Hiển thị các bài đăng có nhãn Phan Cẩm Thượng. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phan Cẩm Thượng. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 20 tháng 4, 2021

Phan Cẩm Thượng: VỀ TẢN VĂN "PHỦ QUỐC" CỦA TÔI



Phan Cẩm Thượng: 
Về tản văn Phủ Quốc 

Gửi Chú Tễu, 

Trước tiên, tôi cảm ơn chú đã đăng đi đăng lại tản văn này của tôi trên Tễu Blog, và nhận được sự chia sẻ của nhiều bè bạn từng sống ở Cấn Hữu, Quốc Oai xưa.


Tôi đến đó lúc 9 tuổi, học lớp ba và bốn, năm 1966, 1967, nên có vài điều nhớ không chính xác, do hoàn toàn là nhớ và kể lại thôi, không có bất cứ một tư liệu nào. Thoạt tiên chị em tôi ở trọ nhà bà Giá, gia đình bà là vợ cả, gần đó cách một cái sân là ông chồng ở cùng với vợ bé. Bà chính là người có bài ca chửi, nguyên văn: Cờ xanh cắm ngõ, cờ đỏ cắm nhà. Bắt lấy tên, biên lấy tuổi. Lên trình Nam Tào, sao Bắc Đẩu. Con gà ở nhà tao là con công, con phượng. Con gà ở nhà mày là con cú con cáo. Nó mổ mắt cả lò nhà mày. Mày vật đống rơm, mày đơm đống rạ, mày ăn cắp gà của bà thì khôn hồn mà thả ra…Thời gian ở nhà bà Giá còn có cả một đơn vị bộ đội thường xuyên tập đánh morse, thông tin vô tuyến.

Tôi học lớp ba ở đình và miếu làng Cấn Thượng. Thầy giáo tên là Lập, bạn học cùng bàn tên là Hy, một trẻ mồ côi nhà nghèo, tôi thường chia bánh quy cho bạn này. Thầy Lập rất tốt tính, yêu thương chúng tôi, nhưng lại chăm tăng gia cái vườn rau ngay cạnh đền, rồi mới dậy học. Sau đó, chị em tôi lại chuyển sang xóm khác trọ ở nhà ông Luyến, con gái là chị Lâm, học cùng lớp với chị tôi, sau lấy chồng ở Ngọc Than. Bà vợ ông Luyến chính là bà già tê thấp thuộc nhiều truyện thơ Nôm, đầu cạo trọc, mặc váy cao như người Mường. Hai ông bà có người con đầu là anh Đĩ Hạnh, từng là du kích trong kháng chiến chống Pháp, bị bắt và tra điện, nên hóa điên. Anh Hạnh bị nhốt suốt ngày trong buồng chái nhà, ăn ỉa luôn ở đó, rất hôi hám, thỉnh thoảng bà mẹ bảo con cởi truồng và điệu ra ao tắm, bà cầm cây gậy để chỉ huy. Ông Luyến còn có một bà vợ hai người miền biển (Thanh Hóa?), sinh ra anh Từ đi bộ đội Hải quân nom rất oai hung. Anh Từ có về thăm Cấn Hữu vài lần nhưng bà mẹ anh thì không từng thấy. Ông Luyến là người dậy tôi đan lát rổ rá, mũ nan cho học sinh sơ tán bện rơm làm mũ rơm. Đầu ngõ có anh Võ, cùng tuổi với anh tôi, từng ra Hà Nội chơi nhà tôi một lần. Gia đình nuôi một đàn vịt, mỗi ngày trứng đẻ đầy sân, nhưng hợp tác xã thu mua sạch, nhà anh mỗi bữa chỉ ăn một quả trứng rang với bát muối, nên chẳng nom thấy tý trứng nào. Sau đó, anh chị tôi ra huyện học, tôi chuyển sang nhà ông Vững cạnh đó ở, ông là người rất nho nhã, có hai đứa con trai trạc tuổi tôi. Câu chuyện cành cây bưởi chính là ở nhà ông Vững.

Lên lớp bốn, tôi học ở làng dưới, có thể là Cấn Hạ, ở đây hầu hết là người họ Sỹ, hai bạn học tên là Sỹ Danh Hòa và Sỹ Thắng Lợi. Thầy giáo dậy toán của tôi tên là Tính, thầy là người dẫn chúng tôi đi thi đấu toán văn trong cả huyện Quốc Oai, lớp học của thầy luôn có nhiều học sinh giỏi.

Tôi thực sự không giỏi cả toán lẫn văn, nhưng rất thích các pho tượng Thần Phật trong đền chùa và hoành phi câu đối chữ Nho, vì rất đẹp, ý thích này, sau dẫn tôi đến với ngành nghiên cứu mỹ thuật cổ Việt Nam. Tôi luôn nghĩ rằng chỉ cần nghiên cứu văn hóa xã Cấn Hữu đã đủ vẽ nên một bức tranh sinh động về văn hóa cổ Việt Nam, ít nhất cũng là một phần.

Mặt khác, thì những gì trải qua cho thấy tình người rất quan trọng, nhất là trong chiến tranh và nghèo đói, đó là phẩm chất tôi thấy được ở làng quê này. 

Phan Cẩm Thượng. 2018

Thứ Hai, 19 tháng 4, 2021

PHỦ QUỐC


PHỦ QUỐC
 

Phan Cẩm Thượng
 
Tôi sống ở xã Cấn Hữu, Quốc Oai, Hà Tây trong hai năm sơ tán 1966, 1967, trở lại Quốc Oai trong năm 1972 , từ đó thi thoảng đi qua mà thôi. Tôi không hình dung được cảnh vật xưa đã thay đổi như thế nào, chắc chắn nó thay đổi, như biết bao vùng miền mà tôi từng qua, nhưng nơi này giống như quê hương thứ hai, nơi hình thành cái gốc rễ văn hóa cổ trong tôi không bao giờ thay đổi. 

Thứ Ba, 10 tháng 11, 2020

CÁNH ĐỒNG MÙA ĐÔNG - tạp văn của Phan Cẩm Thượng

Cánh đồng mùa đông
- tạp văn của Phan Cẩm Thượng

Lúc ấu thơ, khi còn chưa biết rét là gì, tôi thường đi chơi trên những cánh đồng mùa đông. Lúa tháng mười vừa gặt xong, thửa ruộng cạn chỉ còn những gốc rạ trơ trụi. Từ gốc rạ ấy, những mầm lúa lại mọc lên xanh non, nếu để lâu chúng cũng kết bông trổ hạt, người ta gọi đó là lúa trau, có thể lùa trâu bò xuống ăn. Ngoài đồng, phân trâu bò được đắp thành những đụn tròn cao dần lên trên chừng nửa thước. Phân ủ trong đó rất ấm tỏa ra làn khói mờ. Đi cắt rạ lâu trên đồng, những ngón chân lạnh cóng đến mức không còn cảm giác gì, người ta phải hong chân trên nóc đống phân đó. Vài nhà nông tranh thủ cầy ải. Họ xới đất lật lên thành luống, để cho gió bấc hong khô đất, đợi sang xuân có nước về lùa những luống đất đó tan ra như bùn. Đôi khi người ta dùng vồ đập cho đất vỡ tan trước. Thơ Đỗ Trung Lai có câu rằng: Vài ba thửa ruộng cầy sớm / Đất quằn như vỏ đỗ phơi. Nhiều cánh đồng mùa đông thường bỏ hoang, người ta bảo là cho đất nghỉ. Nhưng nhà nông không dư giả, chẳng trồng lúa thì trồng mầu. Ở huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn, người Nùng Phản Sình thường trồng đỗ tương, thuốc lá và mía trên những dộc ruộng chạy sâu vào khe núi. Trong nhà ai nấy đều có những chum to. Chum thì đựng mật đã kéo, chum đựng thuốc lá mà cúi đầu vào mùi thơm phức, chum thì đựng đỗ tương. Ngay trong thời bao cấp đói kém, nông dân ở đây sống khá sung túc. Ở huyện Yên Dũng, Bắc Giang, mùa đông đồng được trồng bạt ngàn xu hào, có củ to đến hai cân. Xu hào nhiều khi bán rẻ cũng không được vì quá nhiều đành để thối. Mía, rau cải, xu hào, súp lơ, bắt cải… đều là những cây mùa đông cả. Bắp cải cần rét để quấn lá, cùng với súp lơ, xu hào tương truyền giống chúng từ tận phương Tây đưa sang ta, nhưng sang từ lúc nào không ai biết. Người thì bảo rằng hai trăm năm lại đây khi người Pháp mon men sang Đông Dương, người bảo rằng sớm hơn có đến bốn trăm năm, chắc do người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha đưa sang. Ý kiến khác lại cho rằng sớm hơn nữa qua con đường Trung Quốc. Những cánh đồng mùa đông bớt trơ trụi, khi có hoa mầu, mà hoa mầu thì nhiều mầu sắc, vừa đẹp lại vừa tăng thu nhập cho nhà nông. Cánh đồng qua đất Phú Thị, từ Sủi đến Keo, người ta trông rất nhiều hoa cải cúc để ươm giống. Từ đầu đông đến tết , nơi đây rực một mầu vàng hoa cải trải dài vài cây số, hương sắc trong veo. Tiếc rằng vài doanh nghiệp đã cắm đất. Đồng hoa cải bị cắt đoạn và thu hẹp, cảnh tượng cũng không còn biết bao lâu.

Thứ Bảy, 10 tháng 11, 2018

ÔNG PHAN CẨM THƯỢNG LẠI VỪA RA SÁCH


Ông Phan Cẩm Thượng lại vừa ra sách. Cuốn sách có tên là Nghệ thuật ngày thường, in tại Nxb Đà Nẵng, với số lượng 2.000 cuốn. Đây là cuốn sách thứ hai trong bộ sách Nghệ thuật ngày thường. Tập 1 xuất bản và đã bán hết từ lâu rồi. Nay tái bản cuốn 1 và in mới cuốn 2.

Lần trước xuất bản cuốn Văn minh Vật chất của Người Việt (in ở chỗ Nxb Ông Chu Hảo) có làm buổi ra mắt sách ở ĐH Mỹ thuật Hà Nội và vài nơi khác. Lần này thì không. Có nhẽ là vì các nhà tổ chức sợ vỡ trận như lần trước, số lượng người đến đông quá, quá tải.

Thứ Năm, 19 tháng 4, 2018

Phan Cẩm Thượng: VỀ TẢN VĂN "PHỦ QUỐC" CỦA TÔI


Phan Cẩm Thượng: 
Về tản văn Phủ Quốc

Gửi Chú Tễu,

Trước tiên, tôi cảm ơn chú đã đăng đi đăng lại tản văn này của tôi trên Tễu Blog, và nhận được sự chia sẻ của nhiều bè bạn từng sống ở Cấn Hữu, Quốc Oai xưa.


Tôi đến đó lúc 9 tuổi, học lớp ba và bốn, năm 1966, 1967, nên có vài điều nhớ không chính xác, do hoàn toàn là nhớ và kể lại thôi, không có bất cứ một tư liệu nào. Thoạt tiên chị em tôi ở trọ nhà bà Giá, gia đình bà là vợ cả, gần đó cách một cái sân là ông chồng ở cùng với vợ bé. Bà chính là người có bài ca chửi, nguyên văn: Cờ xanh cắm ngõ, cờ đỏ cắm nhà. Bắt lấy tên, biên lấy tuổi. Lên trình Nam Tào, sao Bắc Đẩu. Con gà ở nhà tao là con công, con phượng. Con gà ở nhà mày là con cú con cáo. Nó mổ mắt cả lò nhà mày. Mày vật đống rơm, mày đơm đống rạ, mày ăn cắp gà của bà thì khôn hồn mà thả ra…Thời gian ở nhà bà Giá còn có cả một đơn vị bộ đội thường xuyên tập đánh morse, thông tin vô tuyến.

Thứ Tư, 6 tháng 1, 2016

ÔNG PHAN CẨM THƯỢNG KỂ CHUYỆN MẢI VIẾT SÁCH, MẤT NHÀ

Nếu không viết sách, 
tôi đã có thể có tới ba bốn cái nhà...

Đại Đoàn Kết
Chủ Nhật, 03/01/2016 08:00:00

Theo nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng, trừ đôi lần nhận được hỗ trợ khiêm tốn từ hội Mỹ thuật và Liên hiệp Văn học Nghệ thuật, vài giúp đỡ của bè bạn, tôi tự lo về kinh phí nghiên cứu. Số tiền cứ lặt vặt, nhưng tổng cộng lại rất lớn. Tiền đầu tư cho một cuốn sách có thể xây được một cái nhà. Nếu không viết sách có lẽ tôi có thể có đến ba bốn cái nhà... 


Nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng.

Thường, vào dịp Tết, nhà nghiên cứu sẽ rời Hòa Bình, nơi ông đang sống, làm việc… để về Hà Nội. Muốn gặp Phan Cẩm Thượng, cứ mồng 4 Tết, đi dọc phố ông Đồ (Quốc Tử Giám) sẽ thấy ông đang ngồi viết thư pháp, hay ký họa chơi trong một gian hàng nào đó. Rất nhiều người biết tới ông, với tư cách là một họa sĩ, một nhà nghiên cứu văn hóa dân tộc, phê bình mỹ thuật, nhưng ít ai biết đến cuộc đời vừa tròn Lục thập hoa giáp của tài nhân tuổi Bính Thân này.

Thứ Năm, 17 tháng 12, 2015

Phan Cẩm Thượng: ĐÌNH XỨ ĐOÀI - KIẾN TRÚC VÀ ĐIÊU KHẮC

Cụ Phan Cẩm Thượng (để râu) và các cụ Trần Lâm Biền, Nguyễn Quân 
tại Tọa đàm "Đình làng Xứ Đoài - những điều còn - mất".
.
Lời dẫn của Tễu Blog: Sáng 15/12/2015, tại Bảo tàng Hà Nội, Sở VH - Thể thao Hà Nội, Kênh truyền hình VTC16 và Group Đình Làng Việt đã tổ chức cuộc tọa đàm "Đình làng Xứ Đoài, những điều còn - mất". Có khoảng 100 người tham dự, chủ yếu là các cụ ở nhiều làng xã ngoại thành Hà Nội (chủ yếu khu vực Hà Tây cũ). Về phía lãnh đạo, có Ông Trương Minh Tiến, PGĐ Sở VH -TT Hà Nội, Ông Đặng Văn Bài (nguyên Cục trưởng Cục Di sản), bà Kha Thoa (GĐ Kênh truyền hình VTC 16), cùng các học giả, nhà nghiên cứu: Trần Lâm Biền, Phan Cẩm Thượng, Nguyễn Quân, Nguyễn Đức Bình, Nguyễn Xuân Diện, Nguyễn Hoài Nam, Trần Ngọc Đông...

Thứ Hai, 25 tháng 8, 2014

Phan Cẩm Thượng: TRANG THANH HIỀN - ĐÀN BÀ VƯỢT CẠN

Trang Thanh Hiền - Đàn bà vượt cạn


Phan Cẩm Thượng
Thứ Hai, 25/08/2014 08:01 

1. Tôi được biết Trang Thanh Hiền từng triển lãm với một nữ họa sĩ vào năm 2004. Từ đó đến nay cô không có nhiều thời gian cho việc vẽ, cho đến gần đây năm 2011, mới quay lại với hội họa, niềm yêu thích riêng của mình. Trang Thanh Hiền là người được đào tạo chuyên về lịch sử nghệ thuật tại trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội, nhưng có thể nói tình yêu với sáng tác trở nên rất phố biến với rất nhiều người học lịch sử nghệ thuật, khiến họ muốn học cả hai: vẽ và viết, hoặc vẽ nhiều như là một họa sĩ chính cống. 

Hầu hết những người được đào tạo lịch sử nghệ thuật và phê bình ở Việt Nam đều bỏ nghề, hoặc làm một nghề gì đó trong ngành nghệ thuật, nhưng hầu như không viết hay nghiên cứu gì cả. Đó cũng là đặc điểm của đời sống văn hóa nghệ thuật Việt Nam hiện nay, không có chỗ đứng cho những nhà phê bình và lịch sử nghệ thuật. Không có lương, không có đầu tư nghiên cứu, trừ việc tham gia dạy học.


Trong hoàn cảnh đó, Trang Thanh Hiền cũng đã viết được hai cuốn sách: Hình tượng Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn ở Việt Nam và Cửu phẩm liên hoa trong nghệ thuật Phật giáo Việt Nam - hai cuốn sách chuyên khảo về nghệ thuật Phật giáo Việt Nam, kỹ lưỡng thấu đáo với nguồn tư liệu tin cậy. Tất nhiên, cô có nhiều bài phê bình nghệ thuật hiện tại, lĩnh vực mà cô có vẻ quan tâm nhiều hơn.

Chủ Nhật, 24 tháng 8, 2014

RFA LẦN THEO QUY TRÌNH SƯ TỬ TÀU TRÙNG TRÙNG TIẾN VÀO VIỆT NAM

Sư tử đá Trung Quốc xâm thực văn hóa Việt như thế nào?

Mặc Lâm, biên tập viên RFA  
2014-08-23 

Trong những ngày gần đây nổi lên khá nhiều lo ngại về việc văn hóa Trung Quốc áp đảo đời sống văn hóa Việt Nam và những nhà nghiên cứu văn hóa cho rằng nếu không nhanh chóng khắc phục, thay đổi tư duy lệ thuộc quá nhiều vào nền văn hóa ấy nước Việt không sớm thì muộn sẽ trở nên đồng hóa một cách tự nguyện với nền văn hóa phương Bắc. 

Doanh nghiệp Việt Nam du nhập?  

Lịch sử nhiều lần cho thấy mặc dù dân tộc Việt liên tiếp bị gót chân Trung Hoa dẫm lên nhưng cuối cùng sau khi rút đi phần để lại mảnh đất này chỉ là sự căm phẫn được hun nóng bởi sự ác độc của đoàn quân xâm lược. Những nét văn hóa ngoại lai không thể tồn tại với tình thần tự giác về mối họa Hán hóa. Tâm thức người Việt hình thành phản ứng tự nhiên như một liều thuốc chủng có khả năng chặn giữ sự độc hại của cái gọi là nền văn minh Trung Hoa nhiều ngàn năm về trước.  

Tuy nhiên sau nhiều chục năm cùng chung ý thức hệ với đảng cộng sản Trung Quốc, Việt Nam đã gần như hy sinh mọi thứ để đạt mục đích mà Trung Quốc vẽ ra, kể cả mở cửa du nhập nền văn hóa phương Bắc mà không có lấy một sự chọn lựa hay cảnh giác nào khác như những thế kỷ về trước ông cha đã làm. 

Thứ Sáu, 10 tháng 5, 2013

NHÀ NGHIÊN CỨU PHAN CẨM THƯỢNG LÊN TIẾNG BẢO VỆ LÀNG CỔ ĐƯỜNG LÂM


Có văn hóa để bảo tồn văn hóa
10/05/2013 09:54 (GMT + 7) 
 .
TT - “Vấn đề của Đường Lâm cũng từng xảy ra ở những nơi cả một cụm dân cư được coi là di tích quốc gia, cần được bảo tồn và không được phép đụng đến. Nước nào có di tích kiểu như vậy cũng có vấn đề kiểu như vậy” - nhà nghiên cứu mỹ thuật cổ, họa sĩ Phan Cẩm Thượng chia sẻ với Tuổi Trẻ.
.
Ông nói: “Việc cần giải quyết là cân bằng giữa lợi ích văn hóa và lợi ích dân sinh. Một trong những cái đó là công khai tài chính. Người dân cần biết địa phương họ đã thu nhập như thế nào và số tiền đó được giải quyết như thế nào, nhất là trong hoàn cảnh người ta phải sống trong những căn nhà cổ không thể mở rộng, xoay xở cho hợp với đời sống mới, làm ăn mới. Theo những kinh nghiệm bảo tồn bảo tàng chung ở thế giới, các khu vực này bao giờ cũng được trích phần trăm của thu nhập từ du lịch cho công tác giữ gìn phục chế di tích và được hưởng một chính sách thuế đặc biệt để khuyến khích bảo tồn văn hóa và phát triển văn hóa”.

Chủ Nhật, 3 tháng 2, 2013

ĐỪNG NGHĨ TỔ TIÊN SẼ VUI LÒNG VỚI ĐỒ LỄ LỚN

Nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng:
Đừng nghĩ tổ tiên sẽ vui lòng với đồ lễ lớn

Với người Việt, nghi lễ thờ cúng Táo quân là một tập tục cổ truyền, là một nét đẹp văn hóa tồn tại hàng ngàn đời nay. Hàng năm cứ đến ngày 23 tháng Chạp âm lịch, Táo quân lại cưỡi cá chép về trời để trình báo mọi việc xảy ra trong gia đình hạ giới với Ngọc Hoàng Thượng đế. Nhưng nghi lễ truyền thống ấy nay đang ít nhiều bị biến đổi. Báo Đại Đoàn Kết đã có cuộc trao đổi với nhà nghiên cứu văn hóa Phan Cẩm Thượng xung quanh vấn đề này.

Thưa ông, trong khuôn khổ Hội hoa chợ Tết  tôn vinh làng nghề đang diễn ra tại Hà Nội, năm nay lần đầu tiên Lễ hội ông Công- ông Táo do làng nghề Bát Tràng tổ chức với quy mô hoành tráng (vào đúng ngày 23 tháng Chạp AL). Theo như thông tin công bố thì  biểu tượng "ông đầu rau” sẽ cao 1,2m, cá chép dài 3,5m…Nhiều người đang háo hức đón xem những đồ lễ kỷ lục này. Vậy, dưới con mắt của một nhà nghiên cứu văn hóa, ông có chia sẻ gì không?
- Lần đầu tiên tôi được biết là có lễ hội ông Công ông Táo như vậy, hy vọng đó là hoạt động văn hóa sinh động đúng ý nghĩa của đời sống cổ truyền ở phương Đông. Tuy nhiên, tôi phải xin lỗi là không quan tâm đến các kỷ lục to cao dài, như kiểu bánh chưng to nhất, nhiều người hát Quan họ nhất…Nếu như chúng ta có kỷ lục về nhiều sáng tạo khoa học nhất thì hay bao nhiêu.

Tranh dân gian Táo ông - Táo bà

Bát Tràng là một làng nghề lâu đời làm gốm, nếu nung được hai tác phẩm ông đầu rau và cá chép lớn như vậy thì thật là một thành tựu lớn về gốm sứ. Đó mới thật sự là kỷ lục.

Thứ Tư, 12 tháng 9, 2012

DỰ ÁN BẢO TÀNG LỊCH SỬ QUỐC GIA: NHỮNG DẤU HỎI LỚN

LTS: Từ những góp ý về việc xây dựng bảo tàng Lịch sử quốc gia mà chúng tôi ghi nhận được, xin giới thiệu hai ý kiến có tính đại diện dưới đây. Hai phát biểu có những điểm trái ngược nhau, nhưng chúng tôi xin đăng nguyên vẹn trong tinh thần “để rộng đường dư luận”.
.
Dự án bảo tàng Lịch sử quốc gia: những dấu hỏi lớn

SGTT.VN - Theo tờ trình của bộ Xây dựng, mục tiêu của dự án bảo tàng Lịch sử quốc gia là xây dựng một bảo tàng hiện đại với diện tích lớn, đáp ứng tốt việc lưu giữ, sưu tầm, trưng bày hiện vật; phục vụ nhu cầu tham quan, nghiên cứu, phổ biến tri thức lịch sử, văn hoá, khoa học của đất nước. Với những mục tiêu như vậy, sự ra đời của bảo tàng Lịch sử quốc gia không có lý gì không đáng mừng. Nhưng khi thông tin về công trình này được đăng tải trên một số tờ báo mấy ngày gần đây, dư luận và đặc biệt là giới khoa học tỏ ra lo nhiều hơn vui. Vì sao?
.
Bảo tàng Hà Nội đìu hiu chờ tới năm 2014 mở cửa trở lại. Ảnh: Quốc Dũng

Nhan nhản bài học nhãn tiền

Trao đổi với chúng tôi qua điện thoại, giáo sư – viện sĩ Phan Huy Lê, chủ tịch hội Sử học Việt Nam cho biết ông đã biết về dự án này từ nhiều năm nay, nhưng con số hơn 11.000 tỉ đồng đầu tư và kế hoạch khởi công vào tháng 11 tới theo ông là cần cân nhắc kỹ, bởi: “Tình trạng vừa thừa vừa thiếu của bảo tàng ở Việt Nam hiện nay khiến chúng tôi lo lắm. Con số hàng ngàn tỉ đồng đó liệu có thực sự đem lại những chuyển biến tích cực trong đời sống văn hoá của người dân, hay sẽ tiếp tục là một sự phí phạm?”

Chuyện vừa thừa vừa thiếu của hệ thống bảo tàng tại Việt Nam đã được rất nhiều chuyên gia đặt ra. Với bài học nhãn tiền của bảo tàng Hà Nội, công trình hơn 2.000 tỉ đồng đang tạm đắp chiếu, giới khoa học hy vọng những người có trách nhiệm đã ít nhiều thấm thía. 

Thứ Tư, 29 tháng 8, 2012

Vụ phá chùa Trăm Gian: KHÔNG THỂ SÁM HỐI

Không thể sám hối

SGTT.VN - Câu chuyện chùa Trăm gian bị phá để xây mới làm bàng hoàng không chỉ giới mỹ thuật mà còn cả rất nhiều tầng lớp dân chúng. Có rất nhiều tiếng nói đã cất lên với đủ tâm trạng, cảm xúc khác nhau. Sài Gòn Tiếp Thị xin được chia sẻ cùng bạn đọc ý kiến của hai nhà văn hoá quan tâm đến lĩnh vực bảo tồn di sản dân tộc, đặc biệt là di sản mỹ thuật cổ.

Chùa Trăm gian tên chữ là Quảng Nghiêm tự, nằm trên một quả đồi cao khoảng 50m, ở thôn Tiên Lữ, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, Hà Nội. Chùa được lập từ đời Lý Cao Tông, năm 1185. Đây là một công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật cao, được xếp hạng di tích quốc gia từ hơn 40 năm qua. Ảnh: TL 

Nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng: 
Không được sửa chữa di tích mỹ thuật cổ

Hiện nay đang tồn tại hiện tượng hầu hết các di sản văn hoá nghệ thuật trong lĩnh vực đền chùa, về mặt quản lý thì của chính quyền, nhưng ăn ở, gìn giữ và tổ chức các nghi lễ tôn giáo lại là các giáo sĩ.

Trước kia, thời phong kiến, cũng có hiện tượng này. Tuy nhiên nhà vua ra sắc lệnh rất rõ ràng: những di tích tôn giáo có tính mỹ thuật cổ đều phải do triều đình giao trách nhiệm quan lại địa phương chăm sóc và tu bổ khi có hư hại. Các nhà sư chỉ được ở nhờ và có nhiệm vụ chăm sóc, giữ gìn cho tốt chứ không được phép tu sửa bất cứ thứ gì. 

Thực ra đây cũng từng là vấn đề của các nước chứ không chỉ Việt Nam. Nhưng ở những nước khác, các nhà tu hành chỉ được phép hoạt động tôn giáo ở những ngôi chùa mà chính quyền cho phép. Còn với một số di tích chỉ có thể gìn giữ ở dạng bảo tàng chứ không thể sử dụng, họ sẽ xây một công trình bên cạnh cho các nhà sư ở và tiếp tục hoạt động tôn giáo trong cùng một không gian, nhưng không xâm hại di tích.

Theo tôi, để tình trạng hiện nay của nước ta được giải quyết, chúng ta cần có cam kết với các hoạt động tôn giáo: đã là di sản lịch sử thì dứt khoát không được sơn phết hay thay đổi bất kỳ một dấu vết gì, dù là nhỏ nhất. Mặt khác, chúng ta cần có những hoạ sĩ mỹ thuật cùng tham gia bảo tồn những di tích có tuổi đời cao để bảo đảm cho những công trình mỹ thuật cổ được tồn tại.

Ngoài ra, đây là lúc cần có một cuộc nói chuyện giữa những nhà hoạt động tôn giáo và chính quyền để thống nhất với nhau phương pháp quản lý.

Có lẽ tôi cần phải nhắc thêm một vấn đề nữa: chính mặt trái của việc xã hội hoá trùng tu cũng là nguyên nhân của sự xuống cấp các di sản, khi mà có quá nhiều đơn vị tham gia vào quá trình tu sửa này mà không thể thống nhất với nhau.

Hoạ sĩ Lê Thiết Cương: 
Nhân danh trùng tu để phá hoại di sản 

Nguyên nhân cốt lõi của vấn đề nhân danh trùng tu để phá hoại di sản là vô trách nhiệm và thiếu ý thức. 

Thứ nhất là sự vô trách nhiệm của tất cả các cơ quan chức năng từ cấp cơ sở, xã huyện có di sản đến cấp trung ương.

Nguyên nhân thứ hai là kém hiểu biết. Chùa Trăm gian là di tích cấp quốc gia, có nghĩa rằng những người trụ trì thay mặt mấy chục triệu dân Việt trông coi ngôi chùa chứ không phải là chủ. Ngoài ra, các vị trụ trì có thể tinh thông Phật pháp nhưng điều đó không có nghĩa họ có đủ kiến thức về lịch sử, mỹ thuật, tri thức khoa học vể bảo tồn, phục chế di tích. Họ không nên nhập nhằng giữa quyền lực của giáo hội Phật giáo với những quy định của luật pháp hiện hành, cụ thể là luật Di sản. Thay một viên đá của bậc thang dẫn lên chùa nếu không được phép của cơ quan chức năng đã là phạm pháp. Thật là ấu trĩ khi cho rằng, vì không dùng ngân sách nhà nước để trùng tu chùa mà hoàn toàn là tiền cúng dường của phật tử nên không cần xin phép Nhà nước.

Chính vì không hiểu biết về mỹ thuật cổ, mỹ thuật Phật giáo, mỹ thuật đời Lý, tức là không thể thấy được vẻ đẹp của di tích chùa Trăm gian nên họ mới phá đi để làm lại. Họ mù quáng khi cho rằng cổ, cũ là xấu, chỉ có hiện đại với các lớp màu mè trát son mới là đẹp. 

Đình chùa đền miếu là nơi tích tụ những giá trị văn minh cả vật chất lẫn tinh thần của người Việt. Lịch sử ở đó, truyền thống ở đó. Những người được Nhà nước giao trọng trách bảo vệ di sản thì vô trách nhiệm, và điều này cũng góp phần phá hoại di sản văn hoá nước nhà một cách trầm trọng hơn, thậm chí là bài bản hơn.

Mất của cải thì vẫn có thể làm lại của cải. Nhưng mất một ngôi chùa thì vĩnh viễn mất đi một di sản văn hoá, không thể sám hối.

Đã đến lúc phải mượn chuông, mã, khánh của chính nhà chùa để gióng lên hiệu lệnh báo động rằng lương tri của toàn xã hội đang bị thách thức. 

N. H (ghi)
Nguồn: SGTT.

Thứ Ba, 3 tháng 1, 2012

VĂN HÓA - THAY ĐỔI BẮT ĐẦU TỪ NHỮNG CÁ NHÂN

Văn hóa - thay đổi bắt đầu từ những cá nhân

TTCT - Văn hóa bị bỏ quên, bị xuống cấp nghiêm trọng trong thời buổi kim tiền? Vì sao sự dửng dưng, vô cảm nhiều thế trong đời sống thường nhật và cái ác hiện diện ở ngay những nơi ít ngờ nhất? 

TTCT gặp nhà văn Nguyên Ngọc, nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng, tiến sĩ Nguyễn Thị Hậu (Viện Nghiên cứu phát triển TP.HCM) và PGS.TS Trần Hữu Quang (Viện Khoa học xã hội Việt Nam) để ghi lại góc nhìn của họ về câu chuyện văn hóa của năm qua.

Mỗi cá nhân có ý thức văn hóa và hành xử có văn hóa sẽ tự ngăn chặn sự tha hóa và góp phần cải biến xã hội - Ảnh: Thuận Thắng

Cần xây dựng lại một nền đạo đức tự trị

* Khi nhìn vào câu chuyện văn hóa hiện nay, ông/bà thấy điều gì đáng lo, điều gì cần được ghi nhận? 

- PGS.TS Trần Hữu Quang: Trong năm qua, báo chí trong nước đã đăng tải khá nhiều sự kiện bất bình thường như: vợ tẩm xăng đốt chồng, con nhốt cha trong cũi, đánh chết người trộm chó, bắt cóc và tra tấn để đòi nợ, giảng viên luật bị truy tố vì chạy án... Có thể nói, đấy là những dấu hiệu tuy ít về số lượng nhưng đã bộc lộ một tình trạng rạn nứt đáng báo động trong sự vận hành của những tế bào cơ bản của xã hội. 

Người ta không thể không tự hỏi rằng tại sao những mối quan hệ giữa vợ với chồng, mẹ với con... lại có thể đi đến chỗ quái lạ và kỳ dị như vậy, tại sao người ta không giải quyết xung đột bằng cách viện nhờ đến những định chế chính thức như công an hay tòa án, tại sao nhiều ứng xử của người dân lại bất chấp cả chuẩn mực đạo lý lẫn chuẩn mực pháp lý đến thế... Đấy hẳn nhiên không phải chỉ là câu chuyện của một năm qua, mà là hệ quả sự vận hành của xã hội suốt vài thập niên qua. 

- TS Nguyễn Thị Hậu: Tôi thấy một đời sống văn hóa không thiếu các hoạt động, sôi nổi như thể không có (và chẳng phản ánh) tình trạng lạm phát cao và đời sống ngày càng khó khăn. Tiếc là ngay trong quản lý hoạt động văn hóa lại để xảy ra nhiều sự cố “kém văn hóa”, từ vụ mất vài chục tỉ đồng của Cục Điện ảnh, kiện cáo trong việc xét chọn giải thưởng cao, tai tiếng trong các cuộc thi người đẹp, cử đại sứ du lịch..., báo chí - nhất là báo mạng - tràn ngập “thảm họa” trong sinh hoạt nghệ thuật... 

Tất cả sự việc ấy đều cho thấy cách thức quản lý chưa thay đổi đủ để phù hợp với thực trạng mới của đời sống văn hóa trong một môi trường xã hội phức tạp mà chủ thể của những hoạt động văn hóa cũng ngày càng đa dạng. Và như nhiều năm trước, sự trông đợi một thành tựu “văn hóa đỉnh cao” trong các lĩnh vực trên vẫn còn xa vời... 

Nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng - Ảnh: Nguyễn Anh Tuấn

- Nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng: Bất cứ ai sống ở Việt Nam đều có chút lo ngại về một đời sống văn hóa đang có chiều hướng đi xuống. Hệ quả của nó là ứng xử nhân luân trong xã hội có nhiều vấn đề như tai nạn giao thông, nạn tắc đường, nạn tham nhũng và những tệ nạn dã man chưa từng có trong đời sống của người Việt. Dường như tất cả cái đó có quan hệ lẫn nhau trong sự thiếu hiểu biết về mặt trái của nền kinh tế thị trường, của đời sống dân chủ chưa được nâng cao.

Xét riêng trong văn nghệ, có thể nói các ngành nghệ thuật đều tích cực tìm đường đi để vừa có sáng tạo vừa có thị trường, dù hai mặt đó không phải lúc nào cũng trùng hợp. Chúng ta vẫn thừa các tượng đài tốn kém, các bộ phim bạc tỉ, sau đó lại “đắp chiếu”. Điện ảnh Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc vẫn chiếm thời lượng lớn với một thứ văn hóa xa lạ và những chuyện tình vớ vẩn nhằm quảng cáo hàng hóa. Giữa những nghệ sĩ trẻ và già có những khoảng cách khó thông cảm. Bảo tàng nghệ thuật hiện đại vẫn chưa có và nghệ thuật vẫn luôn phân rẽ bởi các hoạt động bao cấp kém chất lượng, những hoạt động ngoài luồng lôi kéo rất nhiều nghệ sĩ trẻ. 

Về cái ác và một cuộc nhìn lại bản thể

“Cần thẳng thắn nhìn lại coi có phải nền đạo đức xã hội ở Việt Nam đang có nguy cơ (hay đã) băng hoại, vì đã quá chú trọng những mục tiêu ngoại trị mà bỏ quên yêu cầu xây dựng một nền đạo đức tự trị hay không. Và để có thể làm điều này thì không phải chỉ cần xem xét lại triết lý giáo dục trong nhà trường và gia đình, mà còn phải cải tổ cả ở quy mô rộng lớn hơn đối với triết lý xã hội, hay nói chính xác hơn là triết lý quản lý xã hội. Theo thiển ý của tôi, có làm như vậy may ra mới có thể kiến tạo được nội lực thật sự của quốc gia. “Nội lực” hiểu theo nghĩa nguyên thủy và sâu xa của từ này là một cộng đồng những chủ thể luân lý trưởng thành và tự giác”.
PGS.TS TRẦN HỮU QUANG
* Nếu chỉ nhìn vào tin tức đăng tải trên truyền thông thì dễ thấy cái ác và sự đổ lỗi cho những cá nhân ác. Nhưng sự tha hóa của con người liệu có thể bắt đầu từ việc vượt đèn đỏ, ngồi vào chỗ của người khuyết tật trên xe buýt hay bạt tai một đứa trẻ? 

- PGS.TS Trần Hữu Quang: Khi người ta không còn dám trung thực thì theo tôi, đó chính là dấu hiệu ban đầu của sự tha hóa hay sự vong thân - một thuật ngữ được dùng để diễn đạt khái niệm alienation trong triết học. Một cách đơn giản, có thể hiểu sự tha hóa hay vong thân là tình trạng đánh mất mình, biến thành cái gì khác, không còn là mình nữa. Ở đây, chữ “mình” không được hiểu theo nghĩa là tư cách cá nhân, mà là tư cách của một con người với đầy đủ tự do và ý chí.

Tôi nghĩ sự tha hóa không bắt đầu từ việc vượt đèn đỏ hay ngồi vào chỗ của người khuyết tật trên xe buýt, nhưng sự rạn nứt của luật pháp và sự suy thoái đạo đức đúng là có thể khởi sự từ những chuyện tưởng chừng nhỏ nhặt như vậy. Lâu nay, một số người hay lên tiếng cổ xúy cho những mục tiêu lớn lao của thời đại, những câu chuyện đại sự của quốc gia và dân tộc. Đấy quả là những điều cần kíp và thích đáng. Nhưng tôi nghĩ rằng điều cấp thiết không kém là cần bắt đầu thúc đẩy sự thay đổi từ những chuyện nhỏ, từ cá nhân và nhất là bắt đầu từ nội tâm mỗi con người. 

Từ những chuyện như không đi ngược chiều hay vượt đèn đỏ (như các cháu mẫu giáo vẫn đang phải học!), lượm một mẩu rác dưới chân, khóa một vòi nước đang chảy phí phạm, biết chào hỏi, cảm ơn và xin lỗi vào những lúc cần thiết... Tuy ai cũng biết nhưng dường như người ta dễ quên rằng hễ không làm được chuyện nhỏ thì khó lòng làm nên chuyện lớn. Coi chừng có khi chính những khẩu hiệu đại ngôn dễ khiến người ta xem thường và bỏ qua những phẩm chất đạo lý nền tảng của bất cứ cuộc sống xã hội nào. Do vậy có khi đấy cũng là một trong những căn nguyên của tình trạng tha hóa hay vong thân.

TS Nguyễn Thị Hậu - Ảnh: Gia Tiến
Mỗi cá nhân có “ý thức văn hóa” và thể hiện ý thức thành hành xử (có) văn hóa là tự ngăn chặn sự tha hóa và “cải biến” chính mình

- TS Nguyễn Thị Hậu: Cái ác bắt đầu rất đơn giản, có khi chỉ từ một lời nói nhục mạ, từ sự dửng dưng trước tai nạn của người khác, trước bất công... chứ không đợi đến một hành vi phạm pháp hay vô đạo đức. 

Mỗi ngày chỉ cần lướt qua vài trang báo là có thể thấy vô số tin “tức” về bạo lực mà nguyên nhân nào có gì to tát. Không thể không tự hỏi: vì sao trong xã hội bây giờ người ta nhục mạ nhau, đánh nhau, giết nhau... dễ dàng đến thế? Vì hầu như ai cũng ngại, không muốn can thiệp vào những việc trái tai gai mắt, “chủ nghĩa mackeno” làm mọi giá trị đảo lộn, tốt xấu không còn phân biệt, con người trở nên dửng dưng với cái xấu, dửng dưng cả với lẽ phải, với sự thật! Ý thức cộng đồng đang băng hoại từ sự dửng dưng như thế! 

Trong đời sống xã hội hiện nay, tình trạng khủng hoảng niềm tin vào điều thiện như những con sóng ngầm mà những hành xử vô văn hóa chỉ là bề nổi. Mất lòng tin vì một đời sống mà những ứng xử lệch chuẩn dần trở thành bình thường. Không phải vì giá trị của những hành vi này thay đổi, mà vì chúng không được xã hội điều chỉnh đúng theo giá trị văn hóa chuẩn mực.

Nhận thức được cái xấu, cái ác như thế thì việc bắt đầu là không làm điều xấu, điều ác dù là nhỏ nhất. Mỗi hành xử tốt là loại bỏ được một nguy cơ cái ác xuất hiện. Đồng thời đứng trước cái ác, cái xấu chỉ có một chọn lựa là đoàn kết chống lại nó. Một người chống lại cái xấu cần nhiều người ủng hộ và làm theo. 

Mặt khác, xã hội phải tạo điều kiện (như luật pháp, các quy định chế tài...) để ngăn chặn cái xấu, lên án những hành vi vô văn hóa, để ý thức văn hóa phát triển và hành xử (có) văn hóa trở nên phổ biến trong xã hội. 

- Nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng: Trong chiến tranh, người chết, máu chảy đầu rơi hằng ngày, nhưng có thể nói con người Việt Nam luôn hướng thiện, luôn mong bình yên và hòa hợp. Sau hòa bình, một cuộc chiến khác nảy sinh và lần này hình như sự khoan nhượng biến mất. Đó là cuộc chiến việc làm, đất đai, nguồn vốn, lợi nhuận..., sự tranh giành thấy hằng ngày, cụ thể là chiếm đường đi bằng được trong giao thông bất kể đèn tín hiệu. 

Cuộc chiến vì lợi nhuận này chính là biểu hiện sâu sắc của cái ác đang bị đơn giản hóa, đang được coi là bình thường. Ví dụ như nông dân phun thuốc trừ sâu đậm đặc vào rau, hằng ngày cho gia súc ăn thức ăn tăng trọng, dùng chất bảo quản độc hại đưa vào thực phẩm... là những việc nhỏ, hằng ngày và thật sự giết dần giết mòn sức sống của dân tộc. Lớn hơn là người ta biến hàng ngàn thước đất bờ xôi ruộng mật thành nhà máy, sân golf mà thật sự chẳng vì phát triển kinh tế. Từ đứa trẻ đi mẫu giáo đến người lớn đi làm, ai nấy cũng phải tham gia ít nhiều vào cơ chế phong bì... 

Tất cả cái đó nếu gọi là cái ác thì hơi quá nhưng làm bất ổn xã hội lâu dài, làm rối loạn nền kinh tế và đạo đức không biết bao giờ mới chữa lại được. Chúng ta phải suy nghĩ điều này: tệ nạn, thiện ác thì bất cứ xã hội nào cũng có, nhưng những xã hội lành mạnh, phát triển thì cái ác và tệ nạn được kiểm soát. 

Nếu tệ nạn là hậu quả mặt trái của nền kinh tế thị trường thì không thể chỉ khuyến thiện bằng giáo dục hay tôn giáo mà được. Cái đó chỉ có thể giải quyết bằng sự điều chỉnh vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế, sao cho nó đi trong sự cạnh tranh lành mạnh, theo luật pháp. Nếu những chủ thể kinh tế và địa phương cứ hành động tự do theo quyền lợi cục bộ của mình, sự tha hóa có khả năng kiếm lời không ai từ bỏ. Đương nhiên, chẳng hạn như Phật giáo với sự giáo hóa về nhân quả có thể hạn chế những hành vi quá khích. 

Nụ cười của anh thợ hồ Nguyễn Vũ Trường Giang, người đã lao ra dòng sông Sài Gòn cứu sống cô gái nhảy cầu Thủ Thiêm tự tử. Một cộng đồng lành mạnh và khỏe khoắn bắt đầu từ những cá nhân tử tế và nhân bản - Ảnh: Minh Đức

* Nhiều người cho rằng điều quan trọng trong giáo dục hiện nay là trang bị cho mỗi người bản lĩnh, nhận thức về cái ác, cách đối phó đúng với cái ác, để gặp ác mà không thành ác. Để có được bản lĩnh này, chúng ta phải bắt đầu từ đâu? Chúng ta có cần một cuộc nghiêm khắc và trung thực xét lại văn hóa dân tộc để bảo tồn và xây dựng lại những giá trị phù hợp, thải loại những thứ đã hỏng hóc để có một nền văn hóa Việt Nam thực thụ và độc đáo - nền tảng để nước Việt mạnh hơn, người Việt được nể trọng hơn? Và nếu cần thì chúng ta phải bắt đầu từ đâu?

- PGS.TS Trần Hữu Quang: Nhà triết học Đức Immanuel Kant (1724-1804) từng cho rằng cần thiết lập một nền đạo đức thực thụ trên nền tảng của nguyên tắc tự trị (Autonomie), chứ không thể dựa trên sự ngoại trị (Heteronomie) (1). Kant phê phán lý thuyết đạo đức học công lợi (utilitarianism) và nhiều lý thuyết đạo đức học khác, vì ông cho rằng chúng đã ngoại tại hóa nền tảng của đạo đức bằng cách quan niệm rằng đạo đức phải nhắm tới lợi ích hay hạnh phúc của cộng đồng và xã hội. 

Theo Kant, “luân lý là tổng thể những quy luật ra mệnh lệnh vô điều kiện để ta phải hành động theo chúng”. Đạo đức học tự trị là “một đạo đức học của lý tính”, nghĩa là các mệnh lệnh đạo đức phải bắt nguồn từ lý tính (tự mỗi chủ thể phải “ban bố” quy luật đạo đức cho chính mình), chứ không phải là những quy luật bắt nguồn từ kinh nghiệm, vì kinh nghiệm thì không thể mang tính phổ quát và tất yếu, do đó không thể lấy kết quả hay sự thành công làm tiêu chuẩn hay thước đo của đạo đức. 

Mệnh lệnh nhất quyết (kategorischer Imperativ), theo Kant, là cái mà ta phải làm do lý tính buộc chúng ta phải làm (vì thấy điều phải làm là đúng, là thiện), chứ không phải vì bất cứ lý do hay động cơ, hoặc mục tiêu lợi ích nào đó nằm ở bên ngoài lý tính. Cần lưu ý thêm rằng Kant không phủ nhận yếu tố kết quả của hành động, nhưng ông không coi đấy là nền tảng của hành vi đạo đức.

Tôi nghĩ rằng tư tưởng của Kant về nền tảng của một nền đạo đức thực thụ, đặc biệt sự phân biệt giữa nguyên tắc ngoại trị và nguyên tắc tự trị, là hết sức quan trọng và cần được chúng ta đọc lại như một cái khung lý thuyết để phân tích những vấn nạn nóng bỏng của xã hội bây giờ như bệnh thành tích, thói chuộng hư danh, tệ giả dối, óc thực dụng, tệ cẩu thả (thiếu lương tâm chức nghiệp), sự nghèo nàn và trống rỗng trong đời sống tinh thần... nhằm từ đó đi tìm gốc rễ của những câu chuyện “đáng lo ngại” đang xâm thực xã hội chúng ta. 

- TS Nguyễn Thị Hậu: Nhiều người trong chúng ta bây giờ không còn tự hào “mình nghèo mà giỏi”, ngược lại luôn tự hỏi “sao mình giỏi mà nghèo?”. Cũng như không chỉ ca ngợi những truyền thống tốt đẹp mà còn biết trăn trở “vì sao truyền thống của mình tốt đẹp mà bây giờ lại tha hóa như vậy?”. 

Tôi cho rằng có lẽ cần phải nhìn nhận thấu đáo hơn về những đặc điểm tạo thành “tính cách văn hóa” của con người và truyền thống dân tộc mình. Cần biết mình rõ hơn, thật hơn, vì không biết mình đầu tiên là làm khổ chính mình, sau đó sẽ cản trở làm mình “không biết người”, dẫn đến luôn thua kém người. Nên chăng bắt đầu từ việc vạch ra những gì làm chúng ta chưa thật sự tốt đẹp?

- Nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng: Nói đến sự hùng cường là mơ hồ quá khi chúng ta vay nợ nhiều, lạm phát, thiếu việc làm trầm trọng. Để phát triển đất nước không chỉ là tăng trưởng kinh tế bằng mọi cách, mà phải đi song hành giữa kinh tế và văn hóa. Bản thân văn hóa trong một xã hội phát triển cũng có khả năng tạo ra kinh tế, là một phần của hoạt động kinh tế. Thị trường văn hóa càng lớn tức là xã hội càng phát triển, thay thế những ngành công nghiệp ô nhiễm bằng công nghiệp phim ảnh, thể thao, nghệ thuật.

Tôi nghĩ cơ chế kiểm duyệt hoạt động văn hóa nghệ thuật phải xem xét lại, làm sao thúc đẩy hoạt động văn hóa tiến nhanh vào cơ chế thị trường. Giai đoạn đầu phải ưu tiên cho nó phát triển, phải khuyến khích các doanh nghiệp tham gia đầu tư vào văn hóa.

* Theo ông, vì sao chúng ta ngày càng thấy nhiều hơn những biểu hiện khác nhau cho một tâm trạng xã hội có phần tránh né, chấp nhận giả dối, thiếu vắng những cuộc nói thẳng nói thật có tính cải biến xã hội?
PGS.TS Trần Hữu Quang - Ảnh: Cẩm Phan

- PGS.TS Trần Hữu Quang: Khi mà người ta chứng kiến ngày càng nhiều chuyện bất bình thường trở thành bình thường (như tệ phong bì, đút lót, mãi lộ...), khi mà cái xấu, cái tiêu cực và cái ác ngày càng lan tràn, điều khó tránh khỏi là người ta cảm thấy băn khoăn và hoang mang (ít ra vào lúc đầu), để rồi sau đó khi buộc lòng phải “sống chung” với nó (vì muốn cưỡng lại cũng không được) và riết rồi người ta đâm ra quen với nó. 

Nguy cơ cần suy ngẫm ở đây là nguy cơ bình thường hóa cái bất thường, không chỉ về mặt cấu trúc xã hội mà cả về mặt chủ quan nơi tâm thức cá nhân người dân và kể cả (hay nhất là) nơi cá nhân công chức. Sống trong tình trạng này, nhiều người có thể căm ghét nó, rồi do quá mệt mỏi với nó nên đâm ra bàng quan với nó, nhưng cũng có những kẻ tận dụng sự tranh tối tranh sáng ấy để thủ lợi, kẻ thì chủ động, kẻ thì thôi đành nhắm mắt đưa chân... Điều nghịch lý là chính kẻ vi phạm lại thu được nhiều lợi hơn, còn người ngay thường thua thiệt...

Tại sao người ta lại có thái độ tránh né, chấp nhận sự giả dối, không dám nói thẳng nói thật? Nhìn bề ngoài, dễ lý giải đó là do cái tiêu cực, cái bất bình thường và cái xấu đã trở nên phổ biến. Nhưng nhìn sâu vào nội tâm mỗi người, đó là do tình trạng suy thoái đạo đức và xói mòn luật pháp dẫn tới hệ quả hoài nghi cả các giá trị đạo đức xã hội lẫn các chuẩn mực pháp lý. 

Khi người ta không còn tin thì nói thật để làm gì? Cái nguy ở đây là sự giả dối nói riêng và những nghịch lý nói chung được mọi người coi là bình thường, “chuyện nhỏ như con thỏ”! Hậu quả nghiêm trọng của tâm trạng hoài nghi xã hội, xét về mặt xã hội học, đó là xói mòn cả lòng tin đối với người khác, lòng tin vào xã hội và nhất là lòng tin vào chính mình.

PHAN XUÂN LOAN - CẨM PHAN thực hiện
__________
(1) Xem Immanuel Kant, Phê phán lý tính thực hành (Đạo đức học) (1788), Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải, Hà Nội, Nxb Tri Thức, 2007.
__________
Cần một cuộc tự vấn

Cái được nhất về văn hóa và xã hội trong năm qua của chúng ta đã đến vào gần cuối năm: ba học sinh lớp 11, tức khoảng 15 hay 16 tuổi, ở Quảng Ngãi hi sinh thân mình cứu bạn bị lũ cuốn trôi. Cũng ở Quảng Ngãi, một học sinh lớp 7 vì xả thân cứu người trong lũ nay bị chấn thương nặng, chỉ còn sống cuộc đời thực vật.

Gần đây, trong vụ chìm phà bi thảm ở huyện Núi Thành, Quảng Nam, liều chết cứu người là hai em nhỏ, một em học lớp 10, em thứ hai sinh năm 1989... Không quá lời đâu khi nói các em không chỉ cứu những người bị dòng nước hung dữ nhấn chìm mà còn cứu chúng ta, vực chúng ta dậy khi chúng ta đã, đang có rất nhiều bi quan về xã hội và con người.

Nhà văn Nguyên Ngọc - Ảnh: Thuận Thắng

Chuyện hai chiếc xe thản nhiên cán qua người một em bé, rồi hơn chục người lớn thuộc đủ thành phần xã hội dửng dưng đi qua dù xảy ra ở bên Trung Quốc nhưng thôi thì nên nói thật đi, ở ta, trong những mức độ khác nhau, không thiếu những chuyện tương tự... May thay, cái “lì” đó còn chưa kịp lan đến phần nhiều trẻ em (không biết có ai để ý điều này không: các em vừa kể trên hầu hết đều ở những vùng có thể gọi là vùng sâu vùng xa về cái gọi là văn hóa).

Vậy có một câu hỏi tiếp: Cái “lì” kia là thế nào và vì sao? Đấy là một trạng thái chán chường sâu sắc và mênh mông về đạo đức xâm chiếm mọi con người. Bởi càng ngày người ta càng thấy vây kín quanh mình, ở bất cứ đâu, trong bất cứ chuyện gì, va vào đâu cũng gặp một thứ, theo mọi kiểu, trắng trợn hay tinh vi: giả dối. 

Tôi cho rằng căn bệnh nặng nhất, chí tử nhất, toàn diện nhất của xã hội ta hiện nay là bệnh giả dối. Chính cái giả dối tràn lan khiến người ta không còn thật sự tin vào bất cứ điều gì nữa. Câu hỏi thường trực bây giờ: Tốt để làm gì? Sạch để làm gì? Quên mình để làm gì? Xả thân chống lại cái xấu, cái giả để làm gì? Liệu rồi có ai, có cơ chế nào bảo vệ những nỗ lực đạo đức đó không? Hay thậm chí bị cả cơ chế quật đánh lại như vẫn thấy không hề ít? 

Trẻ em, một bộ phận trẻ em, may thay còn chưa biết đặt ra những câu hỏi như vậy. Đạo đức trước hết là một trạng thái vô tư. Mà người lớn thì không còn có thể vô tư được. 

Vậy lúc này ở cấp độ cá nhân, dù một cách cô đơn, cũng phải dám tự mình cưỡng lại cái “lì” kia, với một niềm tin rằng giả dối không phải là trạng thái tự nhiên của xã hội và con người. Còn ở cấp độ vĩ mô cần một sự phản tư toàn diện và thẳng thắn, cố gắng triệt để. Cách đây mười mấy năm, tôi có lần nói về yêu cầu tự vấn, của xã hội và của dân tộc. Hôm nay TTCT nói đến yêu cầu “nghiêm túc xét lại văn hóa dân tộc”, tức một cuộc tự vấn về xa tận đâu đó trong đường dài lịch sử dân tộc, “bản thể” của nó.

Tôi cũng đồng ý cần có một cuộc trở về nghiêm túc, đến nơi đến chốn như vậy. Dân tộc bên cạnh những điều mãi mãi đáng tự hào quả cũng có những nhược điểm, hình thành lâu dài trong lịch sử, cần được nhìn thẳng. Song tôi cũng không quá bi quan về dân tộc.
NGUYÊN NGỌC
Nguồn: Tuổi Trẻ.

Thứ Ba, 7 tháng 6, 2011

ÔNG PHAN CẨM THƯỢNG KỂ CHUYỆN VIẾT SÁCH

Thưa chư vị,

Vậy là trải bao nhiêu ngày - tháng  - hạ  - thu - đông, ròng rã chờ mong cuốn sách của Ông Phan Cẩm Thượng về sự văn minh của người Việt, đến bây giờ đã thấy đây! Cuốn sách đã được lưu hành trên khắp cả nước.

Cuốn sách dày dặn, in ấn đẹp và tinh tế với cả ngàn hình ảnh minh họa rất tỷ mỉ và đẹp, phần lớn là do tác giả Phan Cẩm Thượng vẽ. Đây là cuốn sách đầu tiên về văn minh người Việt được minh họa cụ thể như vậy. Cuốn sách được viết với một lối văn riêng đầy hấp dẫn, dẫn dụ người đọc đi về quá khứ xa xăm của dân tộc, ở đấy nhiều khoảng trống về nhận thức cần được lấp đầy, nhiều khoảng tối cần được soi rọi. Phan Cẩm Thượng cứ thế nhẩn nha trò chuyện, lôi kéo người đọc. Đọc cuốn sách, người ta cảm nhận được rằng, Phan tiên sinh đã "thổ tận can tràng" trong từng con chữ, đã viết cuốn sách (với hai chục năm chuẩn bị) với tất cả hiểu biết, trải nghiệm và tình yêu của mình đối với đất nước ông bà rất cụ thể, độc đáo. Nhiều đoạn, tác giả khiến người đọc bâng khuâng và rưng rưng trong niềm hoài niệm về một nước Việt cổ xưa. Đó đây là cái nhìn đầy hóm hỉnh, trêu cợt của một lữ khách từng trải...

Lâm Khang tôi thiển nghĩ, mỗi gia đình, mỗi trường học nên có một cuốn sách này. Đây là cuốn sách không để đọc trong chốc nhát mà phải đọc trong cả cuộc đời. Đọc rồi, truyền lại cho con cháu đọc.

Hân hoan chúc mừng ông Phan Cẩm Thượng và cảm ơn ông đã trao cuốn sách quý cho tất cả chúng ta!  

Tôi viết cuốn Văn minh vật chất của người Việt

PhanCẩm Thượng

Hoạ sỹ Paul Gauguin trong một tácphẩm vẽ ở Tahiti có lấy chủ đề: Chúng ta làai? Chúng ta từ đâu ra? Chúng ta đi về đâu?. Đó là những câu hỏi lớn mà bất cứdân tộc nào, cá nhân nào cũng phải tự hỏi và tự giải đáp cho mình. Viết vànghiên cứu lịch sử là cách lý giải những câu hỏi đó, tuy nhiên người ta đã quanniệm lịch sử rất hẹp hòi, như là lịch sử chính trị, lịch sử chiến trận hay lịchsử của các triều đại thống trị, mà quên mất con người đã từng tồn tại bằng rấtnhiều phương diện khác. Lịch sử nghệ thuật cũng là một con đường lớn, mà chínhmột thế chế, một thời đại qua đi, nó trở thành nhân chứng duy nhất (như Kim tựtháp Ai Cập). Đồ vật và sinh hoạt ngày thường cho mãi đến gần đây mới là đốitượng bổ xung cho nghiên cứu lịch sử. Ăn ở của con người như thế nào nói lênđược nhiều điều mà lịch sử to tát của các vương triều không lý giải thỏa đáng.Tôi bắt đầu hình thành cuốn Văn minh vậtchất của người Việt sau một thời gian dài nghiên cứu nghệ thuật thuần tuý,khi thấy bên cạnh những kiến trúc tranh tượng còn có những vật dụng thôngthường mà qua đó có thể hiểu được bước đi của dân tộc. Xem những bảo tàng dântộc học và lịch sử tự nhiên đem lại những gợi ý khác và nhất là những cuốn sáchmà trước đây ông Thái Bá Vân từng nhắc tôi nên đọc như: Đời sống hàng ngày của người Hy Lạp, La Mã. Cuốn Cấutrúc vật chất trong đời sống thường ngày (The Structures of EverydayLife) của ông Fernand Baudel (1902 - 1985) đã đem cho tôi những gợiý sâu sắc về phương pháp luận, để từ một mặt rất thông thường của đời sống, nhưngựa xe, lương thực mà hiểu lịch sử và con người đã như thế nào trong lịch sử.

Sự phát triển của cái bát là điềuđầu tiên và rất cụ thể mà tôi chú ý đến. Từ chỗ con người ăn bốc, chụm hai bàntay vào hụm nước, bổ đôi hoa quả, cái bát hình thành như một đồ đựng quan trọngvà biến thiên lúc thì như cái thuyền (bát thuyền) lúc thì như bông hoa sen, hoasúng (bát Lý Trần), rồi lại như thân hình thắt eo của người phụ nữ (bát chiếtyêu). Rồi từ đây tất cả đồ vật bỗng trở thành quan trọng để nhìn nhận đời sốngtrong quá khứ. Tôi băn khoăn cái rìu, cái cuốc, cái cầy và bánh xe đã ra đời vàthay đổi như thế nào, khi nào thì người Việt bước vào nền nông nghiệp, thay vìsăn bắn hái lượm trong kinh tế tự nhiên. Mọi thứ đã hiện lên sinh động. Tất cảcông cụ lao động và đồ vật, giống má không có sẵn, không có đồng thời cùng mộtlúc, chúng hình thành dần dần trong lịch sử và thay đổi theo thói quen canhtác, theo địa lý, và dẫn đến các tập tục văn hoá. Đê đến thế kỷ 11 mới đắp, nềnnông nghiệp quy mô mới chính thức bắt đầu. Vì kèo gỗ mới tìm thấy sớm nhất ởthế kỷ 13, chè Lam thế kỷ 15 mới có, thuốc lá năm 1660 mới chính thức được hút,xu hào, cà chua, bắp cải, súp lơ thế kỷ 17 mới được đưa vào Việt Nam theo nhữngthương thuyền châu Âu, phở thì đầu cuối thể kỷ 19 đầu thế kỷ 20 mới  có, chiếc áo dài tân thời mới được cải tiếnnăm 1930. Từng thứ từng thứ có nguồn gốc, có ngày sinh tháng đẻ, lịch sử khôngphải là truyền thuyết, không có sẵn từ đầu tất cả mọi thứ. Nhìn sang phương Tâycũng như vậy thôi, thế kỷ 18, ở thành Parishàng ngày có đến 20 ngàn người đổ thùng và xe nước cho các thị dân, những ngườinghèo thì ra đầu các cống thải tắm giặt. Do thuốc ho lao chưa có nên các côngnương xinh đẹp rất ít tắm vì sợ sưng phổi. Ở ta cũng vậy, có thời nhà nôngkhông ăn bữa tối, bữa cơm hàng ngày không biết đến thịt là gì. Lúa Chiêm chưađược biết đến ở thế kỷ 2 ở Bắc bộ và cây lúa nương đóng vai trò chính trong cấytrồng lúc đó.

Văn minh bắt đầu từ cái rìu mộtthứ vũ khí kiêm công cụ và cái này đẫy rẫy trong văn hoá Đông Sơn, tiếp sau làcái cuốc một công cụ có tính thế giới ở mọi dân tộc sơ khai, cuối cùng là cáicầy do gia súc kéo. Đến cái cầy chưa hẳn là nền nông nghiệp và nông dân đã hìnhthành, còn phải có một thứ nữa là vụ mùa, thuần dưỡng chăn thả và quần cư làngmạc. Từ đây con người bước vào giai đoạn suy thoái hay phát triển người ta cònphải tranh luận, vì nông nghiệp làm mất hẳn kinh tế tự nhiên, suy thoái hàngloạt giống má trong tự nhiên và con người phụ thuộc một cách bấp bênh vào vụmùa, lại do mưa nắng quyết định. Song chính nền nông nghiệp đã dẫn đến sự hìnhthành của nhiều quốc gia. Ở lưu vực sông Mê Kông, cây lúa nước có nguồn gốc từvài giống lúa từ Tây Tạng đã tạo ra các vựa lúa lớn và dẫn đến các quốc gia cácnền văn hoá đặc sắc. Đó là Nam Chiếu, Đại Lý ở nam Trung Hoa, Burma (Myanma)với nền nghệ thuật Pagan, Lào và Siem với Luang Phabang và Sukhothai, Phù Namvà Camphuchia với Angko, rồi ngược lên trung bộ Việt Nam là Champa với Mỹ Sơn,trong khoảng thời gian từ đầu công nguyên đến thế kỷ 7. Vựa lúa sông Hồng, sôngThái Bình và sông Mã được hình thành theo cách khác dẫn đến quốc gia Đại Việtmuộn hơn mặc dù lịch sử của người Việt cũng lâu dài.


Khi đê chưa được đắp các thửaruộng có thể cấy trồng vào mùa khô với chất đất khá xốp. Cái lưỡi cầy Đông Sơncho thấy nó được bố trí nằm gần như bằng với mặt đất. Khi nước sông không cònvào được ruộng nữa, đất trở nên rắn và cái lưỡi cầy buộc phải nằm nghiêng. Cầychìa vôi ra đời trong khi đó người Trung Hoa vẫn cầy bằng cái cầy có guốc cầylà trên mặt ruộng. Cái này người Hán gọi là sàngcầy hay để (đáy) cầy. Người Nhật thì dùng cả hai loại gọilà vô sàng lê (cầy không guốc - giốngcầy chìa vôi ta) và hữu sàng lê (cầycó guốc - giống cầy Hán). Cái sàng cầy lại được làm theo 3 kiểu ngắn, vừa vàdài, tuỳ theo địa hình. Người Champa thì lại học lối cầy Ấn Độ, có cái cầynương mũi quặp xuống như mỏ chim, và cầy ruộng nước như cầy Việt. Tuy nhiên cầyChampa khá nặng và to phù hợp với hai bò kéo. Sự ảnh hưởng của văn hóa TrungHoa và Ấn Độ không chỉ trên các bình diện tinh thần mà ngay ở canh tác nôngnghiệp, người Việt tiếp nhận được cả giống lúa Chiêm từ phương Nam, giống lúanương sau chuyển thành cây lúa mùa từ phương Bắc và rất nhiều loại hình công cụtừ hai phía, bên cạnh đồ dùng, binh khí, nhạc cụ, y phục thì cũng có hai xuhướng như vậy, trong đó sắc thái Nam Á là chủ đạo và là huyết mạch trong vănminh vật chất của người Việt, đặc biệt là đời sống dân gian thường nhật, cònvua chúa quý tộc lại đam mê những kiểu cách Trung Hoa.

Sông nước và con thuyền gắn bóvới người Đông Sơn sau đó là người Việt từ thời thượng cổ với con thuyền độcmộc ban đầu, khi sống thì con thuyền là nhà, khi chết thì con thuyền là mồ. Đâychính là điểm khác nhau giữa văn hóa Việt - Mường khi con thuyền không mấy ýnghĩa với người Mường, mặt còn lại người Việt và người Mường chung nhau rấtnhiều điểm, về ngôn ngữ, lối ăn gói lá và đồ, lối quấn vải làm khăn, áo ngực vàváy, cách thức canh tác và chế tạo nông cụ. Dấu ấn con thuyền trở thành hìnhtượng trên mái đình làng và thủy binh cũng là một thành phần mạnh trong quânđội phong kiến. Cái xe ít được nhắc đến và có vẻ rất thô sơ cho đến tận đầu thếkỷ 20, người Việt chưa bao giờ chế tạo được cái xe ngựa chạy tốc độ cả. Tấtnhiên xe trâu bò kéo, xe cút kít đẩy tay cũng được dùng phổ biến và chủ yếu làchuyên chở nặng. Xe ngựa và kỵ binh trong quân đội phong kiến rất kém và hầunhư không được dùng trong chiến trận.

Sự ra đời của cái bánh xe đượccoi như là mốc phát triển quan trọng của loài người. Có người cho rằng cái bánhxe hình thành từ cái cối đá cổ xưa, hay bàn nghiền, con lăn… đều lấy nguyên lýquay tròn làm chuyển động. Với người Ấn Độ bánh xe - pháp luân có nguồn gốc từmặt trời và thể hiện sự bất tận của cuộc sống. Trong văn minh Ai Cập và TrungHoa, bánh xe và xe ra đời khá sớm, có lẽ đến hai ngàn năm trước Công nguyên,sau đó đến cỗ xe Hy Lạp nổi tiếng trong lịch sử chiến trận chừng 500 năm trướcCông nguyên. Từ bánh xe có nhiều quan hệ với guồng nước, cối xay nước, cối xaygạo, cối ép mía… mà người Trung Hoa đều gọi là Xa cả, tức là chuyển động của một đồ vật dựa trên nguyên lý quaytròn. Cái xe trong văn minh Việt không đóng vai trò lớn, ngay cả trong quân độiCho đến đầu thế kỷ 20, nông dân vẫn dùng chủ yếu là xe trâu kéo thô sơ, bánh làmột phiến gỗ đặc và xe cút kít gỗ một bánh di chuyển rất chậm, chuyên chở cũngkhông nhiều.

Từng thứ từng thứ, gây cho tôi sựtò mò vô hạn về xuất xứ, công năng và sự thay đổi của nó theo thời gian, sự sửdụng, mỗi đồ vật đều có khả năng nói lên con người sử dụng nó như thế nào, thờibuổi sinh ra nó ra sao. Đó chính là cánh cửa mở ra cái nhìn lịch sử theo mộtcách khác không sách vở. Khi bắt tay viết, tôi mới thấy mình chạm vào một lĩnhvực quá sức, làm sao một cá nhân có thể biết hết được những gì dân tộc trảiqua, tôi bèn xác định những công cụ và đồ vật chính, đối chiếu nó với những đồvật trong các nền văn minh tương tự có liên quan với xã hội nông nghiệp cổ ViệtNam, từ đó gắng lần ra sợi dây xuyên suốt sự phát triển, ví dụ như từ cục đásinh ra cái rìu, con dao, cái đục, cái búa. Khi đụng chạm vào một thế giới mênhmông như vậy, nhiều khi tôi cảm thấy có một người nào đó rất cổ xưa đọc chomình chép, cứ thế cứ thế, liên tục qua đêm này đêm khác, và tôi cũng nhanhchóng hình thành xong cuốn sách vài trăm trang. Công việc song song là nhờ mộtbạn trẻ đi chụp ảnh minh họa và tự mình đến những nơi có đồ vật vẽ lại. Riênghơn 1500 minh họa ảnh và tư liệu cũ, hình vẽ, bản thân nó cũng là một công việckhông nhỏ và tốn kém, kéo dài trong suốt sáu năm qua. Bao nhiêu câu chuyện vềđời sống quá khứ và ngay hiện tại khi chúng tôi đi làm sách cũng đáng để viết ra và tôi xin tặng cuốn sách này cho các bạn trẻ khi muốn tìm hiểu xem cha ôngđã ăn mặc, làm lụng, khai nền mở đất như thế nào. Mỗi vùng các bạn sống đều cónhững đồ vật nhất định, những tập tục bản nguyên và các bạn có thể viết thêmvào cuốn sách những gì tôi chưa biết, coi đó như là một công việc chưa kết thúccần viết tiếp.

PhanCẩm Thuợng
2011

 *Các hình ảnh trong bài trích từ sách Văn minhvật chất của người Việt.

Bài đọc thêm:
Ông Phan Cẩm Thượng truy nguyên sự "đểu cáng"
.
Ông Phan Cẩm Thượng, một nhà phê bình và nghiên cứu mỹ thuật có tiếng ở nước ta vừa viết xong cuốn sách về văn minh vật chất của người Việt. Chắc ông viết cuốn này trong thời gian ông bỏ nhà sang ở chùa Bút Tháp bên Kinh Bắc. Sách rất dày, và nhiều hình ảnh. Tôi cũng đã đọc nhiều sách về văn minh Việt, nhưng chưa thấy có cuốn nào được như cuốn này. Mỗi lời ông nói, mỗi thứ ông kể đều có hình ảnh minh họa, do chính tay ông họa ra. Ông viết rất tỉ mỉ và giàu chất văn chương, lại lắm giọng. Đọc sướng lắm! Mở cuốn sách ra, là ta như được ngồi bên ông, bên một mẹt đồ nhắm, với cái be sành để bên cạnh, mà ông thì cứ vừa thủ thỉ rót rượu, vừa thủ thỉ kể câu chuyện của ông. Nghe đồn rằng Ông Chu Hảo ở nhà Tri Thức sẽ in cuốn này vài vạn bản.

Bản thảo hoàn thành, ông Phan Cẩm Thượng đưa cho 3 người đọc. Đó là 2 nhà văn Nguyên Ngọc, Hoàng Giá (bên Kinh Bắc) và tôi. Thật vinh dự lắm! Ông chơi với bọn tôi đã lâu, nhưng tôi chẳng bao giờ dám nghĩ có ngày ông cho mình đọc bản thảo và nhờ góp ý như thế này! Ông mang bản thảo đến tận nhà tôi, trong một đêm mưa gió, điều này làm tôi quá xúc động. Và bất ngờ đến với tôi trên từng trang sách của Phan. Hiện lên ngay trang mở đầu sách là hình ảnh bà nội của ông (cũng là bà nội tôi) “bà cụ bận váy sồi vuông, thắt bao tượng xanh, yếm trắng và khoác bên ngoài áo cánh, đầu đội nón thúng”. Thân thương quá chừng! Ông chay tịnh tắm gội niệm Nam mô A Di Đà Phật và xin dâng cuốn sách như lời tri ân của ông đối với Đất Nước và Mẹ Cha!

Hiện lên trong sách ông Thượng là con thuyền cổ xưa, là bến sông, con đò, xe cộ thuyền bè, là chày cối, rìu đồng, thúng mủng giần sàng, là cơm là gạo, là lúa ngô khoai sắn, là mắm là bánh cùng là hoa quả. Ta như được sống lại trong thời xưa cũ của những vàng son dĩ vãng trên các đồ thờ, của đồ trang sức gái Việt, cung kiếm của võ sĩ, nhạc khí của phường bát âm, tứ bảo văn phòng của văn nhân sĩ tử, và đình chùa đền miếu trăm năm nghìn năm còn là chốn trú ngụ, chở che của cả người và thần thánh. ….

Xin mạn phép ông để giới thiệu về một đoạn ông tả về Một ngày của người Việt qua bốn hạng dân Sỹ - Nông - Công - Thương. Đoạn này viết về Người lái buôn (Thương):

"Chàng lái buôn chít lại khăn đầu rìu, xốc hầu bao có túi tiền rủng rẻng, bao khăn khoác vai đựng quần áo, bước ra khỏi quán phở, rồi ra bến thuyền Sơn Tây. Trên thuyền những người dân Mường đã chất vài bao hương liệu, thảo dược, qua Hương Canh, lái buôn sẽ nhập thêm ít gốm sành, rồi xuôi Thăng Long và Phố Hiến. Đám dân Đểu Cáng đã về hết (chỉ những người gánh thuê, Đểu là một người gánh hai thùng hai bên, Cáng là hai người gánh chung một đòn, thúng ở giữa). Từ Sơn Tây xuống Kẻ Chợ chừng năm sáu mươi cây, nhưng theo đường sông Hồng phải bảy tám mươi cây, một ngày đò mới tới. Quá trưa thuyền dừng quảng Phúc Yên, cập bến nghỉ ăn và mua đồ gốm, chiều đò xuôi tiếp bến Chương Dương, khách và chủ thuyền cởi dải rút quần lá tọa, vạch chim đái tồ tồ xuống mặt sông, xốc lại áo quần rồi chuyển hương liệu lên bờ. Ở lại Thăng Long chừng ba hôm, chàng lái buôn nhập thêm ít lụa Hà Đông, đi chơi cô đầu, chàng trọ nhà một người quen ở phố Thuốc Bắc. Thuyền lại đi xuống Bát Tràng, chàng mua vào chục lô bát chiết yêu, lục bình cỡ lớn, rồi đi Phố Hiến giao hàng. Hàng chục ngày lênh đênh trên sông, gặp bến thì lên bờ ăn nghỉ, còn không thì thổi nấu trên thuyền, nếu đi quá lâu, chủ thuyền cũng đành đồng ý cho gã lái buôn cắp theo một cô đào quá lứa cho vui chuyện. Tắm rửa thông thường dùng nước sông, trừ khi khan hiếm còn không chủ thuyền thường tích nước mưa nấu ăn và pha trà. Đêm ngồi đầu thuyền ngắm trăng, thưởng trà cũng thật là thanh cảnh".
 
Nguyễn Xuân Diện