Hiển thị các bài đăng có nhãn thơ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn thơ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 18 tháng 9, 2025

MỘT CUỐN SÁCH HAY VỪA XUẤT BẢN VỀ THƠ HOÀNG ĐẾ THIỆU TRỊ


MỘT CUỐN SÁCH HAY VỪA XUẤT BẢN 
VỀ THƠ HOÀNG ĐẾ THIỆU TRỊ, TRIỀU NGUYỄN 
 
Sáng Chủ nhật 14.9.2025, tại Nhà Thái học, Văn Miếu – Quốc Tử Giám Hà Nội, Hội đồng hương TP Huế, CLB Văn hóa Huế tại Hà Nội, phối hợp với TT Hoat động Văn hóa khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám và ThaiHabooks tổ chức buổi giao lưu,giới thiệu sách: THƠ HOÀNG ĐẾ THIỆU TRỊ, ĐỈNH CAO NGHỆ THUẬT NGÔN TỪ của tác giả Nguyễn Phước Hải Trung.
 
Đông đảo các nhà văn, nhà biên khảo, dịch thuật, nghiên cứu, nhà báo và thành viên CLB Văn hóa Huế đã có mặt với sự hiện diện của Nhà thơ Trần Nguyên Vấn – Chủ tịch CLB Văn hóa Huế, PGS. TS Trương Đăng Dung, Nhà văn Trần Thanh Cảnh, TS. Nguyễn Xuân Diện, TS. Nguyễn Anh Minh – Giám đốc Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, TS. Lê Xuân Kiêu, Giám đốc Trung tâm VM-QTG, ông Đỗ Kim Cơ – Giám đốc Công ty TNHH Sách và Truyền thông Việt Nam, KTS Hoàng Việt Trung – Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích Cố Đô Huế, v.v.

Thứ Hai, 14 tháng 4, 2025

HỒ GƯƠM PHÚ - Nguyễn Xuân Diện


HỒ GƯƠM PHÚ 

Thiêng thay! Hồ Gươm!
Đẹp thay! Hồ Gươm!

Tự thuở hồng hoang:
Dòng Nhĩ Hà quặn khúc thành hồ
Đỉnh Nùng Lĩnh mạch xoay nên thế

Tụ khí non sông ngưng đọng thành sương
Hun đúc cổ kim kết tinh nên sử

Vậy nên mới có:
Điếu Ngư Đài chếch nắng chiều, vẽ bóng ai câu
Lầu Khánh Thuỵ quyện sương khuya, tạc hình ai đợi

Gươm Thần sự tích còn truyền
Thơ Thánh cửa huyền còn dấu

Tháp Bút nghiêng nghiêng dầm mực đề thơ
Đài Nghiên chênh chếch chừng đòi thêm nước

Bốn bề cây cỏ rườm rà
Quanh năm móc sương vấn vít

Kìa trường Vũ Thạch rộn rã tiếng sĩ tử bình văn
Nọ xưởng Hàng Khay quệch quạc tay nghệ nhân gõ búa

Chuông chùa Báo Ân triêu mộ ngân nga
Khánh đền Ngọc Sơn sớm chiều rộn rã

Đền Đông Hương nghi ngút khói hương tưởng nhớ vị Nữ thần
Tháp Hoà Phong lừng lững rêu phong nhắc chuyện ông Tổng trấn.

Thứ Bảy, 22 tháng 2, 2025

BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG - Thơ Hoàng Cầm. Ngâm thơ: Nguyễn Xuân Diện



BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG

Thơ Hoàng Cầm (Việt Bắc, tháng 4-1948)

Trình bày: Nguyễn Xuân Diện
Đàn tranh: Tiến sĩ - NSUT Hải Phượng.

Thực hiện tại làng quê của Thi sĩ Hoàng Cầm - làng Lạc Thổ, Thuận Thành, Bắc Ninh, trong tư gia Anh Đỗ Quang Tuấn. Ngày 16/1/2022.

Bên kia Sông Đuống

Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì

Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay

*
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa trăm ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?

Thứ Hai, 17 tháng 2, 2025

TƯỞNG NIỆM ĐỒNG BÀO VÀ CHIẾN SĨ TỬ TRẬN TRONG CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI (1979- 1989)


VĂN TẾ TƯỞNG NIỆM ĐỒNG BÀO VÀ CHIẾN SĨ TỬ TRẬN TRONG CUỘC CHIẾN TRANH VỆ QUỐC CHỐNG QUÂN TRUNG QUỐC XÂM LƯỢC (1979- 1989)
 
 
Hỡi ơi!
Thấm thoắt đã BỐN SÁU năm
Mới đấy đã thành thiên cổ!
 
Trời biên giới ầm vang tiếng súng, thanh niên lớp lớp lên đường
Miền biên cương máu nhuộm đỏ sông, dân chúng nhà nhà tan tác
 
Nhớ linh xưa:
 
Chiến sĩ tòng chinh
Tuổi hoa niên đang bận sách đèn
Lòng trai tráng chứa bao mơ ước
 
Đáp lời non sông, hăm hở lên đường
Từ biệt quê hương, gạt niềm thương nhớ
 
Súng bắn chưa quen, quân sự đôi bài, đánh giặc bằng lòng căm hận
Chiến trận chưa từng, ba lô một gánh, nhắm bắn bằng nỗi hờn căm.
 
Nhân dân biên giới
Đang yên ổn làm ăn, đâu ngờ phút chốc loạn ly
Gặp buổi thanh bình, ai tưởng được điều thảm khốc
 
Pháo giao thừa vừa nổ, hội xuân vừa mở rộn ràng
Năm mới vừa sang, hy vọng ngập tràn phơi phới
 
Đì đùng súng bắn, trẻ con vẫn tưởng pháo giao thừa
Loa réo vang trời, cụ già còn ngờ loa hội mở
 
Thương thay!
Chiến đấu ngoan cường, xông thẳng nơi mũi tên hòn đạn
Kiên trung giữ đất, sợ chi nơi súng nổ pháo rền.
 
Máu loang mặt đèo, mùi thuốc súng khét lẹt còn vương
Xác nghẽn gềnh sông, tiếng kêu thương ngút trời đau xé
 
Địch giết người không ghê tay
Địch nã pháo không ngừng nghỉ
 
Hãm hiếp đàn bà, lộ mặt loài dê chó. Tiếng kêu thương xé nát một góc trời
Cắt đầu trẻ nhỏ, hiện rõ lũ sài lang. Hồn oan khuất vật vờ miền biên viễn.

Ôi!
Máu xương gửi lại biên cương
Hồn phách tụ về nơi đền miếu
 
Tuổi thanh xuân dâng Tổ quốc ngàn năm
Hoa chiến thắng dâng Đất Mẹ vạn thưở.
 
Đền nợ nước nào đợi vinh danh
Chết vì dân đâu chờ tưởng vọng
 
Hôm nay
Tưởng niệm 46 năm ngày kết thúc chiến tranh
Thương nhớ 60 ngàn đồng bào ra đi vĩnh viễn
 
Chúng tôi
Đốt nén hương thơm
Dâng vòng hoa thắm
 
Đơn sơ lễ bạc lòng thành
Thành kính tâm hương dâng cúng
 
Cúi xin chư vị anh linh sống khôn thác thiêng
Phù trợ cho Non sông đất nước thăng bình muôn thưở
 
Cũng xin chư vị
Trừng trị thích đáng
Những kẻ cố tình vong ân bội nghĩa
Những kẻ quên hết công lao và máu xương của chư vị anh linh.
Những kẻ cam tâm bán nước, theo giặc
 
Lại xin chư vị anh linh, cùng chúng tôi:
Nguyền rủa đời đời bọn bành trướng Bắc Kinh
Nhắc nhở muôn năm mối thù truyền kiếp!
 
Hỡi ơi!
 
Hồn có linh thiêng
Xin về nhận hưởng!
 
Nguyễn Xuân Diện phụng soạn (2013).
 
Ảnh: Đền thờ các AHLS ở Vị Xuyên
 

Thứ Ba, 7 tháng 1, 2025

BÁT CÔ TÔ HAY LÀ BÁT Ô TÔ?


BÁT CÔ TÔ HAY LÀ BÁT Ô TÔ?
 
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
 
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn.
 
楓橋夜泊
 
月落烏啼霜滿天,
江楓漁火對愁眠。
姑蘇城外寒山寺,
夜半鐘聲到客船
 
Phong Kiều dạ bạc
 
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hoả đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
 
Dịch nghĩa:
 
Trăng lặn, quạ kêu, sương phủ đầy trời.
Hàng phong bên sông, ngọn đèn thuyền chài ở trước người đang ngủ buồn.
Ngoài thành Cô Tô là chùa Hàn San,
Tiếng chuông lúc nửa đêm vẳng đến thuyền khách.
 
Tản Đà dịch:
 
Đêm đỗ thuyền ở bến Phong Kiều
Trăng tà chiếc quạ kêu sương
Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn.

*Gần đây, có người nói bản dịch này là của Giải nguyên Nguyễn Hàm Ninh. 
 
Đây là bài thơ của Trương Kế đời Đường, TQ. Tương truyền, ông làm bài này khi đến bến Phong Kiều và ngủ lại ở đó. Khi làm xong 2 câu đầu thì mãi ko viết được nữa. Lúc ấy sư cụ chùa Hàn Sơn cũng tức cảnh sinh tình làm thơ về trăng nhưng làm được 2 câu thì tắc, không kết được. Bấy giờ sư cụ khơi trầm thắp nhang xin Phật, thì kết ngay được một bài tứ tuyệt rất hay. Sư cụ mừng quá, sai chú tiểu lên đánh chuông tạ ơn Phật. Chùa không có gõ chuông lúc nửa đêm, nhưng đêm ấy tiếng chuông ngân nga giữa đêm khuya khiến mọi người đều lạ.

Thứ Tư, 13 tháng 3, 2024

Kha Tiệm Ly: VĂN TẾ TỬ SĨ GẠC MA


VĂN TẾ TỬ SĨ GẠC MA

Kính dâng 64 anh linh của những anh hùng hy sinh vì tổ quốc thân yêu
tại Gạc Ma ngày 14/3/1988

Tác giả: Kha Tiệm Ly

Ôm hận thù biển cao sóng hờn căm,
Phủ tang tóc mây che màu u uất.

Giọt máu hồng làm mặn nước biển đông,
Khăn sô trắng phủ đau trời tổ quốc!

Nhớ xưa,

Anh em ta cùng giống Tiên Rồng,
Bờ cõi nước trải liền Nam Bắc.

Từ Đồng Quan về Minh Hải, sông vạn ngàn sông
Từ Trường Sơn đến Hoàng Sa, đất muôn dặm đất.

Phơi gan mật thề bảo tồn một cõi biên cương,
Đổ xương máu quyết giữ vững ba miền xã tắc.

Ở sau bếp cũng gặp mặt nữ lưu,
Ra khỏi ngõ lại chạm người hào kiệt!

Điên tiết giặc, Nguyễn Biểu sang sảng lời thơ, thản nhiên ăn cỗ đầu người,
Điếc tai thù, Bình Trọng ngân ngất chí hùng, khinh mạn làm vua phương bắc.

KÍNH VIẾNG HƯƠNG HỒN CHIẾN SĨ GẠC MA (14/3/1988-14/3/2023)


BIỂN ĐÔNG HỒNG MÃI TRÁI TIM NGƯỜI

Kính viếng hương hồn những chiến sĩ Gạc Ma

Tác giả: Trang Hạnh

Biển Đông cơn sóng nghìn trùng
Việt Nam triệu người một mối

Ba mươi năm đau đáu niềm đau,vòng hoa, ngọn nến lung linh
Một vạn ngày xót xa căm giận khối óc, con tim nhức nhói

Đất nước ta: Bốn ngàn năm giữ nước hào hùng

Nam nữ cầm quân cản Bắc, bình Nam mở rộng quốc gia
Nhân dân đoàn kết đánh Tây, đuổi Mỹ giữ nguyên bờ cõi.

CÓ MỘT TƯỢNG ĐÀI PHỤ NỮ HÀ NỘI TRÊN ĐỈNH ĐÈO NGANG


Có một tượng đài người phụ nữ Hà Nội 
trên đỉnh Đèo Ngang 

Nguyễn Xuân Diện 

Trong văn học Việt Nam có một người phụ nữ Hà Nội đã để lại vóc dáng đài các đã mấy trăm năm. Người phụ nữ tài hoa ấy, đứng trước thiên nhiên đất nước đã nói tâm tình của một con người cô đơn nhỏ bé trước vũ trụ, nhưng dường như đã cố giấu đi cả tên tuổi của mình. Mặc dù tên của bà có ý nghĩa là mùi hương thơm nức, nhưng bà vẫn cố giấu đi, ngay cả tên gọi của mình. Người ta cũng không gọi bà bằng tên gọi của chồng bà như những phụ nữ khác. Người ta chỉ gọi bà bằng cái chức vụ của chồng bà mà thôi. Đó là Bà Huyện Thanh Quan. Tên thật của bà là Nguyễn Thị Hinh. Hinh chữ Hán có nghĩa là hương thơm ngào ngạt.

Thứ Ba, 20 tháng 2, 2024

XUÂN NGÀY ẤY - Thơ Trần Đoàn Lâm trong giọng ngâm Xuân Diện

 Tết Xưa. Ảnh: Phan Huy.


Xuân ngày ấy

Trần Đoàn Lâm

Xuân ơi, Tết cũ có còn không?
Ngày ấy, lung linh bếp lửa hồng
Mẹ gói bánh chưng xanh mướt lá
Bố trông nồi bánh đến hừng đông

Ngày ấy xuân về mưa bụi bay
Mẹ ngồi sên mứt vị gừng cay
Có người hàng xóm sang xin nước
Nhấp chén rượu đào chấp chới say

Ngày ấy xuân về phố chợ đông
Đào phai ươm nụ sắc tươi hồng
Cúc vàng thắp sáng ban thờ Phật
Vương vấn mùi nhang tịnh cõi lòng

Ngày ấy xuân về tiếng pháo thưa
Giao thừa mẹ dắt cháu ra chùa
Hái nhành lộc biếc về treo Tết
Mẹ bảo "Năm nay sẽ được mùa"

Lũ trẻ xông xênh quần áo mới
Đợi quà mừng tuổi sớm đầu năm
Giấy hồng xếp nếp chờ khai bút
Mẹ nhủ con ngoan gắng học chăm

Rong ruổi đời con lấm bụi trần
Tha hương chẳng biết mấy mùa xuân
Mẹ không còn nữa xuân hiu hắt
Xuân lỗi hẹn người chậm bước chân

Nhưng khi xuân tới con hằng mong
Khắc khoải giao thừa phút ngóng trông
Quê mẹ ngày nào ran tiếng pháo
Xuân ơi Tết cũ có về không?


Tháng 1 năm 2018.
T.Đ.L

XUÂN NGÀY ẤY
Thơ: Trần Đoàn Lâm 
Đàn tranh: Trần Đoàn Lâm
Ngâm thơ: Nguyễn Xuân Diện

Thứ Sáu, 16 tháng 2, 2024

VĂN TẾ 6 VẠN ĐỒNG BÀO VÀ CHIẾN SĨ TỬ TRẬN (1979 - 1989)


VĂN TẾ ĐỒNG BÀO VÀ CHIẾN SĨ TỬ TRẬN
TRONG CUỘC CHIẾN TRANH VỆ QUỐC CHỐNG QUÂN BÀNH TRƯỚNG TRUNG QUỐC (THÁNG 2 NĂM 1979 - THÁNG 3 NĂM 1989)
Soạn giả: Lâm Khang Nguyễn Xuân Diện

Hỡi ơi!
Thấm thoắt đã bốn nhăm năm
Mới đấy đã thành thiên cổ!

Trời biên giới ầm vang tiếng súng, thanh niên lớp lớp lên đường
Miền biên cương máu nhuộm đỏ sông, dân chúng nhà nhà tan tác


Nhớ linh xưa:

Chiến sĩ tòng chinh
Tuổi hoa niên đang bận sách đèn
Lòng trai tráng chứa bao mơ ước

Đáp lời non sông, hăm hở lên đường
Từ biệt quê hương, gạt niềm thương nhớ

Súng bắn chưa quen, quân sự đôi bài, đánh giặc bằng lòng căm hận
Chiến trận chưa từng, ba lô một gánh, nhắm bắn bằng nỗi hờn căm.


Nhân dân biên giới
Đang yên ổn làm ăn, đâu ngờ phút chốc loạn ly
Gặp được buổi thanh bình, ai tưởng được điều thảm khốc

Pháo giao thừa vừa nổ, hội xuân vừa mở rộn ràng
Năm mới vừa sang, hy vọng ngập tràn phơi phới

Đì đùng súng bắn, trẻ con vẫn tưởng pháo giao thừa
Loa réo vang trời, cụ già còn ngờ loa hội mở


Thương thay!
Chiến đấu ngoan cường, xông thẳng nơi mũi tên hòn đạn
Kiên trung giữ đất, sợ chi nơi súng nổ pháo rền.

Máu loang mặt đèo, mùi thuốc súng khét lẹt còn vương
Xác nghẽn gềnh sông, tiếng kêu thương ngút trời đau xé

Địch giết người không ghê tay
Địch nã pháo không ngừng nghỉ


Hãm hiếp đàn bà, lộ mặt loài dê chó. Tiếng kêu thương xé nát một góc trời
Cắt đầu trẻ nhỏ, hiện rõ lũ sài lang. Hồn oan khuất vật vờ miền biên viễn.


Ôi!
Máu xương gửi lại biên cương
Hồn phách tụ về nơi đền miếu

Tuổi thanh xuân dâng Tổ quốc ngàn năm
Hoa chiến thắng dâng Đất Mẹ vạn thưở.

Đền nợ nước nào đợi vinh danh
Chết vì dân đâu chờ tưởng vọng


Hôm nay
Tưởng niệm 35 năm ngày kết thúc chiến tranh
Thương nhớ 60 ngàn đồng bào ra đi vĩnh viễn


Chúng tôi
Đốt nén hương thơm
Dâng vòng hoa thắm

Đơn sơ lễ bạc lòng thành
Thành kính tâm hương dâng cúng

Cúi xin chư vị anh linh sống khôn thác thiêng
Phù trợ cho Non sông đất nước thăng bình muôn thưở


Cũng xin chư vị
Trừng trị thích đáng

những kẻ cố tình vong ân bội nghĩa
những kẻ quên hết công lao và máu xương của chư vị anh linh

Lại xin chư vị anh linh, cùng chúng tôi:
Nguyền rủa đời đời bọn bành trướng Bắc Kinh
Nhắc nhở muôn năm mối thù truyền kiếp!
Hỡi ơi!
Hồn có linh thiêng
Xin về nhận hưởng!
Năm soạn lần đầu: Mùa Xuân 2013.
.