Nguyễn Xuân Diện
- viết năm 1993
Thăm Cổ Đô, du khách hãy đến thăm Bảo tàng Họa sĩ Sỹ Tốt - bảo tàng nghệ thuật tư nhân đầu tiên của Hà Nội, cùng Đền thờ Thượng thư, nhà thơ Nguyễn Bá Lân, nhà thờ họ Lưỡng quốc Trạng nguyên Nguyễn Sư Mạnh.
Làng Cổ Đô là một làng quê nhỏ bé nằm nép mình bên dòng sông Đà cuộn
sóng. Xuôi xuôi một chút là Ngã Ba Hạc nơi gặp gỡ của ba con sông, ba màu nước lại
là nơi chất chứa bao huyền thoại từ thuở hồng hoang khi “vũ trụ mơ màng, càn
khôn xếch xác”.
Đất Cổ Đô là đất cổ, trước đó có tên là An Đô, sau lại đổi là An Bang, thuộc
huyện Tiên Phong, phủ Quảng Oai, trấn Sơn Tây (nay là huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây).
Xưa, Cổ Đô có nghề dệt lụa. Tương truyền, công chúa Thiếu Hoa, con gái
vua Hùng từ thành Phong Châu sang đây dạy dân nghề tơ lụa. Lụa làng Cổ Đô là sản
vật tiến vua. Lụa Cổ Đô đã đi vào ca dao, nức tiếng cả nước:
Lụa này thật lụa Cổ Đô
Chính tông lụa cống các cô ưa
dùng.
Không chỉ có vậy. Làng Cổ Đô còn nổi tiếng là đất văn học. Hình ảnh “Bên
anh đọc sách bên nàng quay tơ” trong câu ca xưa có thể tìm thấy ở nơi này. Theo
quan niệm người xưa, một làng quê trù phú và bình yên phải có “tam thanh” trong
sinh hoạt hàng ngày. “Tam thanh” (ba thứ âm thanh) là: tiếng đọc thơ, bình văn
của kẻ sĩ, tiếng thoi reo lách cách của thôn nữ và tiếng nô đùa của con trẻ.
Làng Cổ Đô là làng có đủ cả “tam thanh”.