Hiển thị các bài đăng có nhãn Hán Nôm. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hán Nôm. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 19 tháng 11, 2025

HỌC TRÒ GÓP TIỀN BẦU HẬU ĐỂ THẦY ĐƯỢC THỜ BÊN CẠNH PHẬT, ĐƯỢC CHÙA CÚNG GIỖ

Nhân ngày Hiến chương Các Nhà giáo:
THẦY MẤT MÀ KHÔNG CÓ CON NỐI DÕI, HỌC TRÒ GÓP TIỀN BẦU HẬU ĐỂ THẦY ĐƯỢC THỜ BÊN PHẬT, ĐƯỢC CHÙA CÚNG GIỖ
Phạm Thùy Vinh

Ở làng Phú Thị huyện Gia Lâm phủ Thuận An xứ Kinh Bắc (nay là xã Phú Thị huyện Gia Lâm – Hà Nội) có một tấm bia hậu tạo năm Cảnh Hưng 7 (1746) triều Lê.

Người được bầu hậu (ở đây là hậu Phật) trong bia này tên là Ngô Bảo quê tại làng Phú Thị. Ông được làng bầu hậu không phải do ông đã cúng cho làng một khoản kinh phí nào đó. Quyền lợi của là sau khi mất đi được cả làng thờ cúng mãi mãi ở đình hoặc ở chùa, hoặc ở văn chỉ…

Thứ Hai, 17 tháng 11, 2025

CHUÔNG BÍCH UNG - MỘT BÁU VẬT CỦA VĂN MIẾU QUỐC TỬ GIÁM HÀ NỘI


CHUÔNG BÍCH UNG
Nhạc khí Thánh đường Quốc Tử giám 
Bài của Bùi Quang Tuấn
 
Chuông (鍾) vốn là nhạc khí, nhạc khí để sử dụng trong các nghi lễ tế tự. Năm nay (2025), nhân dịp kỷ niệm 20 năm thành lập Nhân Mỹ Học Đường và khai mạc triển lãm Hàn Mặc lần thứ XIII, một canh tế đức Đại Thành Chí Thánh Tiên Sư Khổng Tử cùng các vị tiên nho đã được long trọng cử hành tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. May mắn được nhận một vai trò nhỏ trong lễ nghi, hầu cho chuông trở về với chức phận vốn có của nó. Nhân lúc đứng bên cạnh, khi tiếng chuông vang lên, đọc được văn khắc trên thân chuông, nay ghi chép lại đây để chia sẻ cùng các bạn.
 

Thứ Hai, 3 tháng 11, 2025

KINH KHỦNG! VỤ ÁN CẢ LÀNG LẬP HƯƠNG ƯỚC ĐỂ GIẾT NGƯỜI CƯỚP CỦA

 
Tổng số bị giết hại: 318 người, trong hơn 20 năm. Tổng số kẻ giết người: 290 tên, trong đó có 52 tên đầu sỏ.

Lời bình của Nguyễn Xuân Hùng: Vụ trọng án kéo dài và man dợ nhất trong lịch sử Việt Nam, có 290 bị cáo, 52 án tử hình; Trưởng Ban chuyên án đích thân đọc văn tế 318 nạn nhân bị tội phạm sát hại; Một địa danh bị xóa bỏ, một ngôi làng bị san phẳng để không gợi lại nỗi đau cho hậu thế.

FB Phạm Thanh Tùng: Nhân A Diện nói về Vua Lê – Chúa Trịnh, tôi nói thêm chuyện nữa liên quan đến Chúa Trịnh mà cụ thể là Chúa Trịnh Căn.

Thứ Tư, 26 tháng 3, 2025

SẮC PHONG MẪU LIỄU HẠNH LÀ MÃ VÀNG HAY MẠ VÀNG CÔNG CHÚA?


VỀ DANH HIỆU THÁNH MẪU LIỄU HẠNH: MÃ VÀNG CÔNG CHÚA, MẠ VÀNG CÔNG CHÚA hay là MÃ HOÀNG CÔNG CHÚA
 
Trong cuốn Tiên phả dịch lục, Kiều Oánh Mậu đã viết về Thánh Mẫu Liễu Hạnh” “Bất giác trong tôi dấy lên lòng kính sợ và cho rằng: Người là Nho, là Phật, là Pháp, là Tiên, là Thần cả đó”. 
 
Như lâu nay chúng ta cùng biết, trong Vân Cát thần nữ, Liễu Hạnh công chúa có hai thần hiệu là
禡黃公主 Mã Hoàng công chúa và 制勝和妙大王 Chế Thắng Hòa Diệu Đại vương. Cả hai đều là của triều đình sắc phong.
 
Danh hiệu 制勝和妙大王 Chế Thắng Hòa Diệu Đại vương được phong vì chúa có công giúp triều đình trừ giặc, vậy còn 禡黃公主 Mã Hoàng công chúa thì khởi nguồn từ đâu?
 
Theo khảo cứu và phát hiện của bạn Lê Tùng Lâm, thì: 
 
"Vân Cát thần nữ chép năm Cảnh Trị, ngài được triều đình phong làm Mã Hoàng công chúa. Tuy nhiên khi đọc các văn bản thần tích hữu quan, chúng tôi phát hiện hai chữ “Mã Hoàng” có ba cách viết khác nhau. 
 
Có 4 bản thần tích chép là
鎷鐄,
Có 2 thần tích ghi là
禡黃,
và cách viết phổ biến nhất là
禡鐄 trong 16 thần tích. 

Thứ Hai, 24 tháng 3, 2025

PHỦ VÂN CÁT LÀ NỀN NHÀ CŨ VÀ LÀ NƠI GIÁNG SINH MẪU LIỄU HẠNH


PHỦ VÂN CÁT LÀ NỀN NHÀ CŨ
VÀ LÀ NƠI GIÁNG SINH THÁNH MẪU LIỄU HẠNH 
 
Quần thể di tích Phủ Dày, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định bao gồm Phủ Vân Cát, Phủ Tiên Hương, Khu lăng Mẫu Liễu Hạnh và các đền phủ đình chùa xung quanh. 
 
Tại Phủ Vân Cát có nhiều bức hoành phi, nhiều đôi câu đối xác nhận đây chính là NHÀ CŨ (cố trạch) và là nơi Mẫu Liễu Hạnh GIÁNG SINH (được xem như là nơi chôn nhau cắt rốn của Mẫu). Xin dẫn chứng các bức hoành phi và một đôi câu đối có hình ảnh kèm theo đây.

Thứ Hai, 23 tháng 12, 2024

Nguyễn Xuân Diện: NHƯ THANH NHẬT KÝ (TRỌN BỘ 7 KỲ)


Như Thanh nhật ký (2009)

Lâm Khang chủ nhân

Thưa chư vị, hồi giữa năm 2008 Tây lịch, tôi và ông Thiền Phong, ông Chuyết Chuyết được cử đi Xứ Thanh để khảo cổ tích. Tôi có viết một cái Như Thanh nhật ký (7 kỳ), có đăng trên trang nhà. Như Thanh nhật ký được anh em thích lắm, từ giới giang hồ đến dân bút mực đều tán thưởng. 
 
Hôm trước, ở cái bài này, tôi có nói đến cái nhật ký ấy, thì nhiều anh em viết thơ cho tôi, nói rằng họ muốn đọc quá, nhưng vì chưa đăng ký với bên Multiply là nơi đăng tải Như Thanh nhật ký, nên không vào đọc được. Anh em đề nghị tôi tái bản bên này. Chiều ý anh em, tôi xin đăng lại Như Thanh nhật ký ở đây để cùng đọc cho vui.

Đây chỉ là nhật ký, nó lại có phong khí của nhật ký giang hồ (thậm chí có người bảo nó có phong vị của du ký trên Nam Phong ngày trước), nên anh em nào làm việc văn phòng thì nên dành để đọc vào ban trưa, ngoài giờ hành chính thì hợp nhẽ hơn. Xin cảm ơn chư vị anh em! Và xin rụt rè trình ra 7 kỳ để chư vị thưởng thức. 

Thứ Ba, 10 tháng 12, 2024

MUỐN CÓ NGƯỜI TÀI, TRƯỚC PHẢI DẸP BỌN TIỂU NHÂN


NGƯỜI XƯA NÓI VỀ VIỆC TIẾN CỬ, CHỌN LỰA VÀ SỬ DỤNG NHÂN TÀI
Thưa chư vị,
Chúng tôi xin giới thiệu ở đây bài văn làm trong kỳ thi Đình (làm tại sân triều đình) - do nhà vua ra đề bài, chấm bài, để phân hạng các tiến sĩ. Người đỗ đầu (đủ 10 phân) là Trạng nguyên. Đề bài thường hỏi về các vấn đề lớn của đất nước và về việc trị nước. Bài thi đó gọi là Sách văn đình đối. 

Bài văn dưới đây là sách văn đình đối đã mang lại lại danh hiệu Trạng Nguyên cho Nguyễn Trực (1417 - 1473) trong kỳ thi Đình năm Nhâm Tuất (1442), niên hiệu Đại Bảo thứ 3. Nguyễn Trực là vị Trạng nguyên đầu tiên của triều Lê. Tấm bia ghi về khoa thi này là tấm bia đầu tiên ở Văn Miếu, được dựng năm 1484.

Đề bài của vua Lê Thái Tông yêu cầu: "Đức Thái tổ Cao hoàng đế ta lấy được thiên hạ, nhiều phen xuống chiếu cầu hiền mà không có một ai trúng tuyển. Trẫm từ khi lên ngôi tới nay, gắng sức trị nước, thế mà việc chọn nhân tài vẫn mịt mở thăm thẳm. Sao người quân từ khó tìm, kẻ tiểu nhân khó biết như vậy? Các ngươi hãy đem hết hiểu biết của mình trả lời, trẫm sẽ đích thân xem xét". Đấy! Lòng vua chân thành là vậy! Đời nay có theo kịp đời xưa chăng? 

Thứ Sáu, 17 tháng 11, 2023

NHỮNG SAI LẦM NGHIÊM TRỌNG VỀ HỌC THUẬT CỦA CHU XUÂN GIAO


NHỮNG SAI LẦM NGHIÊM TRỌNG VỀ HỌC THUẬT CỦA ÔNG CHU XUÂN GIAO
TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT HIỆN, NGHIÊN CỨU VÀ CÔNG BỐ ĐẠO SẮC PHONG ĐƯỢC ÔNG CHO LÀ CỔ NHẤT Ở PHỦ DÀY (NIÊN ĐẠI 1683)
 
Quần thể Di tích Quốc gia Phủ Dầy với 20 di tích, bao gồm các công trình tôn giáo, tín ngưỡng: đình, đền, chùa, phủ, lăng, từ đường trải khắp trên địa bàn 3 thôn Tiên Hương, Vân Cát và thôn Báng thuộc xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Đây là những công trình gắn liền với sự tích về Mẫu Liễu Hạnh, một trong “Tứ bất tử” của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. 
 
Trải qua các triều đại phong kiến, Phủ Dày đã được ban nhiều sắc phong tuy nhiên trải qua chiến tranh, nhiều sắc phong đã thất lạc hay do tự xuống cấp do tác động của thời tiết khí hậu cho nên số lượng sắc phong cho các nơi thờ Mẫu ở Phủ Dày chỉ còn lại một số ít , cho nên việc tìm kiếm sưu tầm, phát hiện các sắc phong cho Mẫu Liễu ở Phủ Dày được các đời thủ nhang, nhân dân sở tại và các nhà nghiên cứu quan tâm.

Thứ Năm, 16 tháng 11, 2023

ÔNG CHU XUÂN GIAO ĐỌC SẮC PHONG LIỄU HẠNH CÔNG CHÚA


TRỜI ĐẤT! HỌC GIẢ CHU XUÂN GIAO ĐỌC TÊN THÁNH MẪU LIỄU HẠNH LÀ MẠ VÀNG CÔNG CHÚA LẠI CÒN NÓI MẠ VÀNG NGHĨA CŨNG NHƯ MẠ BẠC, MẠ ĐỒNG. Và gọi đó là CHỮ NÔM nữa!
 
Tiến sĩ Chu Xuân Giao khi dịch một sắc phong ở Phủ Dày, đã đọc ra tên Thánh Mẫu Liễu Hạnh là LIỄU HẠNH MẠ VÀNG. 
 
Hãy xem Chu Xuân Giao viết: “Điểm thứ hai, về tên hiệu của vị thần ở lần sắc phong này, là Liễu Hạnh Mạ Vàng tề gia trị quốc hộ sĩ, cẩn tiết hòa mỹ đoan trang, quang mục nhân minh thuần mỹ công chúa
柳 幸 鎷 鐄 斉 家 治 國 護 士 謹 節 和 美 端 莊 光 穆 仁 明 純 美 公 主. Có thể rút gọn thành Liễu Hạnh Mạ Vàng 柳 幸 鎷 鐄. Chữ Mạ Vàng 鎷 鐄 ở đây có thể xem là chữ Nôm, mà nghĩa thì tạm thời có thể hiểu như là “mạ vàng” trong tiếng Việt hiện nay (cùng trường nghĩa với “mạ bạc”, “mạ đồng”...).” (Hết trích)

Thứ Ba, 31 tháng 10, 2023

Nhật ký: THĂM THÀNH NHÀ HỒ, ĐỌC BÀI THƠ TRÊN VÁCH THÀNH

THĂM THÀNH NHÀ HỒ 

Thành Nhà Hồ do Hồ Quý Ly chủ trương xây dựng và đích thân chỉ huy công trình vào năm 1397. Ba năm sau đó, Hồ Quý Ly đoạt ngôi nhà Trần lúc ấy đã suy tàn đáng phải thay thế, lập ra triều đại nhà Hồ, đặt tên nước là Đại Ngu. Chữ "Ngu" (虞) trong quốc hiệu "Đại Ngu" (大虞) của nhà Hồ có nghĩa là "sự yên vui, hòa bình", không phải chữ "Ngu" (愚) mang nghĩa là "ngu ngốc". "Đại Ngu" có thể hiểu là ước vọng về một sự bình yên rộng lớn trên khắp cõi giang sơn.