Hiển thị các bài đăng có nhãn Xứ Đoài. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Xứ Đoài. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 28 tháng 11, 2025

ĐÚT LÓT MỘT THANH KIẾM VÀNG ĐỂ LẤY MỘT CHỮ KÝ

ĐÚT LÓT MỘT THANH KIẾM VÀNG ĐỂ LẤY MỘT CHỮ KÝ

Nguyễn Bá Lân (1700 – 1785) là Tiến sĩ, Thượng thư trải 6 bộ, và là một quan chức cao cấp thời Lê Trịnh. Ông là một danh sĩ, một nhà thơ, nổi tiếng với bài phú Nôm “Ngã Ba Hạc phú”, và những giai thoại được truyền tụng khắp trong triều ngoài nội. 

Năm 1872 khi Trịnh Sâm chết, thì Nguyễn Bá Lân vẫn đang còn làm quan ở phủ chúa, và đã được chứng kiến cuộc tranh cướp ngôi giữa một bên là Trịnh Cán con của Đặng Thị Huệ và một bên là Trịnh Tông, cuộc tranh cướp này là nguyên nhân làm bùng ra cuộc nổi loạn của kiêu binh, làm cho cơ đồ của họ Trịnh bị sụp đổ. 

Thứ Tư, 26 tháng 11, 2025

LÀNG CỔ ĐÔ - LÀNG HỌA SĨ, LÀNG THƠ


Làng Cổ Đô xưa và nay
Nguyễn Xuân Diện - viết năm 1993
 
Làng Cổ Đô là một làng quê nhỏ bé nằm nép mình bên dòng sông Đà cuộn sóng. Xuôi xuôi một chút là Ngã Ba Hạc nơi gặp gỡ của ba con sông, ba màu nước lại là nơi chất chứa bao huyền thoại từ thuở hồng hoang khi “vũ trụ mơ màng, càn khôn xếch xác”. Đất Cổ Đô là đất cổ, trước đó có tên là An Đô, sau lại đổi là An Bang, thuộc huyện Tiên Phong, phủ Quảng Oai, trấn Sơn Tây (nay là huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây).

Chủ Nhật, 23 tháng 11, 2025

HOÀNG GIÁP NGUYỄN ĐĂNG HUÂN- NGƯỜI 2 LẦN VINH QUY BÁI TỔ

Thăm làng Ngái, viếng mộ Hoàng giáp Nguyễn Đăng Huân
Nguyễn Xuân Diện

Làng Hương Ngải, tên Nôm là Kẻ Ngái, huyện Thạch Thất, HN. Hương Ngải là một danh hương ở Xứ Đoài. Xưa, vua Tự Đức tặng làng danh hiệu “Mỹ tục khả phong” (phong tục tốt đẹp đáng làm gương), nay hãy còn treo ở đình. Đây là quê hương của Cụ Nguyễn Tử Siêu, một nhà văn chuyên viết về tiểu thuyết lịch sử. Con trai cụ là Lương y Nguyễn Thiện Quyến, Chủ tịch Hội Đông y Việt Nam, tôi cũng từng có vinh hạnh được hầu chuyện.

Thứ Hai, 3 tháng 11, 2025

HÌNH ẢNH CẦU CHÒ/ CẦU TRÒ MỚI TÌM THẤY TRONG SÁCH CŨ


HÌNH ẢNH CẦU CHÒ/ CẦU TRÒ MỚI TÌM THẤY TRONG SÁCH CŨ

Tôi để tâm tìm hình ảnh và các bài viết về "cầu trò" ở quê hương tôi, thực là rất hiếm có khó tìm thấy 1 quyển sách nào viết về nó, hoặc đăng ảnh chụp / ảnh vẽ kèm có chú thích tên "Cầu Trò" / "Cầu Chò".
 
Rất vui vừa thấy hôm qua một cuốn sách "Souvenirs Franco-Tonkinois 1879-1886" sách do một nhà truyền giáo (cha tuyên úy) cùng đoàn quân viễn chinh Pháp lên đánh và hạ thành Sơn Tây ghi chép. Trong sách, tại trang 192 có đăng 1 hình ảnh kèm ghi chú "Pont de Cau Cho sur la route de Son Tay à Hanoi" (Cầu Chò trên đường đi từ Sơn Tây đến Hà Nội). Trong sách này tôi nhận thấy tác giả cũng đã dùng từ "Xứ đoài". Có lẽ đây là một trong những "tác giả Tây" dùng từ "Xứ đoài" sớm nhất trong tác phẩm "chữ tây".

NGÔI CHÙA HOANG VÀ KỲ ÁN THIÊN THU

NGÔI CHÙA HOANG VÀ KỲ ÁN THIÊN THU

Nguyễn Xuân Diện

Đó chính là một ngôi chùa ở Xứ Đoài. Ngôi chùa này đứng ngay trên lối vào cổ ấp Đường Lâm. Dân tôi gọi là Chùa Ón, hoặc cẩn thận hơn thì gọi là chùa Ón Vật.

Chùa này có từ bao giờ không ai biết. Trong chùa cũng chẳng có tượng pháp, mà chỉ có bát hương để trên một bệ gạch hoang tàn lạnh lẽo quanh năm. Tất nhiên chùa không có sư. Trong chùa cũng chẳng có một hàng câu đối hoành phi gì; chỉ thấy trên câu đầu là có chữ Nho. Đôi câu đầu ấy, một bên là “Nguyên - Hanh - Lợi - Trinh” lối triện; bên kia là năm tháng dựng cột bắc nóc, với cái năm can chi rất chung chung, khiến ta không thể xác định được niên đại chắc chắn.

CHUYỆN MỘT CÔNG CHÚA HIỂN LINH NGẦM GIÚP VUA TRẦN THÁNH TÔNG THOÁT HIỂM

Ảnh cây cầu chỉ có tính chất minh hoạ.

Trên đường Hà Nội - Sơn Tây, gần tới thị trấn Gạch, có một cây cầu, tên gọi cầu Trò, cầu Trò nằm trên địa phận thôn Gia Hòa xã Phúc Hòa, Phúc Thọ. Người ta vẫn kể rằng, xưa có một cô đào đã từng làm mê mẩn bao quan viên, bởi vẻ đẹp đoan trang kiều diễm, bằng nhịp phách giòn tan và những luyến láy trác tuyệt. Một đêm mưa gió, tan cuộc hát, nàng trở về nhà, không may cho nàng vừa về đến cầu thì nàng cảm lạnh mà chết. Dân làng thương nàng, quan viên đã từng say mê tiếng hát của nàng đã chôn cất và lập miếu thờ nàng ở ngay bên cầu. Câu chuyện ấy, tình cảm ấy đã làm bao người thương xót thân phận “nửa chừng xuân, thoắt gãy cành thiên hương” của người ca nữ nọ.

LỄ HỘI ĐẢ NGƯ VÀ TIỆC CÁ ĐỀN VÀ

Cá nướng

LỄ HỘI ĐẢ NGƯ VÀ TIỆC CÁ ĐỀN VÀ
Nguyễn Xuân Diện

Đền Và (Đông Cung) - thôn Vân Gia, xã Trung Hưng, ngoại thị Sơn Tây, Hà Nội là nơi thờ phụng Tam Vị Tản Viên Sơn Đại Vương Quốc Chúa Thượng Đẳng Thần, vị thần đứng đầu trong Tứ Bất Tử và cũng là đứng đầu bách thần khí thế rực rỡ thưở trước, anh linh tỏa rạng muôn sau.

Thứ Hai, 10 tháng 2, 2025

"SƠN TÂY TỨ QUÝ"


Sơn Tây tứ quý

Nguyễn Xuân Diện

Trong số bạn bè của tôi, có một tay rất sành sỏi trong sự ẩm thực, có nhiều dịp được thưởng thức của ngon vật lạ khắp nơi. Riêng đất Hà Tây, anh khoe đã đến bánh dầy Quán Gánh, rượu làng Chuôn, bánh tẻ Cầu Liêu, chè lam làng Thạch, thịt chó - cháo vịt Vân Đình... Tôi phải công nhận đấy là những đồ ăn thức uống ngon.


Thứ Sáu, 1 tháng 3, 2024

Nguyễn Xuân Diện: ĐẦU NĂM, LÊN CHƠI NÚI BA VÌ


Ngày đầu năm, lên chơi núi Ba Vì

Nguyễn Xuân Diện

Núi Ba Vì ở về phía Tây thành Thăng Long Hà Nội, còn gọi là núi Tản Viên. Tản là cái tán, Viên là tròn. Gọi vậy là vì núi có ba ngọn (ba vì, ba vị), trên đỉnh núi thắt cổ bồng trông như cái tán lọng giữa vũ trụ. Trong “Dư địa chí”, Nguyễn Trãi viết: “Đó là núi tổ của nước ta đó”. Sách “Đại Nam Nhất thống chí” chép rằng trên núi có loài cỏ gọi là “Vô phong độc dao thảo”, tức là loài cỏ khi không có gió mà cũng lay động đong đưa không ngừng. Trên núi có rừng trúc đẹp, lại có thảm rêu màu đỏ như huyết. Cùng vô vàn loài thảo mộc và dược liệu quý. 

Thứ Ba, 1 tháng 8, 2023

15 NĂM TRƯỚC TRẢ LỜI PV NHÂN SỰ KIỆN XÓA SỔ TỈNH HÀ TÂY


TS.Nguyễn Xuân Diện: 
Để gìn vàng giữ ngọc

Báo Công an Nhân dân
21:55:00 03/08/2008

CAND - Trong thời buổi lớp trẻ ít quan tâm đến văn hóa cổ, TS Nguyễn Xuân Diện, Phó giám đốc Thư viện Hán Nôm (Viện Hán Nôm) là một nhà nghiên cứu trẻ đáng chú ý với nhiều phát hiện mới và sâu sắc về văn hóa dân tộc. Trong đó công trình nghiên cứu về ca trù của anh được đánh giá cao.
 

Nguyễn Xuân Diện có nhiều buổi thuyết trình về ca trù (anh thường tự hát ca trù để minh họa) độc đáo, hấp dẫn. Là một người Hà Tây (đến hôm nay thì có thể gọi là Hà Tây cũ), TS. Nguyễn Xuân Diện quan tâm nhiều đến di sản văn hóa xứ Đoài.

Thưa anh, Hà Tây là tỉnh có số lượng di tích lịch sử và văn hóa, di sản văn hóa phi vật thể lớn nhất nước, khi sáp nhập với Hà Nội - nơi có số lượng lớn thứ 2, Hà Nội mới sẽ mang trong mình một giá trị di sản văn hóa khổng lồ. Điều này vừa là niềm tự hào của Thủ đô nhưng chắc chắn cũng là một trách nhiệm nặng nề?

Hà Tây là tỉnh có nhiều di tích nhất cả nước (trong đó có nhiều di tích được liệt vào hạng đặc biệt quan trọng của quốc gia: Chùa Hương, chùa Tây Phương, chùa Bối Khê, chùa Thầy, đình Tây Đằng, đình Chu Quyến, rồi làng Việt cổ Đường Lâm,...). Mỗi một ngôi đình, đền, chùa này lại không đơn giản chỉ là một hiện vật bảo tàng, mà xung quanh đó, hàng ngày, hàng giờ vẫn diễn ra các sinh hoạt tâm linh, tôn giáo, tín ngưỡng của nhân dân. Vì vậy, nó chính là một bảo tàng sống động về văn hóa.
.

Thứ Hai, 31 tháng 7, 2023

Thơ: MAI ANH THÀNH NGƯỜI HÀ NỘI


Có nhớ Xứ Đoài mây trắng lắm?

Tặng hai anh PBC và NXD
cùng những người “nhớ” Hà Tây

Mai anh thành người Hà Nội
Xứ Đoài mây trắng còn bay?
Mai anh thành người Hà Nội
Có còn nhớ... mắt Sơn Tây?

Thạch Thất, Ba Vì, Phúc Thọ
Phú Xuyên, Chương Mỹ, Ứng Hòa
Thường Tín, Mỹ Đức, Thanh Oai
Hoài Đức, Quốc Oai, Đan Phượng...

Tất cả vẫn đều là huyện
Nhưng không phải tỉnh Hà Tây!
Tất cả vẫn còn nguyên vẹn
Mà sao thương đến lắt lay!...

Mai anh thành người Hà Nội
Có đi đâu, vẫn quê mình
Mà sao thấy lòng tồi tội
Rứt ray như kẻ phụ tình!

Đá ong khô buồn rớm lệ
Mây Đoài trắng lắm..., đành quên
Sài Sơn... lúa vàng..., thôi kệ
Mặc đồng Bương Cấn ai lên!

Mai anh thành người Hà Nội
Uống cùng anh cạn đêm nay
Ước chi hóa thành chén rỗng
Lòng đau - anh cứ rót đầy!

Đ.H.T
Đà Nẵng, chiều 31.7.2008 
 
         ************************
- Chào Tiến sỹ Nguyễn Xuân Diện, cảm xúc của ông trong những ngày đầu tiên Hà Tây không còn nữa như thế nào?


- Tôi chờ đến lúc 0h ngày 1-8 để cảm nhận những cảm xúc trong lòng tôi. Rồi chờ đợi trận mưa ngâu đầu tiên trong năm vào ngày 1 tháng Bảy âm lịch. Trưa hôm qua, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều mời tôi đi dùng bữa trưa để ghi nhớ việc họ hàng và gia đình chúng tôi trở thành người Hà Nội. Cảm xúc của chúng tôi là lo lắng cho di sản văn hóa Hà Tây, nhất là văn hóa xứ Đoài trở thành một bộ phận của văn hóa Hà Nội.

- Với nhiều năm nghiên cứu về lịch sử và văn hóa Hà Tây, ông đã từng thấy những cuộc sáp nhập và tách rời giữa xứ Đoài với những miền đất khác hay chưa?

- Tỉnh Hà Tây (cũ) bao gồm hai vùng văn hóa: văn hóa trấn Sơn Nam thượng và văn hóa xứ Đoài, trong đó văn hóa xứ Đoài là rất đặc sắc. Dưới thời phong kiến và dưới thời Tây, Hà Tây thuộc hai trấn (xứ) hoặc hai tỉnh khác nhau (Hà Đông và Sơn Tây).   

Người xưa phân địa giới như vậy là căn cứ vào điều kiện địa lý, thổ nhưỡng và văn hóa của mỗi vùng. Từ năm 1945 đến nay, xứ Đoài (gồm các huyện phía Bắc của tỉnh Hà Tây cũ) đã từng 7 lần tách nhập với Hà Nội. Mỗi lần tách ra, xứ Đoài gần như không có gì mới so với khi nó được nhập vào, trên tất cả các phương diện. 
 
- Câu hỏi lớn và cũng là trách nhiệm của những người quản lý hiện thời là, khi Hà Tây hòa vào Hà Nội thì văn hóa và nếp sống của họ sẽ ra sao? Bởi đâu phải giản đơn xây nhà cao tầng, có đường nhựa thì người dân quê bỗng chốc thành người Hà Nội? 
 
- Vâng, thành người Hà Nội, tức là chỉ một chất lượng sống và thụ hưởng văn hóa của cư dân Thủ đô, chứ không phải chỉ là nhà cao tầng, đường nhựa hay cuốn sổ hộ khẩu, cái giấy chứng minh nhân dân hoặc biển số xe máy.

Thứ Hai, 24 tháng 4, 2023

Nguyễn Xuân Diện: TRÒ CHUYỆN VỀ KIẾN TRÚC CHÙA TÂY PHƯƠNG


Nhớ ngày mùng 6 tháng 3
Ăn cơm với cà, đi hội Chùa Tây.
(Ca dao cổ xứ Đoài)


VẺ ĐẸP ĐỘC ĐÁO KIẾN TRÚC CHÙA TÂY PHƯƠNG

Nguyễn Xuân Diện

viết năm 1991

Chùa Tây Phương là một trong những ngôi chùa to và đẹp nhất ở đồng bằng Bắc bộ, đã từng hấp dẫn bao nhiêu nhà nghiên cứu mỹ thuật, nhà văn, nhà thơ, nhiếp ảnh gia xa gần.

 Đây là một công trình kiến trúc nổi tiếng bởi vẻ đẹp của nó. Chùa có tên chữ là Sùng Phúc tự, tọa lạc trên ngọn núi cổ hình lưỡi câu gọi là Câu Lậu sơn, cao khoảng 50m, thuộc xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất (Hà Tây cũ).

Thứ Hai, 1 tháng 8, 2022

THƯƠNG NHỚ HÀ TÂY - ĐỌC LẠI BÀI "ĐIẾU HÀ TÂY TỈNH"



 
Ngày 1-8 hàng năm là ngày giỗ tỉnh Hà Tây. Nhớ ngày này năm ấy đúng ngày 1-7 al (lịch trên và lịch dưới trùng nhau), tháng Ngâu, có nhật thực, lại có cơn mưa kì lạ. Trên con đường số 6 đoạn phân danh giới Hà Nội - Hà Tây vào giờ Tý họ hạ gục tấm biển phân chia ranh giới. Và thế là một vùng văn hóa xứ Đoài đã thành thiên cổ. 

Hôm nay, 1/8/2022, kỷ niệm 14 năm ngày Hà Tây biến mất trên bản đồ hành chính quốc gia, để tưởng nhớ Hà Tây, xin đăng tải lại bài ai điếu này:

ĐIẾU HÀ TÂY TỈNH

Tác giả: Nhà giáo Phạm Việt Long

1. Thế cục xoay vần càn khôn dời đổi, bước thịnh suy hồ dễ mấy ai hay.
Mở cửa bốn phương Nam Bắc Đông Tây, luồng gió mới thổi qua miền quê lụa.


2. Đã từng trải bao phen sóng gió, tưởng vĩnh hằng trụ thế với thời gian.
Ai ngỡ đâu bèo dạt mây tan, một quyết định tiễn về miền ký ức.

NHỚ LINH XƯA !

Thứ Hai, 25 tháng 7, 2022

Chuyện làng tôi: GIẾNG ĐỰC & GIẾNG CÁI


Chuyện Làng tôi - Bài 3:
HAI GIẾNG TẮM DÀNH RIÊNG CHO PHỤ NỮ

Nguyễn Xuân Diện

Làng Phụ Khang có 8 giếng: giếng Tóa Loa, giếng đá đội 6, giếng vuông cạnh giếng đá, giếng Chậu ở rộc Chậu, giếng cụ Phó Thêm, giếng đội 2, giếng xóm trong, giếng xóm Lũy Mo. Trong số các giếng này, giếng Tóa Loa là giếng có sớm nhất, được đào ngay từ khi lập làng, nước giếng ngọt nên được cả làng gánh nước về làm tương hoặc nấu cỗ. Thứ đến là giếng đá ở đội 6, nơi có tòa miếu cổ thờ thần Bản thổ. Giếng Chậu đã bị lấp và chưa khôi phục lại, các giếng còn lại vẫn còn, nhưng không còn được dùng sinh hoạt hàng ngày nữa, vì mọi nhà đều có giếng riêng, nhiều nhà đã có dùng nước máy.

Chuyện làng tôi: CÁC LỄ TẾT TRONG NĂM


Chuyện làng tôi - Bài 2: CÁC LỄ TẾT TRONG NĂM
 
Nguyễn Xuân Diện

Trong một năm, người dân Phụ Khang có làm cỗ tết các dịp sau: Tết Nguyên đán, Rằm tháng Giêng, Tết Bánh trôi, Tết mùng 5 tháng 5, Tết Rằm tháng Bảy, Tết Rằm tháng Tám, Tết cơm mời mùng 10 tháng 10, Chạp.

Tết Nguyên đán là Tết cả. Thời gian ăn Tết dài nhất trong các tết. Sau buổi Chạp tổ 23 tháng Chạp là lúc dân làng Phụ Khang nhộn nhịp sắm Tết.

Vào khoảng cuối tháng Chạp, mấy nhà trong xóm đã gạ nhau đụng một con lợn. Khoảng 28 Tết, cả xóm cùng nhau mổ lợn, đánh tiết canh, chia thịt cho mỗi nhà đều đủ cả nạc, mỡ, lòng lợn, xương để đem về chế biến các món ăn cỗ Tết. Trẻ con xúm quanh chờ lấy bong bóng lợn để thổi làm bóng bay. Khi có thịt đem về thì bắt đầu ngâm gạo, pha thịt chuẩn bị lá dong, lạt dang, gạo nếp để gói bánh chưng. Khi gói đến bát gạo cuối cùng bao giờ cũng là vài cái bánh chưng bé cho trẻ con. Công việc đồng áng bây giờ dừng lại, để cả nhà xúm lại mỗi người mỗi việc: đàn bà con gái thì nấu kẹo lạc, chè lam, bánh bỏng; đàn ông thanh niên thì giã giò, gói nem, đánh bóng đồ thờ, lau rửa câu đối hoành phi. Các bà các chị đi chợ Tết thường không quên hai cây mía để dựng hai bên bàn thờ làm gậy ông vải. Một cành đào, một mâm ngũ quả, một ít hương vòng, hương nén cùng vài bức tranh Tết thường là không thể thiếu trong gánh đi chợ Tết của các bà các chị.

Chuyện làng tôi: CUỘC SỐNG TRONG LÀNG XƯA


Chuyện làng tôi - Bài 1:
CUỘC SỐNG TRONG LÀNG XƯA

Làng Phụ Khang (xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội) là một làng thuần nông. Ngoài làm ruộng ra, người làng không có nghề phụ nào đáng kể trong suốt lịch sử từ lúc lập làng. “Cơm cày cá kiếm” là câu cửa miệng của người làng. Sau lũy tre làng, cuộc sống của dân làng cũng gần như khép kín như rặng lũy.

Người dân Phụ Khang canh tác trên những thửa ruộng bậc thang, trông chờ vào những cơn mưa để cấy trồng. Những tràn ruộng thấp sẽ cho lúa hai vụ, những sườn cao trồng đủ loại hoa màu như lạc, đỗ, ngô, khoai, sắn. Đồng Bường là nơi đất tốt, rất phù hợp với trồng khoai, và khoai lang ở cánh đồng này đã đi vào câu tục ngữ khắp vùng biết tới “Nước Giếng Giang, Khoai lang Đồng Bường”.

TIẾNG LÀNG - Nguyễn Xuân Diện

Một ngõ ở Đường Lâm. Ảnh: Kinh tế & Đô thị

Tiếng làng

Nguyễn Xuân Diện

Làng quê là nơi gìn giữ những thuần phong mỹ tục của đất nước và con người Việt Nam. Tiếng làng là một trong những lề thói được bảo lưu qua nhiều đời trong các làng quê.

Dường như mỗi một làng quê đều có cách phát âm riêng của mình. Người ta quen gọi đó là tiếng làng. Người dân quê Việt Nam trân trọng gìn giữ tiếng làng mình như một thuần phong mỹ tục vậy. Và họ thường “đe” nhau: “Chém cha không bằng pha tiếng”. Tiếng làng là tinh hoa chung đúc lại từ tục lệ, cách sống, nếp nghĩ của dân làng. Cũng có người gọi tiếng làng là thổ ngữ. Cách gợi này xem ra còn chưa “chặt chẽ” cho lắm. Căn vặn đến cùng, tiếng làng không thể đồng nhất với thổ ngữ được (thổ ngữ là tiếng nói lưu hành ở một vùng đất nào đó).

Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2022

Đinh Hùng: UỐNG RƯỢU VỚI TẢN ĐÀ




UỐNG RƯỢU VỚI TẢN ĐÀ
Đinh Hùng

Lời dẫn: Trong cuốn Đốt lò hương cũ, tác giả Đinh Hùng kể về một lần uống rượu với Tản Đà, qua đó thấy được sự tinh tế trong ẩm thực của tác giả Thề non nước. Được sự đồng ý của Như Books - đơn vị phát hành sách - chúng tôi trích đăng một phần nội dung sách.

Thứ Sáu, 1 tháng 10, 2021

TRUNG QUỐC ĐÃ TỪNG GIẾT TRƯỞNG ĐOÀN NGOẠI GIAO ĐẠI VIỆT

Ảnh: Đền thờ Giang Văn Minh. Ảnh: internet

Ngày xưa, việc chọn Trưởng đoàn ngoại giao (Chánh sứ) là rất quan trọng, nhất là đi sứ Trung Quốc. Những người được chọn làm Chánh sứ thường là những nhà khoa bảng giỏi văn chương chữ nghĩa và có khí tiết. Tại các cuộc tiếp sứ, các vua Tàu thường ra những vế đối hiểm hóc, và đặt ra các cuộc xướng họa thơ phú với nhiều hàm ý.

Thứ Ba, 20 tháng 4, 2021

Phan Cẩm Thượng: VỀ TẢN VĂN "PHỦ QUỐC" CỦA TÔI



Phan Cẩm Thượng: 
Về tản văn Phủ Quốc 

Gửi Chú Tễu, 

Trước tiên, tôi cảm ơn chú đã đăng đi đăng lại tản văn này của tôi trên Tễu Blog, và nhận được sự chia sẻ của nhiều bè bạn từng sống ở Cấn Hữu, Quốc Oai xưa.


Tôi đến đó lúc 9 tuổi, học lớp ba và bốn, năm 1966, 1967, nên có vài điều nhớ không chính xác, do hoàn toàn là nhớ và kể lại thôi, không có bất cứ một tư liệu nào. Thoạt tiên chị em tôi ở trọ nhà bà Giá, gia đình bà là vợ cả, gần đó cách một cái sân là ông chồng ở cùng với vợ bé. Bà chính là người có bài ca chửi, nguyên văn: Cờ xanh cắm ngõ, cờ đỏ cắm nhà. Bắt lấy tên, biên lấy tuổi. Lên trình Nam Tào, sao Bắc Đẩu. Con gà ở nhà tao là con công, con phượng. Con gà ở nhà mày là con cú con cáo. Nó mổ mắt cả lò nhà mày. Mày vật đống rơm, mày đơm đống rạ, mày ăn cắp gà của bà thì khôn hồn mà thả ra…Thời gian ở nhà bà Giá còn có cả một đơn vị bộ đội thường xuyên tập đánh morse, thông tin vô tuyến.

Tôi học lớp ba ở đình và miếu làng Cấn Thượng. Thầy giáo tên là Lập, bạn học cùng bàn tên là Hy, một trẻ mồ côi nhà nghèo, tôi thường chia bánh quy cho bạn này. Thầy Lập rất tốt tính, yêu thương chúng tôi, nhưng lại chăm tăng gia cái vườn rau ngay cạnh đền, rồi mới dậy học. Sau đó, chị em tôi lại chuyển sang xóm khác trọ ở nhà ông Luyến, con gái là chị Lâm, học cùng lớp với chị tôi, sau lấy chồng ở Ngọc Than. Bà vợ ông Luyến chính là bà già tê thấp thuộc nhiều truyện thơ Nôm, đầu cạo trọc, mặc váy cao như người Mường. Hai ông bà có người con đầu là anh Đĩ Hạnh, từng là du kích trong kháng chiến chống Pháp, bị bắt và tra điện, nên hóa điên. Anh Hạnh bị nhốt suốt ngày trong buồng chái nhà, ăn ỉa luôn ở đó, rất hôi hám, thỉnh thoảng bà mẹ bảo con cởi truồng và điệu ra ao tắm, bà cầm cây gậy để chỉ huy. Ông Luyến còn có một bà vợ hai người miền biển (Thanh Hóa?), sinh ra anh Từ đi bộ đội Hải quân nom rất oai hung. Anh Từ có về thăm Cấn Hữu vài lần nhưng bà mẹ anh thì không từng thấy. Ông Luyến là người dậy tôi đan lát rổ rá, mũ nan cho học sinh sơ tán bện rơm làm mũ rơm. Đầu ngõ có anh Võ, cùng tuổi với anh tôi, từng ra Hà Nội chơi nhà tôi một lần. Gia đình nuôi một đàn vịt, mỗi ngày trứng đẻ đầy sân, nhưng hợp tác xã thu mua sạch, nhà anh mỗi bữa chỉ ăn một quả trứng rang với bát muối, nên chẳng nom thấy tý trứng nào. Sau đó, anh chị tôi ra huyện học, tôi chuyển sang nhà ông Vững cạnh đó ở, ông là người rất nho nhã, có hai đứa con trai trạc tuổi tôi. Câu chuyện cành cây bưởi chính là ở nhà ông Vững.

Lên lớp bốn, tôi học ở làng dưới, có thể là Cấn Hạ, ở đây hầu hết là người họ Sỹ, hai bạn học tên là Sỹ Danh Hòa và Sỹ Thắng Lợi. Thầy giáo dậy toán của tôi tên là Tính, thầy là người dẫn chúng tôi đi thi đấu toán văn trong cả huyện Quốc Oai, lớp học của thầy luôn có nhiều học sinh giỏi.

Tôi thực sự không giỏi cả toán lẫn văn, nhưng rất thích các pho tượng Thần Phật trong đền chùa và hoành phi câu đối chữ Nho, vì rất đẹp, ý thích này, sau dẫn tôi đến với ngành nghiên cứu mỹ thuật cổ Việt Nam. Tôi luôn nghĩ rằng chỉ cần nghiên cứu văn hóa xã Cấn Hữu đã đủ vẽ nên một bức tranh sinh động về văn hóa cổ Việt Nam, ít nhất cũng là một phần.

Mặt khác, thì những gì trải qua cho thấy tình người rất quan trọng, nhất là trong chiến tranh và nghèo đói, đó là phẩm chất tôi thấy được ở làng quê này. 

Phan Cẩm Thượng. 2018