Thứ Năm, 24 tháng 10, 2013

TẢN MẠN VỀ KHỔNG TỬ VÀ VIỆN KHỔNG TỬ SẮP MỞ Ở VIỆT NAM

Tản mạn về Khổng Tử
và Viện Khổng Tử sắp mở ở Việt Nam
Phùng Hoài Ngọc

Người ta không sợ ông Khổng, hay cái Viện Khổng tử, mà người ta sợ cái kẻ (cả phía TQ lẫn phía VN) đang muốn lợi dụng Khổng giáo cho mục đích riêng họ. Và Khổng giáo cùng Viện Khổng tử bị lên án là vì (vô tình) trở thành công cụ cho những kẻ này. Đạo Khổng có những nội dung bất cập, đồng thời có nhiều điểm hay, nhưng chắc chắn nó chưa đầy đủ. Trong khi người dân Việt Nam còn đang rất thiếu hiểu biết về tự do, dân chủ, pháp quyền (những khái niệm xa lạ với Khổng giáo) mà nhà nước không những đã không tạo điều kiện để làm tăng sự hiểu biết của người dân về những vấn đề trên, lại đi lo vun đắp cái tinh thần Khổng giáo, là điều mà truyền thống Việt Nam cũng đã thấm nhuần lắm rồi, lại xuất phát từ chủ trương của một anh thực dân (mới nổi lên) là Trung Quốc, thì việc ấy chẳng phải cũng đáng lo lắm sao ? (P.H.N).

Suốt gần ngàn năm qua trong nhiều hoàn cảnh bị cai trị trực tiếp mà người Việt học Khổng tử vẫn không bị Hán hoá, bây giờ có cần phải lo lắng một cái Viện Khổng tử chăng?   

Ngày xưa người Việt học Hán ngữ và Khổng tử vì không thể không học. Tuy nhiên thời ấy các cụ nhất định phiên âm Hán ngữ ra âm Hán-Việt để xài, quyết không học nguyên vẹn tiếng Hoa, nhằm giữ vững tự chủ tự lập, tránh khỏi bị đồng hoá. 

Khi thấy chữ Hán không đủ phục vụ nhu cầu cần thiết, các cụ soạn ra chữ Nôm để ghi âm nốt một phần tiếng Việt cho đủ dùng. 

Tìm hiểu vai trò của Khổng tử ở Trung Quốc và Việt Nam, tưởng chúng ta cũng nên điểm qua vài nét về Khổng học. 

Khổng tử sống vào cuối thời Xuân thu (sinh 551 trước CN, mất 479 tr CN). 

Thời Xuân thu (770 – 455 tr.CN) xã hội Trung Hoa đang bước vào giai đoạn sơ kỳ phong kiến. Thể chế xã hội chia hai bậc cai trị chính thức: hoàng đế và chư hầu . Hoàng đế nhà Chu ngày càng tỏ ra không đủ sức cai quản lãnh thổ ngày càng rộng lớn với cả trăm nước chư hầu (chư : các, số nhiều). Đã vậy còn nảy sinh một bậc chen giữa là “vương ”, có lúc lên tới 14 vị (còn dùng chữ bá không chính thức kèm với vương,bá tức là “bác”, anh của cha, nhưng giữ quyền cao hơn cha, tức là lạm quyền. Vậy người dân mới bực mình dùng chữ “bá” với ý mỉa mai, bực bội như bá đạo, bá quyền, bá chiếm…Bá vương lấn lướt tung hoành bất chấp hoàng đế. Dân chúng chịu một cổ ba tròng. Đây là giai đoạn loạn lạc, đời sống bất an do các chư hầu đua nhau “tranh bá đồ vương”, họ vơ vét của cải thuế khoá, tuyển lính để chứng tỏ lực lượng mình hùng hậu, nhằm tham dự các đại hội chư hầu bầu chọn “bá vương”. Nếu đạt được tước “vương” thì sẽ tiếp tục lôi kéo chư hầu và bá vương khác, nhắm cái đích cuối cùng là tranh “đế”. Trong hoàn cảnh như vậy, kẻ sĩ hay võ sĩ thấy cần phải chọn đúng minh chúa mà theo (làm chính trị thời ấy như đánh bạc). Đất nước bất an thì lòng người cũng ly tán, lối sống bừa bãi, tệ nạn xã hội phát triển, chả biết đâu là chuẩn mực văn minh… 

Trong bối cảnh ấy, nhiều trí thức học giả thấy cần phát huy vai trò của mình để vãn hồi trật tự, sao cho giữ được cuộc sống thanh bình an lạc ngày xưa. Lão Tử đưa ra học thuyết “Đạo đức kinh” (kinh: đường mòn, vạch sẵn mà đi) không ngoài mục đích trên… Kế đến nhà giáo Khổng tử xuất hiện. Tuy làm quan cho vua Lỗ, tham mưu cho một ông vua, Khổng tử lại không được nhà vua tin cậy nên ông thấy cần phải biên soạn bài giảng mở lớp dạy học, phổ biến tư tưởng cho mọi người. Ông lại chọn một số môn đệ cùng đi qua nhiều nước chư hầu khác thuyết giảng. Nói chung tư tưởng của ông chỉ được các vua hầu khen chứ không sử dụng…Khổng tử nêu gương các minh chúa tiền nhân từ giai đoạn đầu nhà Chu trở về trước (đến các vua truyền thuyết Nghiêu -Thuấn- Vũ) làm điểm xuất phát cho học thuyết. Hạt nhân của Khổng học là chữ “Lễ”, từ đó học thuyết được phát triển khá phong phú, toàn diện. 

Trước khi soạn bài giảng, ông sưu tầm tài liệu và biên soạn thành sách. Do khiêm tốn ông đều nói rằng “cổ nhân dạy”, thực ra đó là tư duy của chính ông, chiêm nghiệm của chính mình về thời cuộc. Điều đặc biệt là cách hành xử của ông trong cuộc sống thường nhật, ông giảng bài làm sao thì thực hành đúng như vậy. 

Bộ sách Khổng tử gồm: Ngũ kinh có 5 sách: Kinh Lễ, Kinh Thượng thư, Kinh Xuân thu, Kinh thi và Kinh Dịch. Tứ thư có 4 sách: Đại học, Trung dung, Luận ngữ (bài giảng của ông và có phần học trò phát triển) và Mạnh tử thư là trước tác của Mạnh tử (385–303 tr.CN, Mạnh tử ra đời sau Khổng tử gần một trăm năm) tập trung vào đối tượng vua chúa để khuyên răn, được coi là phát triển sâu sắc tư tưởng của Khổng tử. Do đó đời sau gọi đầy đủ là học thuyết Khổng-Mạnh, nhưng nếu gọi vắn tắt là “Khổng học” cũng không sai mấy và được chấp nhận.. . Đến thời nhà Hán (203 tr.CN– 220) sau khi thống nhất giang sơn, họ Lưu chủ yếu đã xoá bỏ hai cấp “bá vương” và “chư hầu” để xây dựng chế độ phong kiến quân chủ tập trung (quy trọn vào chữ “đế”), họ bắt đầu vận dụng học thuyết Khổng tử làm nền tảng giáo dục, từ đó kéo dài suốt gần hai ngàn năm, tạm tính đến 1911. 

Sách Khổng tử ngày nay chỉ thấy có ba cuốn còn ít nhiều giá trị là Luận ngữ, Kinh thi và Kinh Dịch. Người Việt đã từng biên dịch phát hành nhiều lần, nhà nho Viêt Nam có đủ khả năng truyền bá những gì cần thiết về Khổng học cho hậu sinh. 

Ngày nay, các nước mở tung cửa tri thức cho con người lựa chọn. Chúng ta có cần phải lo lắng một cái Viện nhỏ đặt trong một cái trường đại học không thuộc hàng đầu ở Hà Nội không ? Người ta chỉ ngạc nhiên vì sao phải cần hai Thủ tướng mới ký kết được một cái văn bản nho nhỏ ấy đặt trong “Tuyên bố chung” ? Thay vì chỉ cần hai Bộ giáo dục hay Bộ văn hoá, thậm chỉ hai trường đại học ký kết với nhau cũng được. Còn một điều lạ nữa: viện Khổng tử không dám tự nhiên tồn tại độc lập ngoài mặt tiền, mà chịu nép mình vào trong khuôn viên một trường đại học cỡ trung bình ở Hà Nội (Đại học Hà Nội nguyên là trường Cao đẳng SP Hà Nội mới nâng cấp). Có lẽ họ còn e dè, nghe ngóng tình hình và thái độ phản ứng mặn hay nhạt của dân Hà Nội, dân Việt Nam chăng? 

Khổng học đã lặn sâu vào nền văn hoá Việt với nhiều mức độ, trên nhiều lớp người khác nhau. Nhiều lần tôi ngẫu nhiên tiếp xúc mấy cụ già không biết chữ, nói chuyện đời, các cụ bật ra những câu văn Khổng tử khiến tôi giật mình. Sau đoán rằng các cụ “học Luận ngữ” qua một số tích chèo, tuồng đồ và cải lương hay qua chuyện trò khi nhâm nhi rượu trà với các cụ đồ nho làng… 

Bàn về vai trò của một học thuyết trong lịch sử. 

Sáng lập và chủ trương một học thuyết là nhu cầu khát vọng của nhà trí thức. Khi họ viết ra, hầu như chỉ muốn giãi bày với thiên hạ, họ không hình dung được về sau thiên hạ sẽ sử dụng ra sao. Việc sử dụng học thuyết trong một chế độ cai trị bạo ngược vô pháp vô thiên lại là việc khác. Một chế độ độc tài toàn trị trong lịch sử loài người từ thời xưa đến nay vẫn ưa dùng một học thuyết (nào đó) để làm bình phong, làm ngọn cờ.. Thành ngữ thời phong kiến nói “Ngoại nho nội pháp” (ngoài miệng nói nho giáo trọng chữ Nhân, thực tế coi trọng dùng Pháp gia tức hình phạ. Bao nhiêu chế độ độc tài đều dùng hai lực lượng tay trái- tay phải này: Ban tuyên truyền mị dân rao giảng học thuyết (có biên tập, cắt xén) và “Công cụ vũ lực đàn áp khủng bố” mỗi khi mị dân bất thành (mị: làm cho si mê vì nịnh khéo, làm cho ngủ say). 

Tô đã từng đọc thấy một số bài báo của một số ít người, thậm chí của một số học giả nho học có tiếng ở Việt Nam, phê phán Nho học rất nặng nề. Rằng Nho giáo kìm hãm đất nước Trung Quốc và Việt Nam vào vòng lạc hậu lâu dài, rằng Khổng học trở thành công cụ cho giai cấp phong kiến thống trị đè nén áp bức nhân dân. v.v… Tôi nghĩ, nhà thống trị họ muốn làm gì thì làm, quen thói bá đạo bá quyền, họ chỉ cần học thuyết để mị dân thôi. Họ hiểu đúng đắn hay sai lạc học thuyết ấy cũng chẳng sao. Họ vận dụng hay xếp xó cũng không sao. Họ cũng lập ra Viện, Khoa triết học này nọ nghiên cứu học thuyết ông A, ông B hoặc là ghép bừa bãi hai ông thành học thuyết A-B nhưng chẳng thực hành được gì đáng kể nếu chưa nói là đã thực hành sai be bét. Khi thấy học thuyết A-B mất giá thì họ đẻ ra Tư tưởng C, họ ghép lung tung cho có như một bức bình phong nham nhở, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp từng bi quan than thở rằng “chính trị”ở xứ ta là một “món lẩu thập cẩm” quả không sai. 

Chúng ta biết rằng đến thế kỷ 18, phương Tây mới trỗi dậy, vượt qua mặt phương Đông nhờ các thành tựu khoa học kỹ thuật và tư tưởng cộng hoà, và tất nhiên không thể thiếu vai trò các nhà lập thuyết. Như vậy, trước đó phương Đông chúng ta có cái khoa học xã hội – nhân văn nào hay hơn Khổng học đâu? Lỗi là ở các giai cấp thống trị phương Đông không mở mang giao thương với phương Tây sớm hơn, chứ đâu phải lỗi tại Khổng tử khiến cho chế độ phong kiến TQ trì kéo 2000 năm, Việt Nam non 1000 năm! 

Văn Miếu- Quốc tử giám nghìn năm trầm mặc ở giữa thủ đô Thăng Long- Hà Nội, dân chúng và trí thức chẳng hề phàn nàn (họ chỉ phàn nàn cái bức tượng một ông Tây đứng giơ tay chỉ trỏ ở một vườn hoa gần bờ Hồ Hoàn Kiếm vài chục năm qua mà đặt thơ lục bát giễu nhại chơi). Người Việt Nam, kể cả nhà nước ngày nay vẫn tự hào về Văn Miếu- Quốc tử giám, coi đó như biểu tượng văn hoá nghìn năm của mình, cái cổng vào là Khuê văn các (bên trong cổng chính) được chọn là biểu tượng logo Hà Nội, hễ có khách quốc tế thì thế nào cũng dẫn họ đến đó chiêm ngưỡng. Tôi chưa biết một quan điểm nào phê phán quần thể kiến trúc đó. 

Liên hệ đến Karl Marx, dù ông là kẻ thù của chủ nghĩa tư bản (theo cách nhìn của những người cộng sản), nhưng nước Anh tư bản thâm niên cổ thụ vẫn tôn trọng ông trong công viên nghĩa trang Highgate với mộ phần cả gia đỉnh và tượng đài Marx trang nghiêm ở đó. Có thể, người ta coi ông là nhà phản biện vĩ đại không tự nguyện, vô hình trung giúp chủ nghiã tư bản tự cải thiện mình. Có thể, người ta gạn đục khơi trong, chọn ra được những trước tác triết học của Marx có ích cho tư duy nhân loại. Họ chỉ không cần kỷ niệm cái giải pháp thất bại thảm hại đầy hệ luỵ của ông là “dùng bạo lực chuyên chính vô sản lật đổ chủ nghĩa tư bản” mà thôi. 

Viện Khổng tử, vì thế chỉ là cây cầu truyền bá ngôn ngữ, văn hoá nói chung, đại thể như một “Trung tâm văn hoá Trung Hoa”. Giả sử không có Viện đó thì hiện nay ở nước ta vẫn lai rai nghiên cứu học tập ngôn ngữ và văn hoá TQ (trong đó có Khổng học), tuỳ theo đa dạng nhu cầu của nhân dân và nhà nước… 

Một người bạn đồng nghiệp góp bàn chí lý rằng: Người ta không sợ ông Khổng, hay cái Viện Khổng tử, mà người ta sợ cái kẻ (cả phía TQ lẫn phía VN) đang muốn lợi dụng Khổng giáo cho mục đích riêng họ. Và Khổng giáo cùng Viện Khổng tử bị lên án là vì (vô tình) trở thành công cụ cho những kẻ này. Đạo Khổng có những nội dung bất cập, đồng thời có nhiều điểm hay, nhưng chắc chắn nó chưa đầy đủ. Trong khi người dân VN còn đang rất thiếu hiểu biết về tự do, dân chủ, pháp quyền (những khái niệm xa lạ với Khổng giáo) mà nhà nước không những đã không tạo điều kiện để làm tăng sự hiểu biết của người dân về những vấn đề trên, lại đi lo vun đắp cái tinh thần Khổng giáo, là điều mà truyền thống VN cũng đã thấm nhuần lắm rồi, lại xuất phát từ chủ trương của một anh thực dân (mới nổi lên) là TQ, thì việc ấy chẳng phải cũng đáng lo lắm sao? 

Do đó tôi nghĩ rằng chẳng cần phải lo ngại Viện Khổng tử sắp mở ở Việt Nam nhưng chúng ta vẫn thường xuyên nâng cao cảnh giác. 

Mời đọc tham khảo (trích bài viết của tác giả Huỳnh Văn Út trên Trần Nhương blog): 

“Viện Khổng Tử thuộc Trường Đại học McMaster University Canada bị đóng cửa từ tháng 7/2013 sau năm năm hoạt động. Học viện này bị chỉ trích là được chỉ đạo bởi Tổng Lãnh sự Trung Quốc tại Canada để làm công tác tình báo nhằm chi phối và gây ảnh hưởng tới các quan chức bản xứ. Người Anh cho rằng sự tồn tại của Viện Khổng Tử ở Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị Luân Đôn (LSE- London School of Economics and Political Science) là một điều kỳ quặc vì Khổng Tử vốn trọng Nho học và xem khinh buôn bán. Tờ China Daily đưa ra một thống kê cho rằng có 64 Viện Khổng Tử đang hoạt động trong các trường đại học ở Mỹ (Cũng tờ báo này lại mâu thuẩn khi đưa ra một thống kê rằng có 81 Viện Khổng Tử ở Mỹ). Năm 2012 có 51 trong số 600 giảng viên người Trung Quốc làm việc trong các Viện này buộc phải về nước vì vi phạm luật di trú của Mỹ”. 

Thế đấy, Viện Khổng tử sắp mở, hàng ngàn lao động TQ bất hợp pháp đang tồn tại trên đất VN, phim Tàu bá chiếm hầu hết đài truyền hình trung ương và địa phương suốt ngày đêm, cái nào cũng đáng ngại cả. 

10 nhận xét :

  1. Rất đồng ý với tác giả qua nhận định " Do đó tôi nghĩ rằng chẳng cần phải lo ngại Viện Khổng tử sắp mở ở Việt Nam nhưng chúng ta vẫn thường xuyên nâng cao cảnh giác."
    Thật ra với tỉnh hình của đất nước ta hiện nay bọn Tàu hình như muốn gì được nấy. Biển đảo của ta đã mất, đất liền một số cũng đã mất , Hà Tỉnh bây giờ đầy ấp bọn Tàu hóng hách, ngênh ngang mà chính quyền ở đây cũng bó tay ! Thế thì muốn thôn tính nước ta thì cần gì phải lập cái viện KT !
    Bọn Tàu cứ đẫy mạnh chính sách của chúng hiện nay thêm tí nữa thì ta cũng sẽ đồng số phận với Tây Tạng mà thôi.

    Trả lờiXóa
  2. Cái kim trong bọc lòi ra ngay khi chưa xây VKT tại VN . Đó là cái văn hóa cho người Tầu đang tràn lan ở VN . Hãy xem H.Kỳ Anh , Hà Tĩnh kìa , rối những nơi khai thác mỏ bauxite, những công trường do TQ trúng thầu, những KCN của TQ khắp nơi trên Đất Nước VN : Hải Phòng, Ninh Bình , LA, Tiền Giang, Bình Dương .. VKT xây sớm để đáp ứng những nhu cầu của người Tầu ! Nước đến chân rồi bà con ơi ! Đã nói ngay mà : của không ngon , nhà đông con cũng hết . Ở ngay bên cạnh cái nhà đông con nhất thế giới không mất cái này cũng mất cái kia . CNXH nhà bác TBT NPT đại thắng ! Cho nên SĐHP cũng chỉ là tạm bợ thôi !

    Trả lờiXóa
  3. Tôn thờ dân chủlúc 01:44 25 tháng 10, 2013

    "Dân chủ" thì không thờ, lại đi thờ "Quân chủ". Đủ biết cái tương lai của dân tộc này đi về đâu rồi !!!

    Trả lờiXóa
  4. Viện KT thành lập xong sẽ: là đầu mối chỉ đạo để đẩy mạnh việc các công ty TQ thắng thầu tất cả các CT ở VN, sẽ tăng cường dạy dân VN cắt đuôi trâu , lột móng bò , chặt cây cổ thụ , gỗ quí, thu mua đỉa, trồng khoai lang...bán cho TQ...

    Trả lờiXóa
  5. Học giới Việt Nam tuy có nghiên cứu, xuất bản sách về Khổng Tử nhưng không bao giờ khuất phục hoàn toàn. Khổng giáo có một số điểm hay như trọng tình nghĩa, dạy con người ta biết tu thân, tề gia, trị quốc, dạy người ta lý thuyết tam cương, ngũ thường...điều này bản thân các học giả như: Đào Duy Anh, Nguyễn Khắc Viện, Ngô Tất Tố, Trần Đình Hượu....và nhiều nhà nghiên cứu đã làm. Tuy nhiên, Khổng giáo dạy người ta trong điều kiện một xã hội "quân chủ" độc tài sẽ là kẻ thù của văn minh tiến bộ. Xã hội giải phóng con người phải là một xã hội dân chủ thực sự và cá nhân phải với tư cách "Công dân" chứ không phải "Thần dân". Thấy Xã hội Việt Nam hiện nay có manh nha dân chủ nên Trung Quốc đã nhanh chóng thành lập Viện nghiên cứu Khổng Tử. Xét ở một góc độ nào đó, viện Nghiên cứu Khổng Tử ra đời sẽ làm cản trở bước đường tự do, dân chủ ở Việt Nam( Tác giả: An Hà)

    Trả lờiXóa
  6. Nhận xét về việc tác dụng của việc áp dụng tư tưởng Khổng Tử vào thực tiễn đất nước, chính Mao Trạch Đông đã từng nói: "Cái học Khổng Tử là cái học "ăn cứt"(Xem: Mao Trạch Đông ngàn năm công tội,(sách tiếng Hoa) xuất bản tại Đài Loan bằng Việt ngữ, 2007).

    Trả lờiXóa
  7. Chính Mao Trạch Đông đã từng nhận xét về tác dụng của học thuyết Khổng Tử: "Cái học Khổng Tử là cái học ăn cứt"(Xem: Mao Trạch Đông ngàn năm công tội, (Bản tiếng Trung Quốc), xuất bản tại Đài Loan). Đủ biết được tư tưởng, âm mưu của bọn Bá quyền bành trướng Bắc Kinh xưa nay như thế nào rồi!

    Trả lờiXóa
  8. tôi biết tôi viêt vài lời tâm sự sau đây- ông diện sẽ không đăng, nhưng tôi là người dân việt naqm xin được nêu vaiof dòng vắn tắt.
    1. nói với anh (hay cụ) PHÙNG HOÀI NGỌC mong hiểu cho, đã viết thì viết chuẩn, đã nói thì noi chính xác- thời kỳ nhà chu chưa hề có HOÀNG Đế , chỉ đến sau này LÝ TƯ hiến kế cho vua Tần xưng đế, để sánh ngang ngũ đế (truyền thuyết),
    2. lâu nay sử sách noi đến Tần mới là phong kiến - theo thiển ý tôi phong kiến ( la phân phong và kiến lập) theo nghĩa đó phong kiến la xã hội co trước cả nhà chu trung quốc,
    CÒN THƯA ANH DIỆN VÀ NHỮNG NGƯỜI PHẢN ĐỐI KHỔNG TỬ- HAY HỌC VIỆN KHỔNG TỬ, CÁC VỊ KHÔNG NÊN ĐỂ CÁI CHỦ NGHĨA DÂN TỘC HẸP HÒI CHE KHUẤT ĐI TẦM NHÌN, CÁI GÌ HAY, THUYẾT NÀO HAY THI TA HỌC , NHƯ MẶT HAY CỦA NHO GIÁO, MÀ TRUNG QUÔC, HÀN QUÓC, NHẬT BẢN VÀ VIỆT NAM SỬ DỤNG, TIỀN NHÂN TA SỬ DỤNG, HỌC HỎI, ĐẾN NAY DẤU TÍCH VẪN CÒN NHIỀU LẮM, NHƯNG TA ĐÂU CÓ BỊ ĐỒNG HÓA, BỊ MẤT NƯỚC, THIẾT NGHĨ NHO GIÁO CÓ CÁI HAY, KHẮC CHẾ CÁI VĂN HÓA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG, ĐEM ĐẾN CHO XÃ HỘI TỐT HƠN, CON CÁI BIẾT KINH TRONG CHA MẸ, CHỮ HIẾU, HỌC TRÒ BIẾT KÍNH TRỌNG THẦY DẠY ( MỘT CHỮ LÀ THẦY), CON DÂN BIẾT ÁI QUỐC, TRUNG VỚI DÂN TỘC, HÀNG XÓM BIẾT ÁI LÂN, CON NGƯỜI TRỌNG CHỮ TÍN VỚI BẠN BÈ, VỢ CHỒNG BIẾT NGHĨA VỚI NHAU, NHÌN XÃ HỘI TA BAO VỤ ÁN ĐAU LÒNG, CŨNG VI THIẾU ĐI NHO GIÁO, PHẬT GIÁO, HAY KITO GIÁO, NẾU BIIETS CHẮT LỌC CÁI HAY CỦA NHO GIÁO, BỔ KHUYẾT TƯ TƯỞNG QUỐC DÂN , ĐỂ VĂN MINH THÌ CÓ GÌ LÀ SAI, ĐỪNG VÌ CÁI CHỒNG LÃNH ĐẠO TRUNG QUỐC MÀ KHƯỚC TỪ CÁI GÌ HAY CÓ LIÊN QUAN TỚI DÂN , VĂN MINH TRUNG QUỐC,

    Trả lờiXóa
  9. Dẫu vẫn biết rằng học thuyết Khổng Tử có điểm hay nhưng nhưng Trung Quốc có áp dụng đâu. Kể từ khi Khổng Tử còn sóng cho đến sau này. Khổng Tử có ước nguyện đem học thuyết của mình ra để cứu đời nhưng không được chấp nhận. Ông liền trở về nước Lỗ để dạy học trò và trước thuật Sau này, vào thời Hán trở đi, Hán Nho đã làm biến dạng học thuyết của Khổng Tử. Đặc biệt với tư tưởng Đại Hán, người Trung Quốc đã coi học thuyết của Khổng Tử như một thứ giáo điều, một thứ "Bùa chú" để đánh lừa nhân dân, đánh lừa lân bang. Chúng ta đã biết trong các tư liệu thư tịch, có bao giờ các học giả Trung Hoa coi các nước là ngang hàng đâu, thay vào đó là các từ miệt thị đại loại như: Man, Di, địch, rợ... rất xa lạ với bình đẳng dân tộc. Điều đó ai cũng biết. Còn cái khẩu hiệu "4 tốt" và "16 chữ vàng" là một sự lừa dối, đường mật và thuốc độc. Nếu mội hành động đều tàn ác mà nói những lời nói suông thì tội ấy chất thành núi. Không thể tin được. Lịch sử đau thương suốt mấy ngàn năm nồi da xáo thịt mà nhân dân Trung Quốc phải cam chịu đã chứng minh. Lịch sử hàng ngàn năm Bắc thuộc và nhiều thế kỷ dân tộc Việt Nam phải luôn luôn đề phòng Bành trướng Bắc Kinh đã chứng minh điều đó. Nguyễn Trài- Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới đã chỉ rõ dân tộc ta luôn lấy nhân nghĩa để thắng hung tàn: "Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí Nhân để thay cường bạo"(Bình Ngô đại cáo). Ngày nay, Đại tướng Võ Nguyên Giáp của thời đại Hồ Chí Minh đã trở thành một vị tướng nổi tiếng thế giới- Vị tướng của Hoà bình đã làm cho kẻ thù cũng phải cúi đầu kính cẩn trước khi Người từ biệt thế giới này. Người đã "Hiển thánh"- Chính Người đã làm cho đất nước này trở nên bất diệt.Đó là thực tiễn nhất- bài học quý giá nhất mà chúng ta cần học và khai thác. Chính người Việt Nam và nhân loại còn phải mất nhiều thời gian, công sức, bút mực để nghiên cứu, tôn vinh. Còn văn hoá Tầu thì chúng ta cần phải cảnh giác bởi nó luôn theo gót của quân xâm lược, của bè lũ tim đen. Đó là sự đối lập của ánh sáng và bóng tối giữa sự sáng trong của trí tuệ thực sự và sự đớn hèn!......

    Trả lờiXóa
  10. Có lẽ chúng ta cần phải đấu tranh quyết liệt để bài trừ hàng hoá Trung Quốc. Toàn hàng rởm, hoa quả tẩm thuốc độc, người trung Quốc nham hiểm. Không buôn bán với Trung Quốc. Không tiếp thu và không hưởng ứng những kế hoạch mà Trung Quốc đã đặt ra trong Thông cáo mà Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường và Nguyễn Tấn Dũng đã thông qua. Nói như GS Nguyễn Huệ Chi: Việc nghiên cứu học thuyết Khổng Tử nên để cho người Việt Nam tự làm. Tôi là người nghiên cứu Lịch sử và văn hoá Việt Nam truyền thống. Tôi cũng nghiên cứu về Trung Quốc, nhưng thấy ý kiến của GS Huệ Chi là rất xác đáng. Những nghiên cứu về văn học và văn hoá của GS Huệ Chi rất hay, tính sử bút rất cao. Chúng ta phải rất lưu ý đến những nghiên cứu, những nhận xét, đánh giá của GS Nguyễn Huệ Chi về trung Quốc. Xin các nhà quản lý, các nhà chính trị lưu ý!!!

    Trả lờiXóa