Nguyễn Xuân Diện
- viết năm 1993
Thăm Cổ Đô, du khách hãy đến thăm Bảo tàng Họa sĩ Sỹ Tốt - bảo tàng nghệ thuật tư nhân đầu tiên của Hà Nội, cùng Đền thờ Thượng thư, nhà thơ Nguyễn Bá Lân, nhà thờ họ Lưỡng quốc Trạng nguyên Nguyễn Sư Mạnh.
Làng Cổ Đô là một làng quê nhỏ bé nằm nép mình bên dòng sông Đà cuộn
sóng. Xuôi xuôi một chút là Ngã Ba Hạc nơi gặp gỡ của ba con sông, ba màu nước lại
là nơi chất chứa bao huyền thoại từ thuở hồng hoang khi “vũ trụ mơ màng, càn
khôn xếch xác”.
Đất Cổ Đô là đất cổ, trước đó có tên là An Đô, sau lại đổi là An Bang, thuộc
huyện Tiên Phong, phủ Quảng Oai, trấn Sơn Tây (nay là huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây).
Xưa, Cổ Đô có nghề dệt lụa. Tương truyền, công chúa Thiếu Hoa, con gái
vua Hùng từ thành Phong Châu sang đây dạy dân nghề tơ lụa. Lụa làng Cổ Đô là sản
vật tiến vua. Lụa Cổ Đô đã đi vào ca dao, nức tiếng cả nước:
Lụa này thật lụa Cổ Đô
Chính tông lụa cống các cô ưa dùng.
Lụa này thật lụa Cổ Đô
Chính tông lụa cống các cô ưa dùng.
Không chỉ có vậy. Làng Cổ Đô còn nổi tiếng là đất văn học. Hình ảnh “Bên
anh đọc sách bên nàng quay tơ” trong câu ca xưa có thể tìm thấy ở nơi này. Theo
quan niệm người xưa, một làng quê trù phú và bình yên phải có “tam thanh” trong
sinh hoạt hàng ngày. “Tam thanh” (ba thứ âm thanh) là: tiếng đọc thơ, bình văn
của kẻ sĩ, tiếng thoi reo lách cách của thôn nữ và tiếng nô đùa của con trẻ.
Làng Cổ Đô là làng có đủ cả “tam thanh”.
Người làng Cổ Đô đã tự hào về truyền thống hiếu học, truyền thống khoa
bảng của quê mình:
Đồn rằng Hà Nội vui thay
Vui thì vui vậy chưa tày Cổ Đô
Cổ Đô trên miếu dưới chùa
Trong làng lắm kẻ nhà Nho có tài.
Sinh ra hoa cống hoa khôi
Trong hai khoa ấy thì tài cả hai.
Và đây tiếng của sinh họat đời thường đã dội vào ca dao:
Gái thì giữ việc trong nhà
Khi vào canh cửi, khi ra thêu thùa
Trai thì đọc sách ngâm thơ
Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa.
Đồn rằng Hà Nội vui thay
Vui thì vui vậy chưa tày Cổ Đô
Cổ Đô trên miếu dưới chùa
Trong làng lắm kẻ nhà Nho có tài.
Sinh ra hoa cống hoa khôi
Trong hai khoa ấy thì tài cả hai.
Và đây tiếng của sinh họat đời thường đã dội vào ca dao:
Gái thì giữ việc trong nhà
Khi vào canh cửi, khi ra thêu thùa
Trai thì đọc sách ngâm thơ
Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa.
Cổ Đô là đất lành, người xưa nói “đất lành chim đậu”. Xưa có một gia đình
vốn quê ở Cẩm Thủy, trấn Thanh Hoa (Thanh Hóa ngày nay) vì nghèo mà phiêu dạt
tới đất này. Người chồng làm nghề chăn vịt, người vợ làm nghề nông tang. Họ đã
sinh ra một ông Tiến sĩ. Đó là Tiến sĩ Nguyễn Sư Mạnh. Vì nhà nghèo, cha mất
sớm, nên 27 tuổi Nguyễn Sư Mạnh mới lều chõng đi thi. Ông đã đỗ Đệ Tam giáp
đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Giáp Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 15 (1484). Sau
Nguyễn Sư Mạnh vì có công lao mà được ban quốc tính (họ Lê) làm quan tới Thượng
thư bộ Lễ, tước Sùng Tín hầu.
Gia phả họ Nguyễn còn ghi rõ, khi ông đang làm Thượng thư bộ Lễ, ông được
cử đi sứ nhà Minh. Lúc vào yết kiến, vua Minh thấy sứ thần nước Nam mặc áo không
cài khuy, cho là xấc xược, bèn hạch tội khi quân (khinh nhờn vua). Sư Mạnh quỳ
xuống tâu rằng:
- Tâu bệ hạ, sứ thần nước Nam đi lâu ngày, sợ khú mất chữ Thánh hiền, cho
nên phải cởi áo ra hong, xin được đại xá!
Vua thấy ông đối đáp mau lẹ, muốn hại người tài nước ta, bèn dựa vào câu trả
lời đó mà xuống chiếu rằng: “Nay Thiên triều đã lạc mất thiên Vi Chính
trong sách Luận Ngữ, nhờ người thuộc thiên kinh vạn quyển chép lại
giúp”. Vua Minh hẹn ba ngày phải hoàn tất. Hai ngày đầu, Sư Mạnh chỉ du ngoạn đó
đây, dạo xem phong cảnh Yên Kinh. Đến gần hết hạn, ông mới ngồi vào án, chép
liền tay, xong thiên Vi Chính, dâng lên. Vua Minh liền lấy sách trong
thư viện ra so thì chỉ có thừa một dấu chấm ở chữ “cộng”. Nhưng đến khi tìm đến
bản gốc thì thấy chữ “cộng” cũng có dấu chấm ấy. Phục tài quá, vua Minh bỏ ý
hại mà phong cho chứcThượng thư lại ban cho áo mũ, thẻ bài như một ông Thượng
thư của Trung Quốc. Bốn chữ “Lưỡng quốc Thượng thư” (Thượng thư ở cả hai nước) ánh
vàng chói lọi từ nơi từ đường họ Nguyễn ở Cổ Đô là nhắc đến chuyến đi sứ vẻ
vang ấy. Cũng ở từ đường, còn có đôi câu đối này:
Luận ngữ nhất thiên, tâm ấn quyển
Thái bình tứ cú, khẩu thành chương.
Luận ngữ nhất thiên, tâm ấn quyển
Thái bình tứ cú, khẩu thành chương.
Nghĩa là:
Một thiên Luận ngữ, khắc rõ trong tim
Bốn câu “Thái Bình”, miệng nói thành áng văn đẹp.
Một thiên Luận ngữ, khắc rõ trong tim
Bốn câu “Thái Bình”, miệng nói thành áng văn đẹp.
“Bốn câu Thái Bình” là nhắc chuyện một bài thơ ứng khẩu đọc dâng
vua Lê Tư Thành của Nguyễn Sư Mạnh.
Đó là chuyện “Lượng quốc Thượng thư” - ông Thượng thư thứ nhất của làng
Cổ Đô. Nhưng làng quê ấy có tới hai ông Thượng thư, ông Thượng thư thứ hai là:
Lục bộ Thượng thư Nguyễn Bá Lân.
Nguyễn Bá Lân là tác giả của bài Ngã Ba Hạc Phú nổi tiếng. Ông vốn
quê gốc ở xã Hoài Bão, huyện Tiên Du, phủ Từ Sơn, xứ Kinh Bắc. Gia phả dòng họ
Nguyễn Bá Lân, do chính Nguyễn Bá Lân và con trai ông là Nguyễn Bá Uông viết,
chép rằng: Tổ tiên ông gặp buổi binh đao loạn lạc, đến lánh binh ở Cổ Đô, sống
bằng nghề dạy học, vì mến cảnh mến người mà nhập tịch ở đây”.
Nguyễn Bá Lân sinh giờ Tuất, ngày 27 tháng giêng năm Canh Thìn (1700).
Cha ông là Nguyễn Công Hoàn, khi ấy đã ba mươi tuổi, mới sinh ông là con đầu
lòng.
Nguyễn Công Hoàn tên hiệu là Mai Hiên, tên chữ là Hạo Nhiên, là một người
tài tử nổi tiếng thời bấy giờ. Ông là người văn tài xuất chúng, trong kinh ngoài
trấn âi ai cũng kính phục. Người ta gọi ông là một trong “Tràng An tứ hổ” (Bốn
con hổ đất Thăng Long). “Tứ hổ” đó là: Nhất Quỳnh, nhị Nham, tam Hoàn, tứ Tuấn.
Nguyễn Công Hoàn, tài ba xuất chúng nhưng về con đường khoa cử thì lận đận. Ông
thường đi dạy học ở khắp nơi. Tới khi Nguyễn Bá Lân 15 tuổi (1714) thì ông mới
trở về nhà chuyên tâm dạy con học hành hàng ngày.
Trong phần Tự thuật về mình, Nguyễn Bá Lân viết rằng cha ông chỉ
dạy ông bằng “một cuốn Xuân Thu (một trong Ngũ kinh) và hơn 20 thiên
sách Lễ ký đều không dày quá 100 trang sách giấy Thanh Hoa”. Và những
câu chuyện Nguyễn Công Hoàn dạy học cho con bắt đầu từ đấy; chuyện xướng họa
văn chương giữa hai cha con cũng bắt đầu từ đấy.
Từ nhỏ, Nguyễn Bá Lân vốn đã ham đọc sách. Thường ngày, bên án của ông
lúc nào cũng bên trái đặt bản dồ, bên phải đặt sách vở. Được cha trực tiếp dạy
dỗ, sự học Nguyễn Bá Lân lại càng tiến tới, chẳng bao lâu thì vượt cả cha mình
(cũng là thầy của mình). Nguyễn Công Hoàn là người phong cách tài tử, tâm tính
khoáng đạt; về văn chương chữ nghĩa thì chẳng chịu nhường ai, nên giữa hai cha
con thường có chuyện thi thố. Chuyện thi thố văn chương giữa hai cha con bao
giờ cũng bắt đầu từ phía ông Hoàn, Bá Lân có cố tránh cũng không được.
Một hôm, cha con ông cùng qua đò, ông Hoàn nhìn thấy đàn dê bên kia sông,
liền ra bài phú với đầu đề: “Dịch đình dương xa phú” (Bài phú xe dê cung cấm).
Ông Hoàn bảo con rằng: “Nếu sang bờ bên kia, ta làm xong trước mà mày chưa xong
thì ta ném mày xuống sông, mày làm song trước mà ta chưa làm xong thì mày ném
ta xuống sông”. Khi thuyền cập đến, bài phú của Nguyễn Bá Lân đã xong, Nguyễn
Công Hoàn mới làm được một nửa. Ông Hoàn bắt ông Lân phải ném mình xuống sông,
ông Lân không dám nghe lời, ông Hoàn liền đánh ông Lân. Bài phú ấy đã được
người đời tán thưởng và truyền tụng. Người ta gọi bài đó là: “Nhất độ giang
thành chương phú” (Bài phú hoàn thành trên một chuyến đò ngang).
Đã có biết bao nhiêu câu chuyện như vậy về cha con Nguyễn Bá Lân được truyền
tụng trong dân gian xứ Đoài, mà đến hôm nay ở vùng quê ấy, chúng ta vẫn còn
được nghe kể. Các sách Đăng khoa lục sưu giảng (của Thượng thư Trần
Tiến, triều Lê Hiến Tông); Tang thương ngẫu lục (của danh sĩ Phạm Đình
Hổ, triều Nguyễn) đều có ghi lại.
18 tuổi, Nguyễn Bá Lân dự kỳ thi Hương và đỗ đầu kỳ đó, gọi là đỗ Giải nguyên.
Hai năm sau, ông lại đỗ kỳ thi Hội và đến khoa thi Đình năm Tân Hợi, niên hiệu
Vĩnh Khánh thứ 3 (1731) Nguyễn Bá Lân đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân.
Nguyễn Bá Lân đã từng làm Thượng thư ở 6 bộ của triều Lê, được phong tước Lễ
Trạch hầu, hàm Thiếu bảo, bậc Ngũ hầu Lão Chúa. Phan Huy Chú trong Lịch
triều hiến chương loại chí đã hết lời ca ngợi phẩm cách trong sạch, cốt
cách thanh cao và liêm khiết của ông trong cuộc đời làm quan từ khi ông 32 tuổi
đến lúc mất (86 tuổi).
Người thời bấy giờ gọi ông là một trong “An Nam tứ đại tài” (Bốn người
giỏi nhất nước Nam).
Đó là bốn ông: Nguyễn Trác Luân, Nguyễn Tông Khuê, Ngô Tuấn Cảnh và Nguyễn Bá
Lân.
Nguyễn Bá Lân là tác giả của bài “Ngã Ba Hạc phú” – “một bài phú
Nôm” có địa vị và ảnh hưởng tích cực nhất định đối với sự phát triển củ “biền
văn Nôm”.
Đến với Ngã Ba Hạc phú là đến với vùng mây nước tươi đẹp, nơi gặp
gỡ của ba con sông ba màu nước xui khiến cảm xúc trào dâng:
Xinh thay! Ngã Ba Hạc
Lạ thay! Ngã Ba Hạc
... Ngóc ngách khôn dò rộng hẹp, dòng biếc lẫn dòng đào.
Lênh láng dễ biết nông sâu, nước đen pha nước bạc.
Xinh thay! Ngã Ba Hạc
Lạ thay! Ngã Ba Hạc
... Ngóc ngách khôn dò rộng hẹp, dòng biếc lẫn dòng đào.
Lênh láng dễ biết nông sâu, nước đen pha nước bạc.
Theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi thì Bạch Hạc thuộc đất Phong Châu
ngày xưa, đất ấy có cây chiên đàn, có chim hạc trắng về đậu ở trên cây nên gọi
là Bạch Hạc. Cảnh đẹp Ngã Ba Hạc được hiện lên với những nét nguyên sơ, hoang
dã:
Ba góc bờ tre văng vắng, huyệt Kim Quy chênh hẻm đá gồng ghềnh.
Một chòm bãi cỏ phơ phơ, hang Anh Vũ thấu lòng sông huyếch hoác.
Ba góc bờ tre văng vắng, huyệt Kim Quy chênh hẻm đá gồng ghềnh.
Một chòm bãi cỏ phơ phơ, hang Anh Vũ thấu lòng sông huyếch hoác.
Cảnh vật khôi nguyên là thế, mấy nét chấm phá về con người cũng hiện lên
rất mực thanh tao:
Rủ dây dù ông Lã máy cần
Trần trã mặc Chử Đổng ngâm nước
Trôi trối dài hơi cốc lặn, mênh mang mây nước ao thành
Vênh vênh thẳng cánh cò bay, sẵn nước doành Ngân bến Bắc.
Thanh tao là thế, mà cũng không chỉ có thế. Ngã Ba Hạc còn là nơi trên bến dưới thuyền tấp nập và sinh động:
Bè khách thương lạ bến, tượng chân quỳ gối lắc cày xuôi
Thuyền ngư phủ trôi dòng, dang nách khom lưng chèo dếch ngược.
Và cứ thế cảm hứng chủ đạo là lòng yêu thiên nhiên quê hương rất mực chân thành xuyên suốt bài phú. Vẻ xinh tươi, tấp nập của bến nước hiện dần lên, như họat cảnh trên màn sân khấu nhờ việc sử dụng ngôn ngữ tài ba và bút pháp độc đáo, với luyến láy thuần thục uyển chuyển pha chút vui tươi dí dỏm gây dư âm vang xa mãi.
Rủ dây dù ông Lã máy cần
Trần trã mặc Chử Đổng ngâm nước
Trôi trối dài hơi cốc lặn, mênh mang mây nước ao thành
Vênh vênh thẳng cánh cò bay, sẵn nước doành Ngân bến Bắc.
Thanh tao là thế, mà cũng không chỉ có thế. Ngã Ba Hạc còn là nơi trên bến dưới thuyền tấp nập và sinh động:
Bè khách thương lạ bến, tượng chân quỳ gối lắc cày xuôi
Thuyền ngư phủ trôi dòng, dang nách khom lưng chèo dếch ngược.
Và cứ thế cảm hứng chủ đạo là lòng yêu thiên nhiên quê hương rất mực chân thành xuyên suốt bài phú. Vẻ xinh tươi, tấp nập của bến nước hiện dần lên, như họat cảnh trên màn sân khấu nhờ việc sử dụng ngôn ngữ tài ba và bút pháp độc đáo, với luyến láy thuần thục uyển chuyển pha chút vui tươi dí dỏm gây dư âm vang xa mãi.
Dường như tất cả tình yêu thiên nhiên đất nước con người của Nguyễn Bá
Lân đã trào lên ngọn bút và gửi gắm trong Ngã Ba Hạc phú này. Không có
tình yêu bền chặt với quê hương, không có sự từng trải và tâm hồn nghệ sĩ sao
có thể viết được một bài phú dậy lên sức sống như vậy được.
Đã mấy trăm năm qua, kể từ khi Ngã Ba Hạc phú ra đời, vậy mà mỗi
khi qua ngã ba sông ấy vẫn nghe như đâu đây âm vang dư ba của bài phú trác
tuyệt này.
Ngã Ba Hạc phú là điểm sáng chói sự nghiệp văn chương của Nguyễn
Bá Lân, nhưng ngoài bài phú đó, ông còn có hàng chục bài phú chữ Hán, cũng đều
là những hòn ngọc xinh đẹp trong chuỗi ngọc của lịch sử văn chương Việt Nam. Các tuyển
tập phú cổ như: Danh phú hợp tuyển, Danh phú tập, Bát Vận phú, Hoàng Lê bát
vận phú đều có tuyển nhiều bài của ông. Đó là: Trương Hàn tư thuần lô
phú, Cung Nhân trúc diệp phú, Giai cảnh hứng tình phú... tất cả đều là
những bài phú chữ Hán mẫu mực.
Ngã Ba Hạc còn đấy, đẹp như thuở xa xưa khi Nguyễn Bá Lân “thấy Ngã Ba
Hạc xinh thay, làm ra một phú”. Hỏi có ai qua bến nước này; ngắm nhìn mây nước
này, chẳng nhớ tới bài phú của người con đất Cổ Đô văn vật ấy.
Phong cảnh làng Cổ Đô. Ảnh: Nguyễn Quốc Ân.
Người xưa nói: “Địa linh nhân kiệt” (đất thiêng thì người giỏi). Đất Cổ
Đô vốn là đất linh cho nên cái tơ duyên văn chương thuở trước còn nối với hôm
nay. Làng Cổ Đô hôm nay, tuy chưa có những tài thơ sánh với Nguyễn Bá Lân,
nhưng làng quê ấy vẫn có người làm thơ, có thơ xuất bản hay in trên sách báo
trung ương. Đó là các nhà thơ và người làm thơ Trần Cẩn, Linh Kha, Khánh Hữu,
Nguyễn Bách, Quốc Trụ... Hiếm có một làng quê nhỏ bé và hẻo lánh nào mà số
người làm thơ và có thơ in nhiều đến thế, ấy là chưa kể đến những người làm thơ
chỉ để cho riêng mình, với tâm sự của riêng mình mà không hề in ở dâu. Cổ Đô có
“Câu lạc bộ những người cao tuổi” sinh hoạt khá đều đặn, một hình thức sinh
họat đầy chất văn hóa, thể hiện một nét đẹp tinh thần của một lớp người ở đây.
Một bài thơ, một vế đối của một người xướng ra được hàng chục bài thơ vế đối
họa lại như là lời đáp “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” của những tâm
hồn bè bạn.
Làng Cổ Đô là làng lụa, làng thơ. Làng Cổ Đô được ôm ấp bởi lũy tre xanh ngăn
ngắt, bởi dòng Hồng Hà trằn sóng đỏ, bởi dải đê như tấm khăn hồng choàng lên
cánh đồng xanh rợn sóng lúa lại là cái đẹp của sắc màu hội họa. Có phải vì sắc màu
quê hương Cổ Đô đẹp là vậy mà làng Cổ Đô đợc trời phú cho một nét đẹp văn hóa
nữa: Làng họa sĩ không? Thật vậy, Làng - họa sĩ, ba tiếng ấy nói lên đầy đủ một
nét đặc trưng nữa của làng Cổ Đô. Ai có thể ngờ rằng, cái làng nhỏ bé ấy ở rất
xa trung tâm văn hóa lớn mà có tới gần hai chục họa sĩ và người làm hội họa
được đào tạo chính quy tại hai trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội và trường Đại học
Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội, hoặc chí ít thì cũng được đào tạo tại Trường Cao
đẳng sư phạm Nhạc -Họa trung ương..
Nói đến giới họa sĩ Cổ Đô, ai là không nhắc họa sĩ lão thành Sĩ Tốt với
những bức tranh nổi tiếng: Tiếng đàn bầu, Bế con... đang được lưu giữ
tại Viện Bảo tàng Mỹ thuật quốc gia. Nhiều bức tranh của họa sĩ hiện đang được
lưu giữ tại các Viện Bảo tàng lớn ở Mỹ, Pháp, Đức, Thụy Điển, Ba Lan... Với gần
1000 bức tranh (trong đó có 100 bức vẽ hoa) được vẽ trong suốt cuộc đời nghệ sĩ
của mình, tên tuổi và vị trí Sĩ Tốt mãi mãi được ghi nhận trong lịch sử Mỹ
thuật hiện đại Việt Nam. Điều rất đáng nói về ông là, từ ông và do ông dìu dắt
mà lớp lớp họa sĩ trẻ của làng ra đời, trưởng thành và được khẳng định trong giới.
Đó là các họa sĩ Sĩ Tuấn, Sĩ Thiết, Ngô Bình Thiểm, Sao Mai, Giang Khích, Nguyễn
Thạch, Trần Hòa và nhiều người khác nữa. Nhận thấy việc phát hiện, bồi dưỡng và
đào tạo những mầm non nghệ thuật phải kịp thời và cần thiết, nên trong cuộc đời
họa sĩ của mình nhất là kể từ khi về hưu tại quê nhà, họa sĩ Sĩ Tốt thường
xuyên tổ chức các lớp dạy vẽ tại nhà với ý thức trách nhiệm và lòng yêu thương
sâu sắc nhất.
Tiếng đàn bầu. Tranh Sỹ Tốt. Hiện đang trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật VN.
Với lớp lớp trò nhỏ của ông, đều không phụ công dạy bảo của thầy đều đã trưởng
thành. Mỗi người công tác ở mỗi cơ quan khác nhau (ở đài truyền hình, ở trong
quân đội, trong các trường sư phạm, trường nghệ thuật hay ở các câu lạc bộ)
song họ đều nghĩ về quê hương, nghĩ về thầy, nghĩ về đồng nghiệp lại càng tăng
thêm tinh thần trách nhiệm và ý thức vươn lên về mọi mặt.
Cổ Đô Làng lụa, làng thơ, làng họa sĩ. Bấy nhiêu đặc trưng của một làng quê
có thể tóm tắt bằng mấy chữ này: Cổ Đô – Làng văn hóa. Cổ Đô xưa và nay có được
những vẻ đẹp văn hóa ấy, chính là do nó được xây dựng trên một cái nền học vấn,
nền tảng ấy do người dân bao đời san đắp, tạo dựng. Người Cổ Đô có truyền thống
hiếu học. Đất Cổ Đô là đất học. Thời phong kiến, Cổ Đô rạng rõ với những ông
Nghè, ông Cống; sang thời Pháp, làng quê này lại tự hào với những Cử nhân, Tú
tài Tây học, và giờ đây ngót 300 Cử nhân, Phó Tiến sĩ của làng càng làm người
Cổ Đô tự hào hơn.
Trọng học, người dân Cổ Đô, dù còn nhiều khó khăn vẫn cố gắng góp công,
góp của xây dựng trường sở, động viên con em mình học hành để chờ đón những vận
hội mới của quê hương đất nước vì một nước Việt Nam phồn vinh. Nhịp sống Cổ Đô
xưa đã vui vẻ là thế, mong Cổ Đô sẽ mãi xứng đáng với lời đồn:
Đồn rằng: Hà Nội vui thay
Vui thì vui vậy, chưa tày Cổ Đô.
Đồn rằng: Hà Nội vui thay
Vui thì vui vậy, chưa tày Cổ Đô.
Hà
Nội 10/1993
Đọc anh Diện mới thấy thế nào là làng văn hóa truyền thống của dân tộc Việt, đã xuất hiện từ ngàn xưa, qua bao dâu bể thăng trầm vẫn còn trường tồn, vang động...
Trả lờiXóaThương ơi cái văn hóa đích thực của làng xã cổ truyền Việt Nam... Từ bên kia vòng trái đất người Việt tha hương như tôi đã trên 50 năm vẫn vọng về tổ quốc cũng chỉ vì thấm đọng trong tâm can cái vốn văn hóa này...
Nhìn các khu phố "văn hóa" đô thị ngày nay mà lòng không thể không ngậm ngùi đau xót...
Đăng Quang. đã nói bên trang ANH BA SÀM lúc 04.09.2011 lúc 23:02
Trả lờiXóa-@Bác Nguyễn xuân Diện.
Không biết cách gửi còm ở trang NXD,nên phải mượn đất bên ABS gửi vài ý về loạt bài Thăm
làng Việt cổ trên trang của bác,tức trang NXD.
Đọc cả 4 bài,mình cảm nhận được tình yêu quê hương,đất nước,ông bà,tiên tổ… của các tác giả.Những ai từng có năm tháng tuổi thơ sống
ở nông thôn thì cảm nhận còn có phần thấm thía hơn nữa…
-Ở bài 1,tôi có nghe câu chuyện này: Ngoại thành Hà nội,có xã Tân triều,huyện Thanh trì.Xã có 2 thôn:Yên xá và Triều khúc.Riêng Triều khúc,có tiếng nói nghe khá giống Đường lâm,dẫu có nhẹ hơn.Làng Triều khúc thờ Bố cái Đại vương Phùng Hưng.Trong làng,con kô gọi thân phụ là”bố”,mà chỉ gọi là ba, cha hoặc thầy,vì kiêng trùng với”Bố cái”. Nghe các cụ kể,sau khi đánh xong phủ thành Tống Bình,Đức Bố cái Đại vương cho 1 số quan quân “xuất ngũ”,lập nghiệp ở đây.Cách đây 29 năm,tôi hân hạnh được mời các vị:Hoàng trung Thông,GS Trần quốc Vượng,GS Phạm huy Thông và phu nhân,Xuân Diệu…về dự hội làng vào 9-11 tháng Giêng năm 1982.
-Ở bài thứ 2,nói về cha con Nguyễn công Hoàn-
Nguyễn bá Lân,nếu không nhầm(Vì đọc cách nay chừng trên 40 năm rồi),trong cuốn Giai thoại văn học Việt nam(Tên sách thì chính xác),sau khi ông bố thua ông con,con kô dám quẳng bố xuống sông,bố tẩn con vài phát,rồi nhảy xuống sông tự phạt.Ông con phải nhảy xuống vớt bố lên.
Vài lời trao đổi với bác Lâm Khang.Cảm ơn ABS.
Lâm Khang Nguyễn Xuân Diện đa tạ bác Đăng Quang!
Trước hết cháu cảm ơn bác đã đăng bài viết này để những ai yêu văn hoá, yêu truyền thống làng quê hiểu hơn về một làng truyền thống đã tồn tại hàng trăm năm nay. Thật tự hào với những người được sinh thành từ nơi đây.
Trả lờiXóaTuy nhiên cháu lại không thấy bác đề cập gì đến những thay đổi của làng Cổ Đô hiện nay. Thay đổi là một hằng số của văn hoá, và những thay đổi đó đã thể hiện như thế nào trong nền kinh tế thị trường, trong sự tác động của quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá như hiện nay.
Nếu có thể thì mong bác có thể làm thoả mãn nhu cầu tìm hiểu về văn hoá cưa cháu và một số người khác.
Cháu cảm ơn bác
Chúc bác luôn mạnh khoẻ và công tác tốt
Ở những nơi như Mỹ , cụ thể là Tp San Jose , bang CA ,khi muốn phá bỏ những di sản cũ để xây một TP hiện đại , HĐTP sẽ họp lại, mời nhân dân và các nhà chuyên môn tới đánh giá các di tích, cái nào đáng để lại thì để lại, cái nào cần di dời, người ta sẽ dành một khu đất và cố gắng di dời những di sản đến đó, không di dời được thì tạo lại mô hình trong khu đất dành cho TP cổ thu nhỏ và bảo tồn nó như một báu vật , là tài sản chung của TP và của QG !
Trả lờiXóanhững trang đáng đọc của NXD!Bây giờ ở mỗi làng quê hay phố phường rất hiếm nơi tụ họp như làng xưa:" Trẻ con phải có san chơi _thanh niên nam nữ có nơi hội hè ".có như vậy thì cội nguồn đất nước mới thức tỉnh ,xuất hiện nhân tài phụng sự non sông . mong "Ngươi Xây Dựng" (NXD) có nhiều bài như vầy...
Trả lờiXóaLàng Cổ Đô:
Trả lờiXóaHình bóng ngôi đình cũ nay đã không còn, chỉ còn nền đình bằng đá xanh
Ngôi miếu thờ đầu làng cũng được thay đổi nhưng còn giữ kiến trúc cũ
http://huynh.tamh.free.fr/kien%20truc%20co/son%20tay%20003.htm
Tuyệt lắm!
Trả lờiXóaNhững bài viết như thế này làm người đọc hiểu biết về quê hương đất nước, rất tuyệt vời, rất thích thú và càng yêu mến đất nước nhiều hơn!
Xin cảm ơn Xuân Diện, cảm ơn các tác giả đã mang kiến thức đến mọi người bằng những đoản văn tuyệt hay...