nghi ngờ, chờ một lúc rồi bỏ hành đi lấy nước rửa sạch, nếu thấy có vết tím đem lấy nước rỏ lên, thực sự là vết thương thì chỗ đó cứng, nước đọng lại không chảy, còn nếu không phải là vết thương thì chỗ đó mềm, nước tuột đi…"
Tuy nhiên qua nội dung có thể thấy
sách được tham khảo và tập hợp từ nhiều tài liệu của Trung Quốc, có châm chước
theo tình hình thực tiễn và những qui định của luật pháp đương thời. Nhìn chung
ở cả 2 tập sách, ngoài việc giới thiệu phương pháp thẩm vấn, lấy chứng cứ, khám
nghiệm hiện trường ra nó còn thông qua các dẫn chứng thực tế để trình bày
phương pháp khám nghiệm pháp y. Chẳng hạn ở phương diện kiểm tra thương tích, không
những đã đoán định được khá chính xác mức độ tổn thương để có thể định ra những
chế tài xử phạt khác nhau mà còn xác định khá chính xác hung khí gây thương
tích. Hoặc qua những phân tích về thai nhi, về cơ thể phụ nữ, có thể đoán định
được tháng của thai nhi, hay phụ nữ có bị cưỡng bức hay không một cách khá khoa
học. Cũng như vậy đối với phương pháp khám nghiệm thi thể, qua phân tích mức độ
tổn thương và các biểu hiện trên thi thể, có thể đoán định được nạn nhân chết
do nguyên nhân nào, hung khí gì. Đặc biệt đối với những thi thể chết do treo
cổ, chết đuối, chết cháy, thông qua phân tích tư thế của tử thi, các biểu hiện trên
một số bộ phận của cơ thể, của xương, trên y phục, có thể biết nạn nhân chết do
tự tử hay bị giết chết rồi mới bị treo lên hoặc đốt cháy, ném xuống nước. Ngoài
ra về thể thức, các biên bản khám nghiệm hiện trường và kiểm nghiệm pháp y đã
bắt đầu có cách thức và quy định rõ ràng.
- Tóm lại, qua những gì đã trình bày
ở trên, có thể thấy vào thời Lê, chế độ kiểm nghiệm pháp y đã được xác lập
và phần nào được quy phạm hóa.
Tuy ngày nay, tất cả những kiến thức
này đã trở nên giản đơn và lạc hậu. Song đối với xã hội đương thời đó thực sự
là những tiến bộ đáng ghi nhận.
__________
Chú thích:
1. Đó là
thiên Phong chẩn thức nằm trong bộ Tần luật khai quật được ở tỉnh
Hồ Bắc, Trung Quốc.
2. Xem Quốc
triều hình luật. Chương Đấu tụng, Đoán ngục.
3. Xem Quốc
triều hình luật. Chương Đấu tụng, Đoán ngục.
4. Nịch
tử: chết đuối.
5. Nước
có lẫn máu chảy ra từ mồm miệng.
6. Để
hỗn hợp dấm muối tro chừng bằng 3 đồng tiền vào giữa rốn.
7.
Ải tử: chết do treo cổ.
8.
Ngã ba hung: chỗ xương mỏ ác.
Nguồn:
Thông báo Hán Nôm học 2001, tr.16-26
Người dân ngày càng nhận thức được sự bất bình đẳng và họ đã có thể hành động không còn sợ hãi nỗi bất công đó. Chưa bao giờ một vụ "án mạng" mà công an tham gia đông thế này... Nếu cùng một lúc xảy ra nhiều vụ chắc có lẽ không đủ lực lượng để giải quyết.
Trả lờiXóaCung cấp cho chủ blog tên 5 công ty sân sau nhà ông chủ tịch Vĩnh Phúc Phùng quang Hùng đây:
Xóa1/CÔNG TY TNHH MỘT THÀNH VIÊN XÂY DỰNG-THƯƠNG MẠI CƯỜNG ANH
Số ĐKKD:2500413270-Người đại diện:PHÙNG THẾ CƯỜNG-địa chỉ: Phường Hội Hợp -Vĩnh Yên - Tỉnh Vĩnh Phúc
2/CÔNG TY TNHH MỘT THÀNH VIÊN XÂY DỰNG TOÀN OANH
Số ĐKKD:2500407929-Người đại diện:PHÙNG QUANG HƯNG-Địa chỉ:Phường Hội Hợp -Vĩnh Yên - Tỉnh Vĩnh Phúc
3/CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG VÀ THƯƠNG MẠI TRƯỜNG HẢI
Số ĐKKD:2500297063-Người đại diện:PHÙNG QUANG HẢI-Địa chỉ:Phường Hội Hợp,Vĩnh Yên, Tỉnh Vĩnh Phúc
4/CÔNG TY CỔ PHẦN DƯƠNG THÀNH AN
Số ĐKKD:2500297063-Người đại diện:PHÙNG QUANG HẢI-Địa chỉ:Phường Hội Hợp -Vĩnh Yên - Tỉnh Vĩnh Phúc
5/CÔNG TY TNHH TƯ VẤN ĐẦU TƯ VÀ XÂY DỰNG THÀNH AN
Số ĐKKD:2500334290-Người đại diện:PHÙNG QUANG HUY-Địa chỉ:Phường Hội Hợp,Vĩnh Yên, Tỉnh Vĩnh Phúc
Chú ý tất cã các công ty này đều nằm ở phường Hội Hợp,nơi xảy ra án mạng của anh Tuấn Anh và 4 trong số 6 nghi phạm làm việc cho các công ty này.Xin cảm ơn
Luật lệ Đại Việt thời phong kiến qui định rất chặt chẽ và tỉ mỉ v/v khám nghiệm tử thi song ngày nay phê bình những kiến thức đó là giản đơn và lạc hậu. Vậy mà ngày nay cho là tiến bộ và khoa học lại đua ra hai kết luận về khám nghiệm tử thi anh Nguyễn Tuấn Anh khác nhau và mâu thuẫn nhau . Kết luận khám nghiệm lần đầu nói là chết đuối . Lần thứ hai lại kết luận là bị đánh . Không lẽ những vết bầm , những chấn thương còn rành rành trên tử thi mà các người khám nghiệm tử thi lại chỉ kết luận đơn giản là chết đuối . Ngày nay tiến bộ hơn ngày xưa rất nhiều lại có kết luận lạc hậu hơn xưa rất nhiều . Có ai xử lí những việc làm tắc trách này không ? ?? Những việc làm sai trái như vậy mà cứ bảo là dân tin , dân yêu . Dân bức xúc đi đòi công bằng thì gọi chống CQ, chống Đảng . Dân chỉ chống cái sai trái bất công thôi .
Trả lờiXóaNgạc nhiên thú vị vì trình độ văn minh của thời Lê xa xưa thế nào, thì đau lòng nghĩ đến sự man rợ hóa của xã hội chúng ta ngày nay thế nấy!
Trả lờiXóaMột ông CT tỉnh mà có tới những năm CTy sân sau thế thì dân còn gì để ăn nữa.4/6 nghi phạm nằm trong các Cty này thì rõ ràng đây là một nhóm đệ của bọn chúng chứ còn gì nữa.Biết vậy nhưng khó điều tra được một khi quyền và tiền đều nằm trong tay chúng thì thao túng đổi trắng thay đen khó gì
Trả lờiXóaMột ông CT tỉnh mà có tới những năm CTy sân sau thế thì dân còn gì để ăn nữa . thì dân cạp đất mà ăn , nhưng cũng không còn đất ăn nửa vì chúng cướp hết rồi .
Trả lờiXóaĐó mới chỉ là mặt nổi thôi, còn của chìm ai mà đếm được . Các quan chức thời nay giống nhau ở khoản này .
XóaThời nay thì tử thi được đưa ngay về nhà tang lễ và hỏa thiêu càng sớm càng tốt!
Trả lờiXóa