Thứ Bảy, 13 tháng 10, 2012

NHỮNG CHUYỆN GHÊ GỚM CỦA PHONG THỦY - 2

TRUYỆN MỘ TỔ NHÀ TRẦN

Tiên Tổ nhà Trần ở xã Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, (tỉnh Nam Định) đời đời làm nghề đánh cá, một dải trường giang ở phía Nam đâu đâu cũng là nhà. Bấy giờ có một ông thày địa lý Trung quốc sang nước ta xem đất. Chú theo Long mạch từ núi Tam đảo đi xuống, qua Thăng long, Cổ Bi đến các xã Kệ Châu và Cao xá thuộc Huyện Kim Động, thấy có nhiều đống đất hoàn tụ, bèn cười nói rằng:

- Đây là chỗ đóng quân và nấu cơm. Đến xã Phượng Trà, huyện Nam xương không thấy vết tích đâu nữa. Chú ngắm trông một hồi lâu rồi nói :

- Nước sông chảy mạnh, không lẽ huyệt lại ẩn tàng dưới đáy sông. Chú bèn sang sông đi đến Huyện Hà liễu, Huyện Ngự Thiên, thấy các ngọn núi đều đứng thẳng, liền lấy tay chỉ và cười nói rằng: - Chỗ cất đầu lên ở đây, trốn tránh ta như thế nào được. Chú tìm đến chỗ phát tích tại xã Nhật Cảo và chỗ kết cục tại xã Thái Đường mới hạ la bàn để xem xét và cứ say mê quanh quẩn mãi ở đấy không đi được. Chợt có Nguyễn Cố người xã Tây vệ đến đấy, hỏi Khách rằng: 

- Ông lưu ý ở chỗ này, có Huyệt tốt phải không ? Khách ngửa mặt lên Trời cười nói rằng: - Không ngờ ở nơi bình địa mà lại có đất Đế Vương. Đáng chê các thày Địa lý thời nay, không Thày nào có nhãn lực. Nguyễn Cố nói : - Nếu quả là đất Đế Vương, xin Ông cho tôi. Ông muốn được tạ lễ bao nhiêu, tôi cũng xin nộp đủ.

Khách nói : - Nhà ông có Phúc may gặp được tôi thì tôi cho ông. Nhưng sau khi táng rồi, ông phải trả tôi ngay 100 quan tiền, và về sau lấy được nước, ông phải cho tôi một nửa. Nguyễn Cố xin vâng lời, rồi đem mộ Tổ táng vào chỗ ấy. Khách sợ Cố phản trắc, bèn bảo :

- Táng xong tất có điềm lành. Nhưng trong hạn trăm ngày, thỉnh thoảng phải đến thăm nom. Nếu sau cơn mưa gió, sấm sét, thấy có sự lạ, thì lành ít, dữ nhiều, phải táng đi chỗ khác ngay. Nguyễn Cố đem mả Tổ táng vào nơi ấy, được ba bốn ngày, đến nửa đêm có một tiếng sét rất to, làm kinh động nhân dân và súc vật ở vùng ấy. Sáng hôm sau đi xem thì thấy ở các xã Đặng xá, Tây vệ và Thái đường có nhiều hòn đá nhô lên, gọi là đá tai mèo, khắp vườn tược ao chuôm, nơi nào cũng có. Những hòn đá ấy đến nay vẫn còn.  

Nguyễn Cố biết là được đất rồi, rất lấy làm mừng rỡ. Vợ Cố bảo rằng: - Ngôi đất ấy dầu cho là phát Phúc, nhưng hiện nay thì làm thế nào lo được 100 quan tiền. Vả lại sau này chia đội Thiên hạ, thì còn được bao nhiêu. 

Cố thấy vợ nói thế, thì định bụng không tạ lễ cho chú Khách nữa. Khi Khách đến hỏi, Cố hẹn mấy ngày sau sẽ trả. Khi đến hẹn, Khách tới nhà, Cố liền bắt trói lại, rồi đang đêm đem vứt xuống sông. Vất xong vội vàng chạy về. Nguyên chỗ Cố vất Khách xuống là một bãi phù sa, nước Thủy triều dâng lên ngập cả bãi. Sau khi vất Khách xuống, nước triều rút lui, bãi phơi khô, Khách nằm lại trên bãi. Chợt có một chiếc thuyền đánh cá của họ Trần đi ngang qua đấy, nghe có tiếng người hô hoán, vội tới cứu đem lên thuyền, rồi cở trói cho Khách và hỏi duyên cớ. Khách đem đầu đuôi sự việc này thuật lại cho họ Trần nghe và nói thêm rằng: - Nhờ có ông mà tôi được sống lại. Tôi xin đem ngôi đất quý ấy biếu ông để tạ ơn. Người họ Trần nói: 

- Ngôi đất đó Nguyễn Cố đã táng rồi còn làm gì được nữa. 

Khách nói: 

- Tôi đã tính trước, ngôi đất ấy thế nào nhà ông cũng được. 

Người họ Trần bèn lưu chú Khách ở trong thuyền, không để lộ cho người ngoài biết. Khách bảo người họ Trần lấy đồng đỏ đúc lưỡi Tầm sét và lấy cây vang nấu nước để dùng.

Một đêm, mưa to gió lớn và luôn có tiếng sét đán. Đến khi tạnh mưa, Khách và người họ Trần đem lưỡi tầm sét cắm xuống mộ Tổ của Nguyễn Cố, xuyên thủng đến quan tài, rồi lấy nước vang tưới vào mộ. Sáng hôm sau Nguyễn Cố ra thăm, cho là mộ bị sét đánh, có máu chẩy ra, vội vàng rời mộ ra chỗ khác. Khách bèn đem mộ Tổ họ Trần táng vào đó. 

Ngôi đất này phía trước trông ra ngã ba sông Cái(Nguyên chú: Thuộc xã Hữu Bị Huyện Mỹ lộc, tục gọi là Cửa Vàng) ..Phía sau gối vào voi phục, lâu đài và cờ, gươm bài trí hai bên. Huyệt ở Thổ Phúc tàng Kim (Trong đất giấu vàng), tọa Càn - Hướng Tốn. Táng xong Khách bảo rằng: Phấn đại yên hoa đối diện sinh, hẳn lấy được nhan sắc Thiên hạ. 

Người họ Trần nói: Nếu được như lời Ông, xin chia cho Ông một nửa đất nước. 

Khách nói : 

- Không cần phải làm như thế. Nhà ông hưởng nước, chỉ cần đời đời tư cấp cho nhà tôi đủ ăn, đủ mặc mà thôi. 

Người họ Trần hứa sẽ ghi lòng tạc dạ. Rồi làm giấy tờ giao ước, mỗi bên giữ một bản để làm tin. Lại nói chú Khách vốn là người tâm cơ trí lực . Chú làm hai bản sấm thư để lại cho con cháu và dặn: 

- Nếu sau này họ Trần vẫn đối đãi tử tế, thì bảo thực cho họ biết. Nếu họ bội ước thì như thế, như thế ... 

Khách lại bảo họ Trần rằng:

- Tôi đã để lại một phép, có thể làm cho nhà ông trị vì được lâu dài hơn. Phép ấy là gì, sau này sẽ bảo cho biết. 

Họ Trần vô cùng cảm tạ. 

Trần Thừa là cháu ba đời, năm Diên phúc thứ 8 (1218) triều Lý, sinh ra Trần cảnh mũi cao, mặt Rồng, được Chiêu Hoàng nhường ngôi cho làm Vua Thái Tông. Ban đầu khi con cháu chú Khách ở Trung quốc sang, các Vua Trần đều tặng tống rất hậu. Nhưng đến cuối đời thì đối đãi kém tử tế. Một người cháu của chú Khách sang nói với Vua Trần: 

- Tổ tiên hạ thần có để lại một bản sấm thư, dặn đến năm nay thì đem sang trình quý Quốc. 

Vua Trần xem sấm thư thấy nói: Ngôi mộ phát tích ở Thái Đường nay sắp hết thịnh, cần phải khơi thông Thủy đạo thì mới giữ được lâu dài. Vua Trần tin lời nói ấy, bèn chiểu theo họa đồ ở sấm thư đào một Thủy đạo từ sông Cái xã Phú xuân đi vào, quanh đến xã Thái Đường.(Con sông ấy nay vẫn còn dấu vết). Không ngờ đào đứt Long mạch, họ Trần bèn suy , rồi bị Xích Chủy hầu(Gọi Hồ Quý Ly) thoán đoạt. Xét ra Vua Trần trị vì được từng ấy năm, là do mệnh Trời, chứ sức người làm thế nào được. 

NXD - sưu tầm

NHỮNG CHUYỆN GHÊ GỚM CỦA PHONG THỦY - 1

  Mả táng Hàm Rồng - giấc mơ đế vương ngàn đời. Ảnh: T.T.H


Truyện Đinh Tiên Hoàng

Nhà Đinh Tiên Hoàng gần một cái đầm sâu, mẹ ông vẫn thường ra đấy tắm giặt. Một hôm bà bị con rái cá lớn hãm hiếp nên thụ thai và sinh ra ông. Bố ông không biết, chỉ mẹ ông biết ông là con của loài rái cá. Mấy năm sau, người chồng qua đời, mà con rái cá cũng bị dân bắt được đem về ăn thịt, còn xương thì quẳng vào một xó. Bà được tin, đến nơi, đợi mọi người về hết, thu nhặt hết xương đem về, gói ghém cẩn thận và để trên gác bếp và bảo cho Đinh Tiên Hoàng biết đó là hài cốt của cha. Sau, có thầy địa lý Tàu sang nước ta, dõi theo long mạch đến Hoa Lư. Buổi tối thầy địa lý xem thiên văn, thấy có tia hào quang như dải lụa đỏ tự đầm nước bốc lên bắn thẳng vào sao Thiên Mã. Sáng hôm sau, thầy địa lý lần đến xem xét hồi lâu và đoán dưới đáy đầm tất có vật thiêng nên muốn thuê người bơi lặn giỏi xuống dưới đó xem sao. Nguyên là trong đầm đó, người ta đồn rằng bên dưới có chỗ rất thiêng, xưa nay chẳng ai dám bén mảng tới. Vì thế, thầy địa lý treo giải thưởng rất hậu cho người nào có gan lặn xuống để dòm xem. Họ Đinh bèn nhận lời ngay. Rồi ông lặn xuống đó, lấy tay sờ quanh, thấy có một con vật hình như con ngựa đứng dưới đáy đầm. Ông bèn trở lên báo cáo lại cho thầy địa lý biết. Thầy bảo ông lặn xuống chuyến nữa và đem theo một nắm cỏ non, nhử vào mồm ngựa xem nó thế nào. Ông lại cầm nắm cỏ xuống, đứng trước đầu ngựa để nhử, thấy nó há miệng ngoạm lấy nắm cỏ. Ông bơi lên báo cho biết, thầy địa lý gật đầu bảo: "Dưới đầm quả nhiên có ngôi huyệt quý". Rồi thầy đưa ra một số bạc vàng bảo với ông rằng: "Nay hãy tạm thù lao một ít, sau này sẽ xin tặng thêm. Tôi cần phải trở về bản quốc mấy tháng rồi lại sang ngay, bấy giờ ta sẽ nói chuyên sau". Lúc ấy tuy còn ít tuổi, nhưng ông rất thông minh. Nghe bọn khách nói chuyện với nhau, ông hiểu ngay là huyệt ở mồm ngựa, không còn hồ nghi gì. Đợi họ đi rồi, ông đem gói xương ở gác bếp xuống, lấy cỏ bao bọc xung quanh, rồi lặn xuống để vào mồm ngựa, ngựa bèn ăn hết ngay. Từ đó nhiều người phục tòng ông và tôn ông làm trại trưởng...  

Cách mấy năm sau, thầy địa lý đem xương bố ở Trung Quốc sang, tìm đến chỗ đầm ấy để mai táng. Nghe nói Đinh Bộ Lĩnh đã trở thành bậc anh tài cái thế, thủ hạ có hơn một nghìn người, thầy địa lý biết ngay là họ Đinh đã táng huyệt ấy rồi. Thấy uổng phí bao nhiêu công sức, thầy căm tức lắm, bèn đến bảo ông rằng: "Nghe nói ông đã được đất. Cái huyệt tuy đẹp, nhưng ngựa không có gươm thì không được tốt. Nay tôi tặng cho một thanh gươm, ông đem xuống treo ở cổ ngựa, như vậy thì ông sẽ dọc ngang trời đất, đánh đâu được đấy". Đinh Bộ Lĩnh tin lời thầy địa lý bèn lặn xuống chỗ ngựa thần, lấy tay sờ cổ ngựa, để gươm vào đấy rồi bơi lên. 

Từ đó đánh đâu được đấy, gọi là Vạn Thắng Vương. Ông dẹp được 12 sứ quân, thống nhất dư đồ, lên làm vua, hiệu là Đinh Tiên Hoàng. Ông ở ngôi 12 năm thì bị tên hầu cận là Đỗ Thích ám sát, con cả là Đinh Liễn cũng bị giết. Vì thầy địa lý dùng kế đánh lừa để gươm vào đầu ngựa, nên hai bố con ông mới thế.   

(Sưu tầm) 

Thứ Sáu, 12 tháng 10, 2012

MẠC NGÔN MONG LƯU HIỂU BA SỚM ĐƯỢC TRẢ TỰ DO

Mạc Ngôn mong Lưu Hiểu Ba 'được tự do'

Trong cuộc trả lời phỏng vấn đầu tiên với truyền thông nước ngoài, nhà văn vừa được giải Nobel, ông Mạc Ngôn nói rằng ông hy vọng ông Lưu Hiểu Ba mau chóng được tự do.
.
Theo Reuters ghi nhận khi cho phóng viên đến làng Cao Mật, tỉnh Sơn Đông sáng 12/10/2012 để hỏi chuyện ông Mạc Ngôn, nhà văn 57 tuổi đã nói về ông Lưu, người nhận Nobel Hòa bình hai năm trước:
“Tôi hy vọng ông ấy sẽ được tự do nhanh chóng,”
.
Ông Mạc Ngôn cho hay ông từng đọc các bài phê bình văn học của Lưu Hiểu Ba trong thập niên 1980 nhưng không biết về công việc của ông Lưu khi ông chuyển sang chủ đề chính trị.

Mạc Ngôn – có nghĩa ‘im lặng’ - là bút danh của ông Quản Mạc Nghiệp, người từng được các giải thưởng như Mao Thuẫn của Trung Quốc và đề cử giải Man Asian 2007.

Ông Lưu Hiểu Ba, bị tù năm 2009 với án 11 năm vì tội lật đổ và không thể sang Oslo nhận Nobel Hòa bình năm 2010.

Đây là lần đầu tiên ông Mạc Ngôn phát biểu với truyền thông quốc tế về Lưu Hiểu Ba.

Khen và chê

Hiện ông Mạc Ngôn là Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Trung Quốc, tổ chức do chính phủ bảo trợ.

Giải Nobel cho ông hiện vẫn tiếp tục gây ra tranh cãi ngay tại Trung Quốc.

Lãnh đạo ngành tuyên truyền của Đảng Cộng sản, ông Lý Trường Xuân đã gửi thư riêng chúc mừng ông Mạc Ngôn, và nói rằng giải thưởng cho ông phản ánh "sự thăng hoa của văn học Trung Quốc".

Nhưng nghệ sỹ bất đồng chính kiến Ngải Vị Vị thì lên tiếng gọi ông Mạc Ngôn là "người luôn đứng về phía quyền lực".

Ông là công dân Trung Quốc đầu tiên được Nobel Văn học.

Hồi 2000, nhà văn Trung Hoa quốc tịch Pháp, ông Cao Hành Kiện, được giải này.

Một số trí thức Trung Quốc vẫn phê phán ông Mạc Ngôn vì đã tham gia đợt chép lại một diễn văn năm 1942 của Mao Trạch Đông cho mục tiêu tuyên truyền.

Có người trong giới xuất bản còn lên trang microblog kêu gọi 'xóa giải Nobel Văn chương' cho Mạc Ngôn.

Cũng có ý kiến từ Hong Kong tin rằng giải Nobel Văn chương năm nay trao cho Mạc Ngôn là để 'đền bù' cho Trung Quốc sau giải Nobel Hòa bình 2010 cho Lưu Hiểu Ba vốn gây ra phản đối dữ dội từ chính quyền nước này.

Tuy nhiên, trong các phát biểu của mình, ông Mạc Ngôn luôn tỏ ra công bằng với lịch sử và hiểu những hạn chế của thời cuộc.

Trả lời BBC Tiếng Trung hồi tháng 4/2012 khi sang dự Hội chợ sách Franfurt ở Đức, ông nói ông ý thức được rằng viết hoàn toàn tự do về lịch sử Trung Quốc là điều không dễ:

"Khi viết về lịch sử, chẳng hạn như cuộc chiến Quốc - Cộng, thì bạn thử nghĩ có bao nhiêu tự do cho nhà văn ở Trung Quốc. Chẳng có bao nhiêu. Hay có tự do để viết về chiến tranh Kháng Nhật? Thật sự là không."

Cũng vì thế, ông giải thích vì sao ông tìm đến những màu sắc của tiểu thuyết hơn là tìm cách mô tả thực tế lịch sử.

VNE: VIỆT NAM YÊU CẦU TRUNG QUỐC TÔN TRỌNG CHỦ QUYỀN

Yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền của Việt Nam

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam hôm nay yêu cầu Trung Quốc không tái diễn những hoạt động xâm phạm chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
> Ngón võ của Trung Quốc ở Tam Sa
> Trung Quốc xây nhà máy ở Hoàng Sa

Một đảo trong quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Ảnh: Denfense Update
Trong thời gian qua, tiếp theo hàng loạt các hành động vi phạm nhằm xây dựng và phát triển cái gọi là thành phố Tam Sa, Trung Quốc liên tiếp vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông.

Ngày 23/9, báo chí Trung Quốc đưa tin Trung Quốc sẽ sử dụng máy bay không người lái tăng cường giám sát các vùng biển, trong đó có vùng biển tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 1/10, Trung Quốc đã tổ chức lễ kéo cờ kỷ niệm quốc khánh Trung Quốc tại đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa. Hai ngày sau, Hạm đội Nam Hải của Trung Quốc tổ chức diễn tập trực chiến khẩn cấp tại khu vực vùng biển quần đảo Hoàng Sa.

BBC: VIỆT NAM LÊN ÁN TRUNG QUỐC VI PHẠM CHỦ QUYỀN

Việt Nam lên án TQ 'vi phạm chủ quyền'

Cập nhật: 12:19 GMT - thứ năm, 11 tháng 10, 2012

Việt Nam ra tuyên bố phản đối nhiều hành động của Trung Quốc “vi phạm nghiêm trọng chủ quyền” tại Hoàng Sa và Trường Sa.

Tuyên bố đăng trên trang web Bộ Ngoại giao Việt Nam hôm 11/10 nói Trung Quốc “vi phạm luật pháp quốc tế, vi phạm Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc ký tháng 10/2011”.
Tuyên bố này đề cập các động thái của Trung Quốc như đã tổ chức lễ kéo cờ kỉ niệm Quốc khánh Trung Quốc tại đảo Phú Lâm hôm 1/10, diễn tập trực chiến khẩn cấp tại khu vực vùng biển quần đảo Hoàng Sa hôm 3/10. 

Vô giá trị? 

Việt Nam cũng phản đối việc Trung Quốc thành lập Phòng khí tượng thành phố Tam Sa hôm 8/10.

Người phát ngôn của Việt Nam, Lương Thanh Nghị, nói thêm các hành động này “hoàn toàn vô giá trị”.
"[Trung Quốc] xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vi phạm luật pháp quốc tế, vi phạm Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc ký tháng 10/2011."
Ông Lương Thanh Nghị
Ông nói: “Việt Nam yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền của Việt Nam, không có thêm những hoạt động sai trái tương tự, đóng góp thiết thực vào việc phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng như duy trì hòa bình và ổn định trên Biển Đông.”

Bộ Ngoại giao Việt Nam đưa ra phản đối mạnh mẽ với Trung Quốc về biển đảo trong lúc Hội nghị Trung ương 6 của Đảng Cộng sản cầm quyền đang bước vào hồi kết sau gần hai tuần họp kín.

Dù hội nghị bắt đầu hôm 1/10 với chủ đề là bàn về tình hình kinh tế - xã hội năm 2012, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2013, doanh nghiệp nhà nước; chính sách pháp luật về đất đai, phê bình và tự phê, các diễn biến quốc tế đã khiến ban lãnh đạo Việt Nam không thể không lên tiếng.

Cùng thời gian, Trung Quốc đã có một loạt động thái mới về biển đảo ở Hoàng Sa, và Hoa Kỳ cử hai nhóm chiến hạm lớn vào Tây Thái Bình Dương giữa lúc tranh chấp Trung – Nhật về Điếu Ngư/Senkaku lên cao.

Mâu thuẫn Mỹ – Trung về thương mại cũng đang nhanh chóng trở thành một phần của chiến dịch tranh cử tổng thống tại Hoa Kỳ.

Chuyến thăm và cuộc gặp của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng với Phó Chủ tịch Tập Cận Bình của Trung Quốc tại Quảng Tây ngay trước Hội nghị cũng gây ra các bình luận trái chiều.

Hồi tháng 10/2011, ngay ngày đầu tiên trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, lãnh đạo Việt - Trung đã ký kết Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển nhằm tháo gỡ các tranh chấp tại Biển Đông.

Nay, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam công khai nói rằng phía Trung Quốc "vi phạm Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản" này.

Nguồn: BBC Tiếng Việt.

Thứ Năm, 11 tháng 10, 2012

NHÂN DỊP MẠC NGÔN ĐOẠT GIẢI NOBEL, LẠI GỌI HỒN "MA CHIẾN HỮU"

Mạc Ngôn đoạt giải Nobel Văn học

Tác giả "Báu vật của đời" trở thành nhà văn gốc Trung Quốc thứ hai và là tác giả châu Á thứ sáu giành được giải thưởng uy tín bậc nhất thế giới này.

Ủy ban Nobel Văn học ca ngợi Mạc Ngôn (Mo Yan) là tác giả "kết hợp được chủ nghĩa hiện thực huyền ảo với truyện kể dân gian, lịch sử và cuộc sống đương đại" trong các trang văn của mình.

Đây được coi là sự vinh danh xứng đáng với nhà văn 67  57 tuổi, tác giả của hàng loạt tiểu thuyết đồ sộ, chứa đựng tư tưởng lớn và có tầm ảnh hưởng rộng rãi đến Trung Quốc và cả thế giới như: Báu vật của đời, Cao lương đỏ, Đàn hương hình, Củ tỏi nổi giận, Rừng xanh lá đỏ... Sáng tác của Mạc Ngôn không chỉ được dịch và xuất bản nhiều thứ tiếng mà còn được chuyển thể thành các bộ phim gây tiếng vang trên thế giới.

Mac-ngon-jpg-1349956004_480x0.jpg
Nhà văn Mạc Ngôn.
  
Mạc Ngôn (sinh ngày 17/2/1955) là bút danh của nhà văn nổi tiếng Trung Quốc Quản Mạc Nghiệp (Guan Moye). Ông được đánh giá là “một trong những nhà văn nổi tiếng, có ảnh hưởng sâu rộng tới tất cả nhà văn Trung Quốc”. Ông cũng được so sánh với những văn hào như Franz Kafka hay Joseph Heller. Mạc Ngôn sinh tại thành phố Cao Mật, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc trong một gia đình nông dân. Thời kỳ Cách mạng văn hóa, ông làm việc trong một nhà máy sản xuất dầu. Mạc Ngôn tham gia quân đội ở tuổi 20 và bắt đầu viết khi ở trong quân ngũ vào năm 1981. Ba năm sau đó, Mạc Ngôn trở thành giảng viên Khoa Văn học của Học viện Văn hóa Quân đội. Bút danh của Mạc Ngôn trong tiếng Trung Quốc có nghĩa là “không nói” được ông lấy khi viết cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình. Ông chọn bút hiệu này để nhắc nhở bản thân mình kiệm lời.

Các tác phẩm của Mạc Ngôn thường chứa đựng những bình luận xã hội, được cho là chịu ảnh hưởng mạnh mẽ quan điểm chính trị của Lỗ Tấn và chủ nghĩa hiện thực huyền ảo của Gabriel Garcia Marquez. Những câu chuyện thường có bối cảnh gần quê hương ông, thành phố Cao Mật, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc.

Mạc Ngôn là tác giả khá gần gũi với độc giả Việt Nam. Phần lớn các tác phẩm của ông đều đã được dịch ra tiếng Việt. Hồi tháng 11/2011, Hội Nhà văn Hà Nội vừa tổ chức hội thảo về cuốn "Báu vật của đời" của ông.

Nguồn: VNE.

Nguyễn Quang Hà: VỀ TẤM BIA THỜI TÙY (601) MỚI PHÁT HIỆN


VỀ TẤM BIA THỜI TÙY (601) MỚI PHÁT HIỆN Ở CHÙA GIÀN – HUỆ TRẠCH TỰ
(XÃ TRÍ QUẢ, HUYỆN THUẬN THÀNH, TỈNH BẮC NINH)

Nguyễn Quang Hà[1]

Chùa xã Trí Quả (Huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) tên chữ là “Huệ Trạch tự”, hay còn có tên Nôm là chùa Giàn - Một trong Tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp Điện, Pháp Lôi, Pháp Vũ) trong tín ngưỡng thờ tự ở vùng Dâu. Hiện nay  các vị trong làng kể lại về lai lịch của chùa: Vào thời Trần, con trai của Đức vua Trần Hưng Đạo là Trần Hồng khi đánh giặc Mông Nguyên được Phật độ cho nên đã đánh thắng giặc do đó ban cho tên chùa là “Huệ Trạch tự) (惠澤寺). Chùa trước đây có gác chuông cổ nhưng đã bị phá đi để làm cầu. Trong chùa còn một chiếc chuông đồng niên đại thời Lê, trên 4 núm có khắc “Huệ Trạch tự chung” (惠澤寺鍾). Ngoài sân, trước tòa Tam bảo hiện còn tấm bia 4 mặt, mặt chính trên trán bia ghi: “Huệ Trạch tự”(惠澤寺), mặt thứ tư phần niên đại ghi: Chính Hòa nhị thập niên (1700) nội dung về việc cúng tiền xây gác chuông và cúng ruộng vào chùa. Ở gian phải của tòa Tam bảo còn một cây hương, trên đó có khắc tên người cung tiến. Chùa còn giữ được hai sắc phong. Đạo sắc thứ nhất phần niên đại ghi 25 tháng 7 năm Khải Định 9 (1924). Nội dung ban tặng: (…)“Diệu Cảm Nhiên Phù, Chương Hiển Đôn Ngưng, Dực Bảo Trung Hưng Thành Hoàng Linh Ứng Tôn Thần”(耀感然孚章顯敦凝翊保中興城皇靈應尊神). Sắc thứ 2 cũng có cùng ngày tháng năm với Đạo sắc trên với đối tượng được ban là: (…) “Phụng sự Đại Thánh Pháp Thông Vương Phật tôn thần”.(奉事大聖法通王佛尊神). Như vậy, Đạo sắc thứ nhất là sắc cho Thành hoàng được thờ ở Đình làng, đạo sắc thứ hai chính là đạo sắc thờ ở chùa. Theo truyền thuyết thì tên gọi “Chùa Huệ Trạch” có từ thời Trần. Tư liệu trên các văn bản, bi ký, minh văn hiện nay chúng ta được biết thì tên gọi “Huệ Trạch tự” sớm nhất qua tấm bia đá 4 mặt niên đại Chính Hòa 20 (1700). Nhưng trước đó chùa có tên là gì (?). Chưa có tư liệu nào giải đáp điều đó.
           
Năm 2004, gia đình ông Nguyễn Văn Đức (Nhà bên cạnh chùa Huệ Trạch) khi đào đất làm lò gạch đã phát hiện được một tấm bia đá cổ. Vì không biết giá trị tấm bia như thế nào nên gia đình đã giữ tấm bia này để ở trong nhà cho đến tháng 8/2012 mới được cán bộ Bảo tàng của Sở Văn hóa – Thể thao – Du lịch tỉnh Bắc Ninh xin phép gia đình, nhà chùa cùng chính quyền địa phương chuyển về Bảo tàng tỉnh nghiên cứu. Thật may mắn, khi về chùa Huệ Trạch, chúng tôi cũng có được bản dập thác bản của tấm bia này do ông Nguyễn Đình Nhân (Kỹ sư Nông nghiệp về hưu) - Người cùng thôn Xuân Quan, xã Trí Quả tiến hành in dập trước đó (1). Bia được để trong hộp có mái che nên rất rõ nét, chữ khắc đậm, sâu, còn nguyên vẹn. Lòng bia có kích thước 40 x 40 cm, 13 dòng, trung bình mỗi dòng khoảng hơn 10 chữ, tổng số chữ trên bia là 133 chữ. Dưới đây là toàn bộ nội dung văn bia chữ Hán và phần phiên âm, dịch nghĩa như sau:

Lê Viết Nga: HAI CỔ VẬT NIÊN ĐẠI THỜI TÙY Ở BẢO TÀNG BẮC NINH

Về hai cổ vật niên đại thời Tùy ở Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh


Đầu tháng 8 năm 2012, Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh đã phát hiện và sưu tầm được hai cổ vật độc đáo, niên đại thời Tùy (Bắc thuộc), gắn với chùa Thiền Chúng (Thuyền Chúng), huyện Long Biên, xứ Giao Châu xưa. 

1. Bia mộ tháp: gồm hai phần, úp khít vào nhau, hình vuông, kích thước (45cm x 46cm). Phần nắp đậy dày 4 cm, úp khít lên trên bia đá, mặt dưới tạo gờ nổi xung quanh, phía trên tạo góc bạt chéo hình trụ; phần dưới (thân bia) dày 9cm, được mài khá nhẵn xung quanh, một mặt khắc chữ Hán, còn rất rõ nét, gồm 133 chữ, chia thành 13 hàng. Nội dung cơ bản như sau:

Mặc dù đây là tấm bia có niên đại cổ nhất được phát hiện tại VN, được giới khoa học rất quan tâm, nhưng Bảo tàng Bắc Ninh và ông Lê Viết Nga, GĐ Bảo tàng quyết không chia sẻ hình ảnh, bản rập vì muốn giữ bản quyền (?), nhưng đầu giờ chiều hôm nay (11.9.2012), chúng tôi cũng đã có được bản rập. 
Ảnh bản rập văn bia. Ảnh: Nguyễn Xuân Diện
 Phiên âm: 

PHÁT HIỆN BẤT NGỜ VỀ TẤM BIA CỔ NHẤT VIỆT NAM

Phát hiện bất ngờ về tấm bia cổ nhất Việt Nam

10-10-2012 | 09:04 

(Nguoiduatin.vn) - Từ dấu tích lưu lại trên tấm bia được xác định niên đại từ năm 601, các nhà khoa học đã chỉ ra nhiều sự trùng hợp liên quan đến chùa Thiền Chúng, ngôi chùa cổ nhất Việt Nam.

Giới cổ vật Việt Nam vừa đón nhận thông tin chấn động khi hai tấm bia đá có niên đại 601 được phát hiện ở Bắc Ninh. Theo đánh giá ban đầu, có thể đây là hai tấm bia cổ nhất Việt Nam và có giá trị lớn về mặt văn hóa lịch sử. Các nhà khảo cổ học đã bắt tay vào công cuộc nghiên cứu hai tấm bia này và bước đầu có những kết luận mới nhất trong Hội nghị tổng kết Khảo cổ học lần thứ 47 diễn ra tại Hà Nội vào hai ngày 27 - 28/09.

Phát hiện tình cờ

Hai tấm bia cổ được phát hiện từ năm 2004 khi ông Nguyễn Văn Đức - người dân thôn Xuân Quan (xã Trí Quả, Thuận Thành, Bắc Ninh) đào đất làm gạch ở độ sâu chừng 2m tại khu phía sau chùa Đông Quan. Theo lời ông Đức kể lại thì lúc mới đưa lên hai tấm bia úp khít vào nhau và kết dính bởi một chất liệu đặc biệt, phải rất vất vả mới dùng mai tách đôi ra được. Cùng với hai tấm bia còn có một đỉnh đá (còn gọi là liễn) hình vuông có nắp đậy, bên trong có một chút đất đen.

Sau khi đào được số cổ vật trên, ông Đức đã đem bộ bia và nắp đá đậy về nhà còn lại gửi ở chùa làng (chùa Huệ Trạch). Ông Đức cũng đã nhờ một số người biết chữ Hán đọc chữ viết trên tấm bia nhưng họ cũng không đọc được gì nhiều. Số cổ vật ông Đức khai quật được bảo quản tại nhà ông Đức cho tới tháng 8 năm 2012 khi tổ công tác thuộc phòng Nghiên cứu sưu tầm Bảo tàng Bắc Ninh tình cờ nghe được câu chuyện về tấm bia cổ năm xưa.

Hai tấm bia và đỉnh đá được chùa Huệ Trạch và ông Đức trao lại cho Bảo tàng Bắc Ninh. Các cán bộ bảo tàng Bắc Ninh ban đầu nhận định đây là những cổ vật bằng đá có niên đại từ năm 601 liên quan đến một chùa mang tên là Thiền Chúng, làng Dịch Bảng, phủ Thiên Đức từng được nhắc đến trong Cảm ứng xá lợi ký do Vương Thiệu viết vào cuối năm 601, dẫn trong Quảng hoằng minh tập có ghi chùa Thiền Chúng như là nơi dựng tháp rước xá lợi vào năm đó tại Giao Châu.

Những dấu ấn về ngôi chùa cổ Thiền Chúng

Những giá trị lịch sử quý giá

Ngày 29/08, các chuyên gia khảo cổ và sử học gồm G.S Phan Huy Lê (chủ tịch Hội sử học Việt Nam), PGS.TS Tống Trung Tín (viện trưởng Viện khảo cổ học Việt Nam), T.S Nguyễn Văn Sơn, Th.S Phạm Lê Huy đã đến Bảo tàng Bắc Ninh để trực tiếp quan sát tấm bia dưới sự hướng dẫn của T.S Lê Viết Nga (giám đốc Bảo tàng Bắc Ninh). Theo nhận định ban đầu, tháp chùa Thiền Chúng sau nhiều năm bị đổ nát đã chìm vào sự quên lãng. Chùa tan, tháp đổ nên sau đó các cổ vật chìm trong lòng đất, đến nay tình cờ người dân phát hiện được.

Qua những phân tích và so sánh, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những dấu tích minh văn (tạm gọi là minh văn Giao châu) có nội dung gần giống với các minh văn "Nhân Thọ xá lợi tháp" có niên đại 601 đã phát hiện được tại Trung Quốc, tuy nhiên có khác nhau ở một vài chi tiết: Về dòng chữ tiêu đề trên tấm bia, về địa điểm xây tháp và phần chú thích về "sắc sứ".

Theo báo cáo tại hội nghị Khảo cổ học lần thứ 47 lần này, Th.s Phạm Lê Huy: "Trong khi các minh văn khác chỉ có phần chính văn, riêng minh văn Giao châu và Thanh châu có thêm phần chú thích về "sắc sứ". Minh văn Giao châu ghi tên sắc sứ là "Đại đức Tuệ Nhã pháp sư" và "Vũ kỵ uý Khương Huy". Minh văn Thanh châu ngoài 2 sắc sứ là "Đại đức Trí Năng" và "Vũ kỵ uý Lý Đức Kham" còn ghi thêm tên 2 người tuỳ tùng (tòng giả) và 2 viên chức Tư mã và Lục sự tham quân của Thanh châu. Đối chiếu với chiếu thư của Tùy Văn Đế, có thể xác định "Đại đức Tuệ Nhã pháp sư" và "Đại đức Trí Năng" là 2 trong số 30 sa môn được Tuỳ Văn Đế cử về địa phương, Khương Huy và Lý Đức Kham là 2 "tản quan" tháp tùng.  Xung quanh thông tin nắp bia và bia được kết dính bằng một chất đặc biệt, chúng ta cũng tìm thấy trường hợp tương tự tại Trung Quốc. Theo văn bản khai quật minh văn "Nhân Thọ xá lợi tháp" tại chùa Hoằng Nghiệp ở U châu năm 846, hộp đá lớn được phong bằng bùn hương, phía trên có minh văn.

Sự thống nhất trong nội dung minh văn với các tấm bia tìm được tại Trung Quốc cũng như sự trùng khớp thông tin (ngày 15 tháng 10 năm 601, xây tháp tại chùa Thiền Chúng ở Giao châu) với các tư liệu như Quảng hoằng minh tập và Cảm biến lục. Đây là cơ sở giúp các nhà nghiên cứu khẳng định tấm bia tìm được tại Bắc Ninh chính là minh văn "Nhân Thọ xá lợi tháp" được khắc cùng với sự kiện xây dựng tháp xá lợi tại chùa Thiền Chúng ở Giao châu có niên đại 601. Bên cạnh đó, sự thống nhất về câu chữ trong minh văn cho thấy bên cạnh mẫu thiết kế tháp xá lợi, quy cách tổ chức nghi lễ, chính quyền trung ương của nhà Tùy đã biên soạn trước nội dung minh văn để phân phát cho các địa phương. Nói cách khác, có thể cho rằng tấm bia 601 được khắc tại Việt Nam và cổ nhất Việt Nam đến thời điểm hiện nay

Bảo Hằng- Đinh Nhung
Nguồn: Người đưa tin

Phạm Lê Huy: THÔNG TIN XUNG QUANH TẤM BIA NĂM 601 VỪA ĐƯỢC PHÁT HIỆN


Thông báo Khảo cổ học 2012:

VIỆC XÂY DỰNG THÁP XÁ LỢI DƯỚI THỜI TÙY VĂN ĐẾ VÀ MINH VĂN THÁP XÁ LỢI MỚI PHÁT HIỆN TẠI BẮC NINH
Phạm Lê Huy
Khoa Đông phương học, ĐHKHXH&NV, ĐHQG Hà Nội

Nhân Thọ xá lợi tháp và các tư liệu liên quan

Trong vòng 4 năm, từ năm 601 (Nhân Thọ 1) đến năm 604 (Nhân Thọ 4), Tùy Văn Đế Dương Kiên đã ba lần phân phát xá lợi và tổ chức xây dựng bảo tháp an trí xá lợi tại các châu thuộc bản đồ đế quốc. Do cùng được xây dựng dưới niên hiệu Nhân Thọ, hệ thống tháp xá lợi này thường được biết đến dưới tên gọi “Nhân Thọ xá lợi tháp”. Sự kiện xây dựng các tháp xá lợi dưới thời Tùy Văn Đế được đánh giá là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển Phật giáo và mỹ thuật Trung Quốc. Chính vì vậy, nó đã sớm nhận được sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều học giả Trung Quốc và Nhật Bản.

Xét thấy các tư liệu và kết quả nghiên cứu về “Nhân Thọ xá lợi tháp” chưa được biết đến rộng rãi tại Việt Nam, trong khuôn khổ bài thông báo này, chúng tôi mạn phép trích dẫn và giới thiệu một số tư liệu cơ bản, chủ yếu là tư liệu chữ viết (tài liệu thư tịch và tư liệu kim thạch văn) xung quanh việc xây dựng “Nhân Thọ xá lợi tháp” vào thời Tùy. Trên cơ sở đó, chúng tôi muốn đưa ra một số nhận định góp phần nhận diện minh văn tháp xá lợi mới được phát hiện tại Bắc Ninh trong thời gian gần đây[1].

Nhìn chung, các nghiên cứu về “Nhân Thọ xá lợi tháp” đều được triển khai trên cơ sở các ghi chép trong các sách Tập thần châu Tam bảo Cảm thông lục 集神州三宝感通録 (dưới đây gọi tắt là Cảm thông lục), Quảng hoằng minh tập廣弘明集, Tục cao tăng truyện 續高僧傳 (đều do sư Đạo Tuyên 道宣 biên soạn vào thời Đường, trong đó Quảng hoằng minh tập được hoàn thành năm Lân Đức nguyên niên – 664, Tục Cao tăng truyện hoàn thành năm Trinh Quán 19 - 645). Theo các nguồn tư liệu đó, “Nhân Thọ xá lợi tháp” được xây dựng vào 3 thời điểm như sau:

Lần thứ nhất vào năm Nhân Thọ nguyên niên (601), trên phạm vi 30 châu.
Lần thứ hai vào năm Nhân Thọ 2 (602), trên phạm vi 50 (có tài liệu cho là 53) châu.
Lần thứ ba vào năm Nhân Thọ  4 (604), trên phạm vi hơn 30 châu.

BẮC NINH: PHÁT HIỆN MỘT VĂN BIA CỔ ĐƯỢC KHẮC NĂM 601

Văn bia cổ ở Bắc Ninh là minh văn “Nhân Thọ xá lợi tháp” 


(TT&VH Online) - Đầu tháng 8/2012, Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh đã phát hiện và sưu tầm được hai cổ vật độc đáo ở chùa Thiền Chúng (Thuyền Chúng), huyện Long Biên, xứ Giao Châu xưa, trong đó có một tấm bia đá có từ năm 601, được đánh giá là cổ nhất Việt Nam. Những văn tự ghi trên bia thuộc loại “khó hiểu” nên nội dung của văn bia là điều bí ẩn.

Tuy nhiên, tại một công trình nghiên cứu trình bày tại Hội nghị thông báo khảo cổ học toàn quốc mới đây, Thạc sĩ Phạm Lê Huy, Giảng viên Khoa Đông Phương học, Đại học XH&NV (thuộc ĐHQGHN) cho biết đã giải mã được những bí ẩn ghi trên văn bia.

Theo Thạc sĩ Phạm Lê Huy, nội dung ghi trong văn bia gồm có tổng cộng 133 chữ, được chia làm 13 dòng. Sau khi giải mã chữ viết, có thể thấy nội dung văn bia trên như sau:

Minh văn Nhân Thọ Xá lợi tháp ở Thanh Châu (Trung Quốc). Chú thích của Tễu

“1. Xá lợi tháp minh văn
2. Duy Đại Tùy Nhân Thọ nguyên niên tuế thứ Tân Dậu thập nguyệt
3. Tân Hợi sóc thập ngũ nhật Ất Sửu
4. Hoàng đế phổ vi nhất thiết pháp giới u hiển sinh linh cẩn
5. ư Giao Châu Long Biên huyện Thiền Chúng tự phụng an xá lợi
6. kính tạo linh pháp nguyện
7. Thái Tổ Vũ Nguyên Hoàng đế, Nguyên Minh Hoàng Hậu, Hoàng đế, Hoàng
8. hậu, Hoàng thái tử, chư vương tử tôn đẳng, tịnh nội ngoại thần
9. quan, viên cập dân thứ, lục đạo, tam đồ nhân, phi nhân đẳng
10. Sinh linh thế thế trị phật văn pháp, vĩnh ly khổ không, đồng
11. thăng diệu quả
12. Sắc tứ Đại đức Tuệ Nhã pháp sư, Lại bộ Vũ kỵ úy
13. Khương Huy tống xá lợi ư thử khởi pháp”.

Qua so sánh, có thể nhận thấy văn bia trên có nội dung về cơ bản giống với “Nhân Thọ xá lợi tháp” có niên đại 601 đã được phát hiện tại Trung Quốc.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, văn bia cổ ở Bắc Ninh vẫn có một số điểm khác biệt so với văn bia phát hiện ở Trung Quốc.

Trong văn bia cổ ở Bắc Ninh, dòng đầu tiên ghi chữ “Xá lợi tháp minh”, trong khi đó, một số minh văn phát hiện ở Trung Quốc lại ghi là “Xá lợi tháp hạ minh” hoặc không ghi tiêu đề. Vị trí khắc dòng tiêu đề cũng khác nhau ở từng bia, có cái ghi dòng đầu, có cái ghi dòng cuối.

Ngoài ra, trong khi các minh văn khác chỉ có phần chính văn thì ở văn bia cổ ở Bắc Ninh lại có ghi thêm phần chú thích “sắc sứ” là “Đại đức Tuệ Nhã pháp sư” và “Vũ kỵ úy Khương Huy”.

Minh văn Thanh Châu (Trung Quốc), ngoài 2 “sắc sứ” là “Đại đức Trí Năng” và “ Vũ kỵ úy Lý Đức Kham còn ghi thêm tên 2 người tùy tùng (tòng giả) và 2 viên chức Tư mã và Lục sự tham quân của Thanh châu. Đối chiếu với chiếu thư của Tùy Văn Đế, có thể xác định: “Đại đức Tuệ Nhã pháp sư” và “Đại đức Trí Năng” là 2 trong số 30 sa môn được Tùy Văn Đế cử về địa phương, còn Khương Huy và Lý Đức Kham là 2 “tản quan” tháp tùng.

Bên cạnh đó, việc nắp bia và bia được kết dính bằng một chất đặc biệt cũng được phát hiện tại Trung Quốc. Sự thống nhất trong nội dung minh văn với các tấm bia tìm được tại Trung Quốc cũng như sự trùng khớp thông tin (ngày 15 tháng 10 năm 601, xây tháp tại chùa Thiền Chúng ở Giao Châu) với các tư liệu khác như “Quảng hoằng minh tập” và “Cảm ứng thông lục” có thể khẳng định: Tấm bia vừa được tìm thấy tại Bắc Ninh chính là minh văn “Nhân Thọ xá lợi tháp” được khắc cùng với sự kiện xây dựng tháp xá lợi tại chùa Thiền Chúng ở Giao Châu năm 601.
Đánh giá về giá trị và ý nghĩa lịch sử của tấm văn bia cổ vừa được phát hiện và giải mã ở Bắc Ninh, Thạc sĩ Phạm Lê Huy khẳng định: Đây là nguồn tư liệu kim thạch quý giá, bên cạnh bia Trường Xuân và tấm bia phát hiện ở khu vực Vạn Xoan trước đây, đã giúp các nhà nghiên cứu rõ hơn về tình hình chính trị, quan hệ ngoại giao, lịch sử Phật giáo tại Việt Nam giai đoạn thời Tiền Lý. Liên quan đến lịch sử Phật giáo, nó còn giúp chúng ta nhận thức hoàn chỉnh hơn về hoạt động xây dựng tháp xá lợi và các tín ngưỡng xung quanh trong thời Tùy – Đường.

Không chỉ có ý nghĩa đối với Việt Nam, tấm bia cổ Bắc Ninh cũng là nguồn tư liệu quý giá giúp nâng cao hiểu biết của giới học giả Trung Quốc và Nhật Bản về hoạt động xây dựng “Nhân Thọ xá lợi tháp” nói riêng cũng như chính sách Phật giáo của nhà Tùy nói chung.

Lưu Thủy
Nguồn: TT & VH 

CÓ NÊN XÂY KHU TƯỞNG NIỆM CỤ HỒ Ở KHU DI TÍCH ĐỀN HÙNG?

Tranh cãi về nhà tưởng niệm ở đền Hùng


Theo truyền thông trong nước, tỉnh Phú Thọ dự kiến xây (khu) nhà tưởng niệm Hồ Chí Minh trong khu di tích lịch sử đền Hùng. Trang mạng thông tin của tỉnh Phú Thọ cũng đăng rõ, tổng mức đầu tư công trình nhà tưởng niệm ước tính khoảng 60 tỷ đồng.
Theo dự tính, công trình sẽ được xây theo kiến trúc truyền thống như nhà tứ trụ, nhà bia, khu tiền tế, đại bái, hậu cung, và các công trình phụ trợ khác... với diện tích 8.450 mét vuông trên đồi Phân Trà.

Bí thư tỉnh ủy Nguyễn Doãn Khánh khẳng định sẽ “đảm bảo kiến trúc truyền thống” phù hợp, hài hòa với khối kiến trúc tổng thể của khu đền Hùng.

Tuy vậy, loan báo đã gây ra không ít tranh luận.

GS. Trần Lâm Biền, chuyên gia nghiên cứu tín ngưỡng - văn hóa từ Hà Nội, nói với BBC “muốn truyền thống hay không chưa biết, nhưng theo tôi nghĩ nó chưa được đưa ra hội đồng khoa học của Bộ Văn hóa.”

Giáo sư Biền cho rằng việc đặt nhà tưởng niệm Hồ Chí Minh trong khu di tích đền Hùng là “không thích hợp”.

“Vậy nó đặt ra một vấn đề là thờ Hùng Vương là chính hay tưởng niệm Bác Hồ là chính,” theo giáo sư.

Bí thư tỉnh ủy Nguyễn Doãn Khánh giải thích công năng nhà tưởng niệm là để “ghi lại dấu ấn lịch sử quan trọng khi Bác về thăm đền Hùng.”

Phát biểu về vấn đề này, ông Trần Lâm Biền cho rằng, khi một khu di tích đang thờ một vị nào đó, thì “lòng người hướng tới các vị thần ấy hay tổ tiên ấy là tuyệt đối...”

“Nhưng khi đưa cụ Hồ vào trong này, lòng kính trọng sẽ bị chia sẻ,” ông bày tỏ việc cả Hùng vương và Hồ Chí Minh cùng ở một chỗ sẽ không đạt tới tính tôn sùng đỉnh cao, và “đây là việc khó có thể chấp nhận được”.

Ông cũng nói thêm, “chắc khi đề án này được đưa ra đã có nhiều ý kiến không tán thành”.

Theo thông tin tỉnh Phú Thọ đăng, có một số đại biểu băn khoăn về kiến trúc công trình cũng như quy mô dự án, nhưng không ghi cụ thể những băn khoăn đó là gì.

Giáo sư Trần Lâm Biền cho rằng, nếu muốn kỷ niệm Hồ Chí Minh ở Phú Thọ thì chỉ cần đưa vào bảo tàng Hùng Vương, hoặc tìm một địa điểm nào khác đông người tới thăm quan hơn, chứ để trong khu di tích là “không hợp lý”.


Tễu: Hoàn toàn nhất trí với ý kiến của GS Trần Lâm Biền. Cụ Hồ không hề muốn điều này. Cụ Hồ đã có lăng và hàng trăm nơi thờ cúng và di tích liên quan trên cả nước rồi, lẽ nào cụ còn muốn chen vào nơi thờ Quốc tổ để...chia sẻ.

Nếu đã thấm nhuần tư tưởng HCM và học tập tấm gương đạo đức của HCM thì không bao giờ đề xuất dự án này và không thể phê duyệt cho dự án này!

HÔM NAY: TRIỂN LÃM VÀ TỌA ĐÀM VỀ HÀ NỘI NĂM 1972 TẠI TRUNG TÂM VH PHÁP

Triển lãm ảnh:

Hà Nội, những ngày đêm năm 1972


Triển lãm được tổ chức và điều phối bởi Olivier Tessier (Viện viễn đông Bác cổ Pháp) - Ngày 11 tháng 10 đến ngày 09 tháng 11 năm 2012 - Sảnh triển lãm Trung tâm Văn hóa Pháp 

Những hình ảnh về Hà Nội trong trận đánh bom năm 1972.

Triển lãm cũng giới thiệu những giai đoạn của trận đánh bom theo trình tự thời gian (mục tiêu chiến lược, sự tham gia của lực lượng không quân, những thiệt hại về cơ sở vật chất và con người, dân sự và quân sự) và quá trình đàm phán đồng thời diễn ra.

Khai mạc: Ngày 11.10 – lúc 18h00              Triển lãm: từ ngày 11.10 > ngày 09.11 
.
Vào cửa tự do

Tọa đàm:

Năm 1972 – năm mấu chốt tháo gỡ cuộc xung đột 

giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.


Tọa đàm được tổ chức và dẫn dắt bởi Olivier Tessier (Viện viễn đông Bác cổ Pháp) - Ngày 11 tháng 10 năm 2012 - 18h00 - Hội trường Trung tâm Văn hóa Pháp 

Phân tích và nghiên cứu lịch sử của các chuyên gia Việt Nam và Pháp về chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, về tiến trình hòa bình và về những ngày đêm ném bom vào tháng 10 năm 1972.

Diễn giả:
- T.S Nguyễn Xuân Năng, Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam
- T.S sử học Pierre Journoud, phụ trách nghiên cứu tại Viện nghiên cứu chiến lược của Trường quân sự (IRSEM – Bộ Quốc phòng), nghiên cứu viên tại UMR-CNRS IRICE (Bản sắc, quan hệ quốc tế và văn minh châu Âu), tại Trường Đại học Paris I Panthéon-Sorbonne, thành viên Trung tâm lịch sử châu Á đương đại của trường Paris I.
 
Dịch song song Pháp – Việt
Vào cửa tự do

TRỰC TIẾP: ĐANG GIẢI CỨU CÁC EM BÉ TR0NG TRƯỜNG MẦM NON

Xông vào trường mầm non, bắt trẻ làm con tin

Khoảng 8h30 sáng nay, một nam thanh niên bất ngờ xông vào trường mầm non 10A trên đường Gò Cẩm Đệm (phường 10, Tân Bình, TP HCM) khống chế 2 bé gái 3 tuổi. Hàng trăm cảnh sát đã bao vây ngôi trường để tìm cách giải cứu.

Người dân vây chặt bên ngoài trường. Ảnh: An Nhơn.

Tên thanh niên khoảng 20 tuổi đã lao vào kề cổ 2 bé lớp mầm trong lúc tất cả học sinh đang chơi đùa trên sân. Ngay lúc đó, các giáo viên hoảng hốt lùa tất cả học sinh của mình vào các lớp và khóa chặt cửa lại. Tên thanh niên kéo 2 bé vào một lớp học khác áp chế. 

Hàng trăm cảnh sát được điều động tới và bao vây hiện trường, phong tỏa mọi ngả đường. Người dân đổ về đây ngày càng nhiều, trong đó phần lớn là phụ huynh học sinh với nét mặt lo lắng, hoảng loạn. Có người định lao vào trường nhưng cảnh sát đã ngăn lại. 

Thứ Tư, 10 tháng 10, 2012

NƯỚC PHÁP VÀ SỰ HÌNH THÀNH MỸ THUẬT HIỆN ĐẠI VIỆT NAM

Pháp và sự hình thành mỹ thuật hiện đại Việt Nam

Huế- Victor Tardieu
Huế- Victor Tardieu            @Bảo Tàng Cernuschi
Thanh Hà
.
"Từ sông Hồng đến Cửu Long» giới thiệu đến những tầm nhìn khác nhau của các nghệ sĩ Pháp và Việt về cùng một vùng đất còn rất xa lạ ở vào đầu thế kỷ XX là Đông Dương. Trường Mỹ thuật Đông Dương Hà Nội là nhịp cầu nối liền hai dòng sáng tác Đông và Tây. RFI phỏng vấn bà Christine Shimizu, giám đốc kiêm quản thủ bảo tàng Cernuschi. Bà cũng là một trong hai người điều hành triển lãm này.

Tạp chí văn hóa của RFI tuần trước đã giới thiệu đến quý thính giả và các bạn triển lãm « Từ sông Hồng đến Cửu Long, tầm nhìn Việt Nam » tại viện bảo tàng Cernuschi, quận 8 Paris. Hôm nay chúng ta cùng trở lại với sự kiện này để tìm hiểu thêm về vai trò và ảnh hưởng của các họa sĩ người Pháp đối với hội họa nói riêng và nền mỹ thuật hiện đại nói chung của Việt Nam.

Giải thưởng Đông Dương, được thành lập từ năm 1910 cấp học bổng cho các nghệ sĩ Pháp sang Đông Dương sáng tác. Giải thưởng này cũng là điểm khởi đầu của giao lưu văn hóa hóa Pháp – Việt. Những giải thưởng đầu tiên như họa sĩ François de Marliave (1911), Charles Fouqueray (1914) hay Géo Michel (1923) đã đến và sáng tác rất nhiều từ Đông Dương.

Hành trình về phương Đông ấy đã cho phép họ đem về Pháp và triển lãm nhiều tác phẩm với một cái nhìn thực tế hơn về một vùng đất, mà cho đến khi đó, mới chỉ có « trong trí tưởng tượng » của các nhà sáng tác.

Phải đợi đến năm 1924, nhờ nỗ lực của họa sư Victor Tardieu, cùng với sự hợp tác của họa sĩ trẻ, Nguyễn Nam Sơn, trường Mỹ thuật Đông Dương ra đời tại Hà Nội. Victor Tardieu là giám đốc điều hành trường Mỹ thuật Đông Dương Hà Nội cho đến ngày ông qua đời vào năm 1937.

Trường Mỹ thuật Hà Nội với nhiều bộ môn khác nhau (từ kiến trúc đến hội họa, từ nghệ thuật điêu khắc, nghệ thuật trang trí đến sơn mài…) là chiếc nôi của nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam. Đấy cũng là nơi những tài năng của Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XX đã thăng hoa và tỏa sáng, như Lê Văn Đệ, Mai Thứ, Vũ Cao Đàm, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí, Lê Phổ, ...

Trường Mỹ thuật là nơi nhiều thế hệ các nghệ sĩ Pháp ( Louis Rollet, André Maire, Lucien Lièvre, Léo Crastre, Alix Aymé …) đến đến giảng dạy và mở ra một chân trời mới cho các họa sĩ trẻ Đông Dương.
Triển lãm « Từ sông Hồng đến Cửu Long » giới thiệu với khách tham quan Paris khoảng 70 tác phẩm, từ hội họa đến sơn mài và điêu khắc … Trong số những tác phẩm của các nghệ sĩ Pháp, ta thấy có Femmes et Flamboyants- Thiếu phụ và cây phượng vĩ của Henry Vollet ; có Vịnh Hạ Long của Charles Fouqueray hay Lucien Lièvre ; có kinh đô Huế trong nhãn quan của Louis Rollet ; có lăng Tự Đức dưới bút pháp của François de Marliave ; có con thuyền đơn độc trên mặt nước sông Hương (Henri Mège)  ; có bức sơn dầu của Tardieu về một góc Hà Nội, có bức tượng đồng Mọi  sắc sảo của Manette de Lyee de Belleau ; có buổi Trưa hè yên tĩnh của Alix Aymé, hay Peuples des Hauts Plateaux – Dân tộc Cao Nguyên của André Maire.

Vậy thì câu hỏi đặt ra là sự cọ sát và tiếp cận với các nghệ sĩ Pháp đã đem lại những gì cho ngành hội họa  mỹ thuật hiện đại Việt Nam ? Cuộc hội ngộ với phương Đông đã thay đổi và ảnh hưởng như thế nào đến sự nghiệp sáng tác của những nhà nghệ thuật Pháp ?

Trước hết bà Christine Shimizu, giám đốc kiêm quản thủ bảo tàng Cernuschi và là một trong hai người điều hành cuộc trưng bày giới thiệu qua về triển lãm « Từ sông Hồng đến Cửu Long, tầm nhìn Việt Nam » :

Christine Shimizu : "Cuộc triển lãm này đưa người xem theo dòng thời gian cùng với sự phát triển của hội họa Việt Nam. Một phần những tác phẩm được trưng bày là những sáng tác của các nghệ sĩ Pháp đã đến Đông Dương từ cuối thế kỷ thứ 19. Đó là phần đầu của cuộc triển lãm, với nhiều tác phẩm của các họa sĩ Pháp từng đoạt Giải thưởng Đông Dương. Giải thưởng gồm một năm học bổng và sau đó họ được cử đến giảng dậy tại trường Mỹ thuật Đông Dương ở Hà Nội thêm một năm nữa.

Ở phần thứ nhì, chúng tôi tập trung vào những tác phẩm của các danh họa Việt Nam, được đào tạo từ trường Mỹ thuật Đông Dương –Hà Nội. Trong số đó phải kể đến một vài sáng tác của cố họa sư Nam Sơn, đồng sáng lập viên trường Mỹ thuật Đông Dương. Bên cạnh những tac phẩm hội họa, còn có cả những bức sơn mài cũng từ trường Mỹ thuật Đông Dương - Hà Nội. Ở đây, chúng tôi muốn giới thiệu đến công chúng tài năng của các họa sĩ trẻ Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đấy là những bức họa được thực hiện với những kỹ thuật khác nhau, chẳng hạn như sơn dầu hay than vẽ và đương nhiên là phải kể đến tranh lụa".

RFI : Đông Dương nói chung, Việt Nam nói riêng, đã đem lại những gì và đã ảnh hưởng như thế nào đến mạch sáng tác của các nghệ sĩ Pháp, nếu không muốn nói là ảnh hưởng đến cả sự nghiệp nghệ thuật và cuộc đời của họ ? 

Christine Shimizu : "Những người như là Lucien Lièvre, Henri Dabadie hay Michel Géo đã bị sắc màu của Đông Dương làm mê hoặc. Sinh hoạt hàng ngày của người dân địa phương, phong cảnh đồng quê, đời sống thôn dã là nguồn sáng tác đa dạng và hết sức phong phú. Các nghệ sĩ này đã đưa nhiều đề tài mới vào tác phẩm của mình. Đó là những đề tài chưa từng được hội họa Pháp cũng như của Việt Nam quan tâm. Chẳng hạn như họ đề cập đến các sinh hoạt ven sông, đến làng quê … Họ cũng đã có một cái nhìn hoàn toàn mới về các sắc tộc thiểu số ở vùng cao nguyên. Tôi muốn nói đến nữ họa sĩ Marie Antoinette Bouillard Devé (hai bức tranh sơn dầu Portrait- Chân Dung  và Terre Rouge, femme de CochinchineĐất đỏ, phụ nữ Nam Kỳ ), hay một tác giả khác là Léa Lafugie ( Tonkin- Bắc Kỳ  và Hà Giang, Đồng Văn, Lô Lô )"

RFI : Riêng đối với trường hợp của bà Alix Aymé, hành trình Đông Dương đã thay đổi hẳn cuộc đời bà. 

Christine Shimizu : "Đúng, Alix Aymé là một nhà hội họa. Bà đã theo chồng (Paul de Fauterau –Vassel) sang Trung Quốc và sau đó là sang Đông Dương công tác. Họ định cư tại Hà Nội.Riêng bản thân bà đã ở lại Hà Nội cho đến năm 1945. Alix Aymé đã đem lại một tầm nhìn mới không chỉ cho ngành hội họa Việt Nam mà bà còn có những đóng góp rất lớn đối với nghệ thuật sơn mài của Việt Nam.

Trong một chuyến tham quan Nhật Bản, Alix Aymé đã tiếp cận với nghệ thuật sơn mài của Xứ phù tang. Tại trường Mỹ thuật Hà Nội, bà dẫn dắt học trò đến với « nghệ thuật trang trí » rất thịnh hành ở Pháp thời đó và bà cũng đã đem đến một làn gió mới cho nghệ thuật sơn mài Việt Nam. Chẳng hạn như bà đã truyền lại nghệ thuật thếp vàng của ngành sơn mài Nhật Bản".