Hiển thị các bài đăng có nhãn Làng Việt. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Làng Việt. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 26 tháng 11, 2025

LÀNG VIỆT & TÊN LÀNG

Làng Việt & Tên làng
Nguyễn Xuân Diện

Làng Việt đã là nơi cất giữ gần như toàn bộ gia sản văn hóa của tổ tiên chúng ta. Kiến trúc đình, chùa, miếu và các nhà ở dân gian là kết tinh sự hiểu biết của người xưa về môi trường, về kiến trúc và quan niệm về sự ở của tổ tiên chúng ta. Lũy tre xanh và cách bố trí dân cư theo hình xương cá hoặc bố trí dọc theo nguồn nước là cách tự vệ và sự tuân thuận theo tự nhiên, hòa hợp với thiên nhiên, lợi dụng thiên nhiên - một triết lý của người Việt. 

Chủ Nhật, 23 tháng 11, 2025

HOÀNG GIÁP NGUYỄN ĐĂNG HUÂN- NGƯỜI 2 LẦN VINH QUY BÁI TỔ

Thăm làng Ngái, viếng mộ Hoàng giáp Nguyễn Đăng Huân
Nguyễn Xuân Diện

Làng Hương Ngải, tên Nôm là Kẻ Ngái, huyện Thạch Thất, HN. Hương Ngải là một danh hương ở Xứ Đoài. Xưa, vua Tự Đức tặng làng danh hiệu “Mỹ tục khả phong” (phong tục tốt đẹp đáng làm gương), nay hãy còn treo ở đình. Đây là quê hương của Cụ Nguyễn Tử Siêu, một nhà văn chuyên viết về tiểu thuyết lịch sử. Con trai cụ là Lương y Nguyễn Thiện Quyến, Chủ tịch Hội Đông y Việt Nam, tôi cũng từng có vinh hạnh được hầu chuyện.

Thứ Tư, 5 tháng 11, 2025

LÀNG NÔM ĐẸP NHƯ CỔ TÍCH

 
LÀNG NÔM ĐẸP NHƯ CỔ TÍCH

Làng Nôm, xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên không những cổ kính mà còn rất đẹp và sạch. Làng có một cái hồ rất dài, kéo từ trước cửa đình (thờ Thánh Tam Giang) ra tận nhánh sông Nguyệt Đức. Hai bên bờ là nhà dân và các nhà thờ họ: Họ Đan, họ Đỗ, họ Phùng… Kiến trúc nhỏ mà đầy đủ, xinh xắn và hoà hợp với cảnh quan, nhìn chả khác phố Hội bên sông Hoài ở Hội An. Hồ dài hơn một cây số, trông như một con sông. Nước hồ trong veo, mà bờ không có tý rác nào dạt vào; cũng không có mùi xú uế. 

Thứ Hai, 25 tháng 7, 2022

Chuyện làng tôi: GIẾNG ĐỰC & GIẾNG CÁI


Chuyện Làng tôi - Bài 3:
HAI GIẾNG TẮM DÀNH RIÊNG CHO PHỤ NỮ

Nguyễn Xuân Diện

Làng Phụ Khang có 8 giếng: giếng Tóa Loa, giếng đá đội 6, giếng vuông cạnh giếng đá, giếng Chậu ở rộc Chậu, giếng cụ Phó Thêm, giếng đội 2, giếng xóm trong, giếng xóm Lũy Mo. Trong số các giếng này, giếng Tóa Loa là giếng có sớm nhất, được đào ngay từ khi lập làng, nước giếng ngọt nên được cả làng gánh nước về làm tương hoặc nấu cỗ. Thứ đến là giếng đá ở đội 6, nơi có tòa miếu cổ thờ thần Bản thổ. Giếng Chậu đã bị lấp và chưa khôi phục lại, các giếng còn lại vẫn còn, nhưng không còn được dùng sinh hoạt hàng ngày nữa, vì mọi nhà đều có giếng riêng, nhiều nhà đã có dùng nước máy.

Chuyện làng tôi: CÁC LỄ TẾT TRONG NĂM


Chuyện làng tôi - Bài 2: CÁC LỄ TẾT TRONG NĂM
 
Nguyễn Xuân Diện

Trong một năm, người dân Phụ Khang có làm cỗ tết các dịp sau: Tết Nguyên đán, Rằm tháng Giêng, Tết Bánh trôi, Tết mùng 5 tháng 5, Tết Rằm tháng Bảy, Tết Rằm tháng Tám, Tết cơm mời mùng 10 tháng 10, Chạp.

Tết Nguyên đán là Tết cả. Thời gian ăn Tết dài nhất trong các tết. Sau buổi Chạp tổ 23 tháng Chạp là lúc dân làng Phụ Khang nhộn nhịp sắm Tết.

Vào khoảng cuối tháng Chạp, mấy nhà trong xóm đã gạ nhau đụng một con lợn. Khoảng 28 Tết, cả xóm cùng nhau mổ lợn, đánh tiết canh, chia thịt cho mỗi nhà đều đủ cả nạc, mỡ, lòng lợn, xương để đem về chế biến các món ăn cỗ Tết. Trẻ con xúm quanh chờ lấy bong bóng lợn để thổi làm bóng bay. Khi có thịt đem về thì bắt đầu ngâm gạo, pha thịt chuẩn bị lá dong, lạt dang, gạo nếp để gói bánh chưng. Khi gói đến bát gạo cuối cùng bao giờ cũng là vài cái bánh chưng bé cho trẻ con. Công việc đồng áng bây giờ dừng lại, để cả nhà xúm lại mỗi người mỗi việc: đàn bà con gái thì nấu kẹo lạc, chè lam, bánh bỏng; đàn ông thanh niên thì giã giò, gói nem, đánh bóng đồ thờ, lau rửa câu đối hoành phi. Các bà các chị đi chợ Tết thường không quên hai cây mía để dựng hai bên bàn thờ làm gậy ông vải. Một cành đào, một mâm ngũ quả, một ít hương vòng, hương nén cùng vài bức tranh Tết thường là không thể thiếu trong gánh đi chợ Tết của các bà các chị.

Chuyện làng tôi: CUỘC SỐNG TRONG LÀNG XƯA


Chuyện làng tôi - Bài 1:
CUỘC SỐNG TRONG LÀNG XƯA

Làng Phụ Khang (xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội) là một làng thuần nông. Ngoài làm ruộng ra, người làng không có nghề phụ nào đáng kể trong suốt lịch sử từ lúc lập làng. “Cơm cày cá kiếm” là câu cửa miệng của người làng. Sau lũy tre làng, cuộc sống của dân làng cũng gần như khép kín như rặng lũy.

Người dân Phụ Khang canh tác trên những thửa ruộng bậc thang, trông chờ vào những cơn mưa để cấy trồng. Những tràn ruộng thấp sẽ cho lúa hai vụ, những sườn cao trồng đủ loại hoa màu như lạc, đỗ, ngô, khoai, sắn. Đồng Bường là nơi đất tốt, rất phù hợp với trồng khoai, và khoai lang ở cánh đồng này đã đi vào câu tục ngữ khắp vùng biết tới “Nước Giếng Giang, Khoai lang Đồng Bường”.

Thứ Ba, 21 tháng 6, 2022

Nhân Ngày 21.6: MÕ NGÀY XƯA KHÔNG ĐỨNG VỀ PHE CÁNH NÀO

Annamite town crier. Upper-Tonkin, in 1902 - Thằng Mõ Annam tại miền thượng du Bắc Kỳ.

THẰNG MÕ

Nguyễn Văn Sự & Nguyễn Xuân Diện
Tạp chí Xưa và Nay số 2 – 1995, trang 23.
 
Trong cộng đồng làng xã Việt Nam thời trước có một nhân vật đáng để ý song bấy lâu nay chưa được nghiên cứu nhiều – đó là nhân vật mõ làng. Bài viết này thử tìm hiểu về nhân vật mõ làng dưới một số khía cạnh, nhằm góp vào công cuộc nghiên cứu nông thôn Việt Nam trong lịch sử.

Thứ Năm, 6 tháng 5, 2021

LÀNG XÃ XƯA QUY ĐỊNH RẤT CHẶT CHẼ VIỆC CHỐNG DỊCH BỆNH

 Giếng cổ ở Đường Lâm. Ảnh: Lê Bích.
.
Làng xã Việt xưa quy định chặt chẽ việc
chống dịch bệnh truyền nhiễm
 
Minh Châu 
Zing
10:06 20/02/2020
 

Trước tình hình dịch bệnh thường xuyên xảy ra, dưới sự can thiệp của Pháp, quy tắc vệ sinh, phòng chống dịch bệnh được ấn định trong các bản hương ước cải lương ở lãng xã.

Đầu thế kỷ 20, nhiều làng xã ở nông thôn Việt Nam đã đặt ra những quy tắc về vệ sinh, phòng bệnh, chữa bệnh, chống dịch bệnh truyền nhiễm lây lan… Những quy tắc này được ghi cố định trong các bản hương ước tục lệ của làng xã (hương ước, khoán ước, điều lệ…) rất tỉ mỉ, chặt chẽ. 

Hương ước cải lương và việc ấn định quy tắc vệ sinh và phòng chống dịch bệnh 

Thứ Bảy, 6 tháng 2, 2021

Vương Toàn: CÁ KHO LÀNG SO

 
CÁ KHO LÀNG SO 

Vương Toàn   

Tễu Blog: Làng So thuộc xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, Hà Nội, cách trung tâm thủ đô khoảng 25 km. Đình Làng So nổi tiếng là "Đẹp nhất Xứ Đoài". Làng có nhiều cổ tục tốt đẹp, lại cũng là nơi có nhiều món nổi tiếng: Cá kho, Chè kho (để một năm vẫn dùng được), rau cần nộm miến cá quả, nem mắm. Đây cũng là làng có thương hiệu Miến So nổi tiếng. Nhân dịp tết cổ truyền đang đến gần, xin giới thiệu bài viết của Ông Vương  Toàn về món Cá kho của làng So - quê hương của tác giả. 

Những con cá tươi được xắt khúc bổ đôi nướng trên than hồng cho vàng, sau đó được kẹp vào sếp tre, phơi trên nắng hanh đến khi vàng suộm màu cánh gián và khô cứng như rễ củi.

Thứ Năm, 14 tháng 1, 2021

THĂM NHÀ THỜ KẺ SẶT - LÀNG CHÂU KHÊ VÀ LÀNG HOA ĐƯỜNG

Nhà thờ Kẻ Sặt

Cuối tuần, theo lời mời của một người bạn, tôi cùng bạn bè về thăm Kẻ Sặt - một vùng quê nổi tiếng thuộc huyện Bình Giang tỉnh Hải Dương. Nơi đây có Nhà thờ Kẻ Sặt nổi tiếng, rồi có các đặc sản bánh đa và bánh chả Kẻ Sặt nức tiếng xa gần.

Kẻ Sặt là địa danh cổ chỉ một địa phương. Tên địa danh Kẻ Sặt là tên Nôm của làng Trang Liệt. Những địa danh có chữ LIỆT thường có tên Nôm là Sét (Thịnh Liệt - HN), Sặt (Trang Liệt - Từ Sơn, Bắc Ninh; Trang Liệt - Bình Giang, Hải Dương).

Tóm lại, ngày xưa, những vùng đất cổ thường có hai tên:
- Tên cổ thì gọi là Kẻ + tên gọi (ví dụ: Kẻ Noi, Kẻ Chủ, Kẻ Mía, Kẻ Ngác, Kẻ Thày, Kẻ Vẽ....), những tên gọi này thường chỉ là truyền miệng, và có từ rất xa xưa.
- Tên chữ, thường xuất hiện sau, muộn hơn so với tên nôm na, do nhu cầu phải văn bản hóa để quản lý về mặt hành chính.


Bác Ha Le cho biết: Ở miền Nam cũng có địa danh Kẻ Sặt, thuộc vùng Hố Nai, nơi có một ngôi chợ rất sầm uất và nổi tiếng nằm ven quốc lộ 1, gọi là "Chợ Sặt". Đó ban đầu là tên của một làng (đồng thời là giáo xứ) do các giáo dân di cư lập ra, lấy lại tên cũ từ quê hương miền Bắc của họ. Giáo xứ Kẻ Sặt là một trong những giáo xứ đông dân bậc nhất của địa phận Xuân Lộc, hay có thể nói của toàn miền Nam, theo địa giới hành chính hiện này thì thuộc phường Tân Biên, tp. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.


Điều này đúng như những lời bà con giáo dân và chức sắc giáo xứ Kẻ Sặt cho tôi biết trong chuyến thăm này.  Bà con cho biết, vào những dịp lễ trọng hàng năm, bà con Kẻ Sặt ở Hố Nai và các tỉnh phía Nam về quê cha đất tổ dự thánh lễ rất đông, xe lớn chở khách nối nhau dài đến cả cây số. 

Giáo xứ Kẻ Sặt hiện có chừng hơn 5000 giáo dân. Nhà thờ Kẻ Sặt nằm trong một khuôn viên 32 ngàn mét vuông. Nhà thđược xây vào năm 1882 và được sửa chữa vào năm 1922.

Hôm nay Cha xđi vắng, có ủy cho các ông Chánh và Phó trương cùng ban hành giáo đón tiếp và hướng dẫn chúng tôi tham quan nhà thờ. 

Trước khi ra về, chúng tôi gửi lời cảm ơn Cha xứ, cảm ơn các vị chức sắc đã đón tiếp ân cần, niềm nở và kính chúc bà con giáo dân Giáo xứ Kẻ Sặt một mùa Giáng sinh vui vẻ, đầm ấm, hạnh phúc và thành tựu trong hồng ân của Thiên chúa. 





 
 




 Nhà thờ Kẻ Sặt có một dàn trống khủng. Đây là một trong những chiếc trống đó, do thợ Đọi Tam làm
.

Thứ Hai, 11 tháng 1, 2021

THĂM LÀNG CỔ CỰ ĐÀ TRONG XÓT XA LO BUỒN

THĂM LÀNG CỔ CỰ ĐÀ TRONG XÓT XA LO BUỒN 

Nguyễn Xuân Diện

Cự Đà là một làng cổ, theo sự phân loại của Pierre Gourou thì đây là “làng ven sông”. Làng Cự Đà nổi tiếng làm tương ngon đã thành thương hiệu từ lâu. Cự Đà nay còn có thêm nghề làm bánh đa và bột đao cũng rất được tiếng. 

Cự Đà cách Hà Nội khoảng ngót 20 km, nhưng chỉ có 1 con đường độc đạo dẫn đến làng - đường dọc sông Nhuệ. Cự Đà nằm bên sông, dân cư bám lấy sông và bố trí theo hình xương cá. Con đường ấy, ngày xưa có thể đủ cho hai cỗ kiệu hoặc cỗ xe song mã, 2 chiếc xe hơi cổ tránh nhau. Nhưng nay, con đường đã thành quá nhỏ.

Thứ Năm, 12 tháng 3, 2020

Nguyễn Xuân Diện: CHA ÔNG TA XỬ TRÍ NHƯ THẾ NÀO VỚI BỆNH DỊCH


CHA ÔNG TA XỬ TRÍ NHƯ THẾ NÀO VỚI BỆNH DỊCH

Nguyễn Xuân Diện

Việt Nam là nước nhiệt đới, khí hậu nóng ẩm. Thêm nữa là nước có nhiều sông ngòi, ao hồ, kênh rạch, đầm phá, nên Việt Nam luôn phải đối phó với các loại bệnh dịch. Chính vì vậy, cha ông ta đã thường trực công tác phòng và chống bệnh dịch và xử trí rất tốt.

Tri thức phòng và chống bệnh dịch của cha ông ta ở nông thôn cho thấy rất bài bản:

1- Hương ước quy định rất rõ về công tác vệ sinh: Sử dụng nguồn nước, vệ sinh công cộng, có thưởng phạt nghiêm, quy rõ trách nhiệm.

Thứ Tư, 11 tháng 3, 2020

Hà Tĩnh: CẦN PHẢI TRẢ LẠI ĐÌNH LÀNG CHO DÂN KẺ TRỔ


CẦN PHẢI TRẢ LẠI ĐÌNH LÀNG CHO DÂN KẺ TRỔ
 
Đầu những năm 1960s, trong quá trình xây dựng và tôn tạo khu lưu niệm Đại thi hào Nguyên Du ở Tiên Điền, Nghi Xuân, ngành Văn hóa Hà Tĩnh đã thực hiện di chuyển ngôi đình làng của dân kẻ Trổ (Đức Nhân, Đức Thọ) về dựng lại trong khu lưu niệm này nhằm làm tăng thêm sự phong phú các công trình kiến trúc trong khuôn viên, có chỗ trưng bày hiện vật lưu niệm, và quan trọng nhất là có hiện vật đối chứng đồng niên với thời đại Nguyễn Du (cuối tk18, đầu tk 19) vì các kiến trúc trong khuôn viên này đều được xây dựng sau thời Nguyễn Du. Ngôi đình Kẻ Trổ đã ở trong lưu niệm từ đó đến nay, gần 60 năm. Gần đây, khi tiếp tục tôn tạo khu lưu niệm, ngôi đình này lại được dỡ xuống để dành cho các công trình mới. Nó sẽ được dựng lại, cũng ở Tiên Điền, nhưng sẽ mang tên mới là đình làng Tiên Điền!!!

Thứ Tư, 4 tháng 4, 2018

Tục cũ: ĂN CỖ LẤY PHẦN


Ăn cỗ lấy phần 

Tạ Duy Anh

Đôi khi phải sống rất lâu, phải chờ ông bà bố mẹ chết đi, phải thành bại trong đời, chúng ta mới thấy hết tấm lòng mênh mông, sâu thẳm của các đấng sinh thành.

Các bạn trẻ ngày nay sẽ cười ngất và có phần coi thường thói quen mỗi khi ai đó đi ăn cỗ lấy phần đem về. Thực tế thì chuyện lấy phần cũng đang mất dần, có chăng chỉ còn rớt lại ở những vùng sâu, vùng xa nào đó.

Nguyễn Quang Thiều: CÂY SÀO TRE, LỆ LÀNG VÀ LUẬT NƯỚC


Cây sào tre, lệ làng và luật nước 

Nguyễn Quang Thiều

Có rất nhiều lý do mà những người nông dân làng tôi chấp hành nghiêm minh lệ làng, nhưng có một lý do mà tôi thấy rất rõ và muốn nói đến. Đó là lòng tự trọng và khả năng biết xấu hổ của những người làng tôi.

Cho đến tận bây giờ, cứ vào ngày mồng 5 Tết, làng tôi lại tổ chức khám đàng (khám đường làng). Đi đầu là một đôi thanh niên khỏe mạnh cầm một chiếc sào tre. Mỗi thanh niên đi trên mép một bên đường làng và cả hai giữ cân bằng chiếc sào tre trên tay họ. Đi sau họ là một vài cụ già ăn mặc chỉnh tề. Sau đó là một đoàn thanh niên với cuốc thuổng, dao dựa. Họ đi từ đầu làng đến cuối làng trong tiếng chiêng, tiếng trống. Nếu một đầu cây sào tre chạm vào bất cứ một vật cản nào đó như nhà cửa, chuồng gà chuồng lợn, cây cối... thì chủ của những vật cản kia phải dỡ bỏ với sự trợ giúp của các thanh niên làng. Chiều dài của chiếc sào chính là phần đường làng cùng khoảng lưu không được làng qui định từ xa xưa mà mọi người làng phải chấp nhận, không ai được phép lấn chiếm. Có người xây nhà lấn chiếm cũng phải dỡ bỏ. Cây sào tre này được giữ trong đình làng tôi không biết đã bao đời nay. Hàng năm đến ngày khám đàng thì được lấy ra dùng.

Thứ Năm, 29 tháng 3, 2018

CHUYỆN VỀ HAI CON CÓC ĐÁ LÀNG CỰ ĐÀ


Cụ Hai Cối và hai con Cóc đá

Trích từ Cự Đà Nhân vật chí

Khi biết tôi viết chuyện Cụ Hai Cối, có mấy Ông trong làng ở Hà Nội và Sài Gòn tỏ ý không tán thành. Vì cho rằng Cụ không làm được điều gì công ích cho làng ta thì chép chuyện Cụ làm gì ? Tôi nghĩ rằng : đây là " Cự Đà nhân vật chí " , thì Cụ Hai Cối cũng là một dị nhân kỳ tích một thời ở làng, Cụ cũng là một mẫu người biểu tượng cho " tính nết Cự Đà " và để lại trong làng xóm bao nhiêu chuyện lý thú ? Đến nay lũ trẻ về làng thấy còn 2 cái trụ đá ở 2 đầu bên sông lối vào 2 xóm, có tạc hình con cóc, mà người lớn tuổi ở làng đều nói : " đây là con cóc đá của Cụ Hai Cối đấy ! " . Chúng sẽ ngẩn ngơ hỏi : Cụ Hai Cối là ai ? Cụ dựng trụ cóc để làm gì ?

Thứ Ba, 5 tháng 12, 2017

Trương Minh Hằng: TẬP TỤC VÀ KIÊNG KỴ TRONG CÁC LÀNG GỐM


Tập tục và kiêng kị trong các làng Gốm

PGS. TS Trương Minh Hằng

1. Tục “Nam thú đồng hương, nữ giá bản quán”

Một trong những nét riêng được bảo tồn lâu bền trong phong tục tập quán của các làng gốm đồng bằng sông Hồng là lệ “không gả con gái cho người ngoài làng”. Mặc dù cho đến nay, lệ này không bắt buộc phải tuân thủ chặt chẽ như trước.

Thứ Bảy, 18 tháng 11, 2017

Làng Việt: ĐIẾM CANH ĐẦU LÀNG

Điếm canh đầu làng (Nam Định, 1958), ảnh của cụ Võ An Ninh.

ĐIẾM CANH
 
KTS. Đoàn Khắc Tình

Điếm canh, cũng như cổng làng bộc lộ tính tự quản, có thể nói hai chữ “ bán cô lập”, của làng xã Việt Nam truyền thống với tính tự trị cao.

Điếm canh có lẽ là công trình được hưởng đặc quyền nằm ngoài lũy tre làng, có khi khá xa mép làng do chức năng như một trạm canh phòng của làng xóm. Thông thường người ta xây điếm canh cách cổng làng chừng 50m, có khi hơn, ngày đêm cắt cử phiên tuần. Phiên tuần có nhiệm vụ hỏi danh tính, xét nét người lạ mặt vào làng hoặc người ra khỏi làng những khi giờ giấc bất thường. Có làng còn tổ chức hẳn một đội dân binh, cắt cử canh chừng cả ban ngày, ban đêm.