Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Xuân Diện. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Xuân Diện. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 1 tháng 11, 2025

TRÒN 62 NĂM, NGÀY ANH EM ÔNG NGÔ ĐÌNH DIỆM BỊ SÁT HẠI TẠI SAIGON


Ông Ngô Đình Diệm (3.1.1901 - 2.11.1963) là một nhân vật lịch sử. Lịch sử sẽ phán xét rất công bằng về ông ấy. Tôi không phải là sử gia nên không dám lạm bàn.

Nhưng ông ấy là một người yêu nước (điều này ông Hồ Chí Minh nói). Và ông rất thiết tha với cội nguồn văn hoá dân tộc. Điều này ai cũng biết.
 
Đây là lời tự bạch của Ông Ngô Đình Diệm:
 
"Tôi không phải là thần thánh, tôi chỉ là một người bình thường, tôi chỉ biết thức khuya, dậy sớm làm việc, một lòng hiến dâng đời tôi cho đất nước và dân tộc".

Xin cầu nguyện linh hồn Ông Ngô Đình Diệm được an lạc nơi Nước Chúa, đời đời.!

Ảnh: Chân dung cố Tổng thống Ngô Đình Diệm. Hình ảnh Ông Diệm tiếp Quốc vương Thái Lan và vợ chồng Tổng thống Philippines.

Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2025

CÓ MỘT TƯỢNG ĐÀI NGƯỜI PHỤ NỮ HÀ NỘI TRÊN ĐỈNH ĐÈO NGANG


Nguyễn Xuân Diện
 
Trong văn học Việt Nam có một người phụ nữ Hà Nội đã để lại vóc dáng đài các đã mấy trăm năm. Người phụ nữ tài hoa ấy, đứng trước thiên nhiên đất nước đã nói tâm tình của một con người cô đơn nhỏ bé trước vũ trụ, nhưng dường như đã cố giấu đi cả tên tuổi của mình. Mặc dù tên của bà có ý nghĩa là mùi hương thơm nức, nhưng bà vẫn cố giấu đi, ngay cả tên gọi của mình. Người ta cũng không gọi bà bằng tên gọi của chồng bà như những phụ nữ khác. Người ta chỉ gọi bà bằng cái chức vụ của chồng bà mà thôi. Đó là Bà Huyện Thanh Quan. Tên thật của bà là Nguyễn Thị Hinh. Hinh 馨 chữ Hán có nghĩa là hương thơm ngào ngạt.

Văn chương cổ Việt Nam không có nhiều nữ thi sĩ. Nhưng đặc biệt nhất là có tới hai nữ thi sĩ tên Hương. Một Hồ Xuân Hương ngang tàng, phóng túng. Một Nguyễn Thị Hinh (Hương) đài các, phong lưu.

Hai nữ thi sĩ tên Hương ấy đã đi vào lịch sử văn chương Việt Nam với hai phong cách khác nhau. Và sức lan tỏa của những câu thơ của hai bà đã làm lay động bao thế hệ người đọc Việt Nam. Thơ Hồ Xuân Hương là thơ của một người phụ nữ ngang tàng, nhìn sự vật trong sự biến động và biến chuyển với góc nhìn đầy cá tính. Mỗi sự vật hiện lên trong thơ bà là đều ẩn chứa trong đó khát vọng mạnh mẽ về nữ quyền và về những khát vọng của tình yêu và cả tình dục nữa.


Chân dung Hồ Xuân Hương được vẽ với “yếm đào trễ xuống dưới nương long”, với khuôn mặt tươi tắn, đầy khát vọng và cả chút nhục cảm nữa! Còn Bà Huyện Thanh Quan, một nữ sĩ tên “Hương” khác thì hoàn toàn khác. Bà mang khuôn mặt đầy đặn với nét môi cắn chỉ đoan trang, kiêu sa và kiểu cách của một phụ nữ đài các.

Hiện chưa biết về năm sinh và năm mất của Bà huyện Thanh Quan. Ta chỉ biết bà sinh ra ở làng hoa Nghi Tàm bên bờ Hồ Tây. Rằng bà là người hay thơ, giỏi Nôm. Chồng bà là Lưu Nguyên Ôn, người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông, đỗ Cử nhân năm 1828, từng làm Tri huyện Thanh Quan sau can án bị giáng chức làm việc ở bộ Hình trong kinh đô Huế. Ông huyện Thanh Quan chẳng may mất sớm, khi mới 43 tuổi, bà vẫn ở vậy nuôi con.

Nhắc đến bà huyện Thanh Quan không ai là không nhớ đến chuyện xảy ra lúc chồng bà là Tri huyện Thanh Quan, nhân khi chồng đi vắng, bà nhận được đơn của một thiếu phụ trong huyện xin được đi lấy chồng, thương hoàn cảnh của chị ta, bà đã phê vào tờ đơn bằng mấy câu thơ:
 
Phó cho con Nguyễn Thị Đào
Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai
Chữ rằng “xuân bất tái lai”
Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già!
 
Câu chuyện bà huyện thay chồng phê đơn là một giai thoại văn học rất đẹp. Nó gợi cho ta hình ảnh một bà huyện tự tin và hóm hỉnh. Bà huyện cũng là một phụ nữ nên bà biết thương cái xuân thì của người thiếu phụ. Không biết cô Nguyễn Thị Đào đi lấy chồng, sinh con đẻ cái có đem nhau về chơi với Bà Huyện hay không? Nhưng câu chuyện cũng gợi cho đời sau tưởng tượng ra cảnh nhà bà huyện đầm ấm vui vẻ, vợ chồng cùng thưởng trà dưới nguyệt hay ngâm vịnh xem hoa vô cùng tao nhã và tâm đắc.
Đời vua Minh Mạng, bà được vời vào cung trao cho chức Cung trung giáo tập, dạy dỗ cho các cung phi và công chúa. Điều này xác nhận với chúng ta rằng bà Huyện Thanh Quan là một phụ nữ có đầy đủ “công, dung, ngôn, hạnh” theo đúng chuẩn mực xưa, nên đã được triều đình biết tiếng, được một vị vua sáng là Minh Mạng vời vào cung và giao cho trọng trách này!

Con đường thiên lý Bắc Nam ấy đã từng lưu dấu chân của nữ sĩ tài hoa mà cả trăm năm nay, khách bộ hành, xe kiệu đi qua Đèo Ngang còn thấy dáng hình người phụ nữ lồng lộng và đơn côi trên đỉnh đèo trong một hoàng hôn lữ thứ.
 
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông rợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời – non – nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.

Bài thơ thật buồn. Hình ảnh Đèo Ngang được vẽ bằng mấy nét tiêu sơ, gợi nên cả cái hoang mang của lữ khách. Xa xôi trong đó là một tâm sự về nước non nhà với niềm đau, niềm nhớ niềm thương! Bà huyện đã dừng lại giữa đỉnh đèo giữa trời mây non nước bao la, và nỗi cô đơn xâm chiếm tâm hồn bậc tài nữ trong mấy chữ “ta với ta”. Bà đã đứng khựng lại giữa đỉnh đèo mấy trăm năm nay, bóng hình in vào nền trời Đèo Ngang lộng gió, gửi đến hậu thế muôn sau tâm sự của bà.
 
Có lẽ mối duyên với ông huyện Thanh Quan để lại trong bà huyện những dư vị ngọt lành của tình phu phụ, “tương kính như tân” nên thơ của bà huyện là thứ thơ cao sang, đài các và đẹp một vẻ đẹp điển nhã của thi ca cổ.
 
Bà Huyện Thanh Quan để lại 7 bài thơ. Bài thơ nào cũng đài các, sang trọng. Bài thơ nào cũng hoài cổ, luyến nhớ. Nhưng bà nhớ nhất là nhớ nhà, nhớ quê. Trông cảnh chiều thu bà nhớ ngẩn ngơ trong bâng khuâng hoài niệm. Mỗi bước bà đi là lại “lòng quê một bước nhường ngao ngán/ Mấy kẻ tình chung có thấu là!”.
 
Bảy bài thơ của Bà Huyện là bảy bài thơ Nôm, đều là thơ thất ngôn bát cú mỗi bài tám câu, mỗi câu 7 chữ. Nghiêm ngắn, trang trọng. Mỗi bài là một bức tranh thủy mặc được vẽ lên như những bức tứ bình đẹp. Mỗi bức tranh ấy gói ghém tâm trạng của bà. Buồn mà không bi lụy. Có cả những tâm sự hoài cổ của một phụ nữ trước cảnh dâu bể với những hành cung miếu điện của những triều vua đã đi qua. Và hơn hết là cái nhìn đầy thương mến với những cảnh vật tiêu sơ, nơi đèo heo hút gió, những ngư ông và bác tiều phu, những mục đồng lùa trâu về những thôn xa vắng.

Bà Huyện Thanh Quan tên là Hinh, với nghĩa là mùi hương ngào ngạt. Bà không mang tên chồng mà chỉ mang tên chức vụ của chồng. Chức vụ ấy trong đời làm quan của chồng bà cũng rất ngắn ngủi. Bà cũng chỉ để lại cho đời ngót chục bài thơ Đường luật Nôm vuông chằn chặn. Vậy mà vẻ cao sang đài các, kiêu sa từ từng con chữ trong những bài thơ đều mỗi bài 56 chữ ấy đã lan tỏa khắp thi đàn nước Việt trải đã mấy trăm năm.

Tình nước non non nước của người phụ nữ ấy như đã hòa cùng con cuốc cuốc, cái gia gia trong thơ bà cứ da diết, da diết vọng đến hôm nay và muôn sau.

Có thi sĩ đã từng viết về một loài hoa có những “bông hoa nhỏ giấu mình trong cỏ; thơm hết mình mà chẳng thấy hoa đâu”. Phải chăng bông hoa ấy là bà Huyện Thanh Quan hương thơm ngát thi đàn nước Việt mà lai lịch hành trạng thì còn đang đánh đố hậu thế.

Ai có dịp qua Đèo Ngang, hãy ngước nhìn đỉnh đèo non nước trời mây bao la, trên đó là một tượng đài bà Huyện Thanh Quan lồng lộng ở mãi với thời gian…
 
N.X.D

Ảnh: Trịnh Thanh Nhã - Thanh Sơn.

Thứ Hai, 14 tháng 4, 2025

HỒ GƯƠM PHÚ - Nguyễn Xuân Diện


HỒ GƯƠM PHÚ 

Thiêng thay! Hồ Gươm!
Đẹp thay! Hồ Gươm!

Tự thuở hồng hoang:
Dòng Nhĩ Hà quặn khúc thành hồ
Đỉnh Nùng Lĩnh mạch xoay nên thế

Tụ khí non sông ngưng đọng thành sương
Hun đúc cổ kim kết tinh nên sử

Vậy nên mới có:
Điếu Ngư Đài chếch nắng chiều, vẽ bóng ai câu
Lầu Khánh Thuỵ quyện sương khuya, tạc hình ai đợi

Gươm Thần sự tích còn truyền
Thơ Thánh cửa huyền còn dấu

Tháp Bút nghiêng nghiêng dầm mực đề thơ
Đài Nghiên chênh chếch chừng đòi thêm nước

Bốn bề cây cỏ rườm rà
Quanh năm móc sương vấn vít

Kìa trường Vũ Thạch rộn rã tiếng sĩ tử bình văn
Nọ xưởng Hàng Khay quệch quạc tay nghệ nhân gõ búa

Chuông chùa Báo Ân triêu mộ ngân nga
Khánh đền Ngọc Sơn sớm chiều rộn rã

Đền Đông Hương nghi ngút khói hương tưởng nhớ vị Nữ thần
Tháp Hoà Phong lừng lững rêu phong nhắc chuyện ông Tổng trấn.

Thứ Hai, 24 tháng 3, 2025

PHỦ VÂN CÁT LÀ NỀN NHÀ CŨ VÀ LÀ NƠI GIÁNG SINH MẪU LIỄU HẠNH


PHỦ VÂN CÁT LÀ NỀN NHÀ CŨ
VÀ LÀ NƠI GIÁNG SINH THÁNH MẪU LIỄU HẠNH 
 
Quần thể di tích Phủ Dày, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định bao gồm Phủ Vân Cát, Phủ Tiên Hương, Khu lăng Mẫu Liễu Hạnh và các đền phủ đình chùa xung quanh. 
 
Tại Phủ Vân Cát có nhiều bức hoành phi, nhiều đôi câu đối xác nhận đây chính là NHÀ CŨ (cố trạch) và là nơi Mẫu Liễu Hạnh GIÁNG SINH (được xem như là nơi chôn nhau cắt rốn của Mẫu). Xin dẫn chứng các bức hoành phi và một đôi câu đối có hình ảnh kèm theo đây.

Thứ Bảy, 22 tháng 2, 2025

BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG - Thơ Hoàng Cầm. Ngâm thơ: Nguyễn Xuân Diện



BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG

Thơ Hoàng Cầm (Việt Bắc, tháng 4-1948)

Trình bày: Nguyễn Xuân Diện
Đàn tranh: Tiến sĩ - NSUT Hải Phượng.

Thực hiện tại làng quê của Thi sĩ Hoàng Cầm - làng Lạc Thổ, Thuận Thành, Bắc Ninh, trong tư gia Anh Đỗ Quang Tuấn. Ngày 16/1/2022.

Bên kia Sông Đuống

Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì

Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay

*
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa trăm ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?

TƯỞNG NHỚ THI SĨ HOÀNG CẦM NHÂN 103 NĂM SINH (1922 - 2025)

 
Thi sĩ Hoàng Cầm. Ảnh: Tư liệu.

Tưởng nhớ Thi sĩ Hoàng Cầm, nhân 103 năm sinh (22.2.1922 - 22.2.2025)
Nhớ đêm ả đào cuối cùng của tác giả 
"Lá Diêu Bông"

Nguyễn Xuân Diện
VTC Thứ sáu, 07/05/2010, 01:02 AM

(VTC News) - Thi sĩ Hoàng Cầm đã nhẹ bước vào cõi hư không, để lại một di sản tinh thần độc đáo, tài hoa, in dấu ấn riêng biệt trong lịch sử văn chương Việt Nam. Là người yêu thơ Hoàng Cầm, TS Ca trù Nguyễn Xuân Diện từng may mắn có mặt trong một đêm sinh nhật của thi sĩ cách đây hơn 1 năm, khi những người yêu quý tặng thi sĩ một đêm ả đào ngay tại tư gia ông. VTC News đăng tải bài viết của TS Nguyễn Xuân Diện như một lời tưởng niệm đến nhà thi sĩ lừng danh của Kinh Bắc.

Thứ Hai, 17 tháng 2, 2025

TƯỞNG NIỆM ĐỒNG BÀO VÀ CHIẾN SĨ TỬ TRẬN TRONG CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI (1979- 1989)


VĂN TẾ TƯỞNG NIỆM ĐỒNG BÀO VÀ CHIẾN SĨ TỬ TRẬN TRONG CUỘC CHIẾN TRANH VỆ QUỐC CHỐNG QUÂN TRUNG QUỐC XÂM LƯỢC (1979- 1989)
 
 
Hỡi ơi!
Thấm thoắt đã BỐN SÁU năm
Mới đấy đã thành thiên cổ!
 
Trời biên giới ầm vang tiếng súng, thanh niên lớp lớp lên đường
Miền biên cương máu nhuộm đỏ sông, dân chúng nhà nhà tan tác
 
Nhớ linh xưa:
 
Chiến sĩ tòng chinh
Tuổi hoa niên đang bận sách đèn
Lòng trai tráng chứa bao mơ ước
 
Đáp lời non sông, hăm hở lên đường
Từ biệt quê hương, gạt niềm thương nhớ
 
Súng bắn chưa quen, quân sự đôi bài, đánh giặc bằng lòng căm hận
Chiến trận chưa từng, ba lô một gánh, nhắm bắn bằng nỗi hờn căm.
 
Nhân dân biên giới
Đang yên ổn làm ăn, đâu ngờ phút chốc loạn ly
Gặp buổi thanh bình, ai tưởng được điều thảm khốc
 
Pháo giao thừa vừa nổ, hội xuân vừa mở rộn ràng
Năm mới vừa sang, hy vọng ngập tràn phơi phới
 
Đì đùng súng bắn, trẻ con vẫn tưởng pháo giao thừa
Loa réo vang trời, cụ già còn ngờ loa hội mở
 
Thương thay!
Chiến đấu ngoan cường, xông thẳng nơi mũi tên hòn đạn
Kiên trung giữ đất, sợ chi nơi súng nổ pháo rền.
 
Máu loang mặt đèo, mùi thuốc súng khét lẹt còn vương
Xác nghẽn gềnh sông, tiếng kêu thương ngút trời đau xé
 
Địch giết người không ghê tay
Địch nã pháo không ngừng nghỉ
 
Hãm hiếp đàn bà, lộ mặt loài dê chó. Tiếng kêu thương xé nát một góc trời
Cắt đầu trẻ nhỏ, hiện rõ lũ sài lang. Hồn oan khuất vật vờ miền biên viễn.

Ôi!
Máu xương gửi lại biên cương
Hồn phách tụ về nơi đền miếu
 
Tuổi thanh xuân dâng Tổ quốc ngàn năm
Hoa chiến thắng dâng Đất Mẹ vạn thưở.
 
Đền nợ nước nào đợi vinh danh
Chết vì dân đâu chờ tưởng vọng
 
Hôm nay
Tưởng niệm 46 năm ngày kết thúc chiến tranh
Thương nhớ 60 ngàn đồng bào ra đi vĩnh viễn
 
Chúng tôi
Đốt nén hương thơm
Dâng vòng hoa thắm
 
Đơn sơ lễ bạc lòng thành
Thành kính tâm hương dâng cúng
 
Cúi xin chư vị anh linh sống khôn thác thiêng
Phù trợ cho Non sông đất nước thăng bình muôn thưở
 
Cũng xin chư vị
Trừng trị thích đáng
Những kẻ cố tình vong ân bội nghĩa
Những kẻ quên hết công lao và máu xương của chư vị anh linh.
Những kẻ cam tâm bán nước, theo giặc
 
Lại xin chư vị anh linh, cùng chúng tôi:
Nguyền rủa đời đời bọn bành trướng Bắc Kinh
Nhắc nhở muôn năm mối thù truyền kiếp!
 
Hỡi ơi!
 
Hồn có linh thiêng
Xin về nhận hưởng!
 
Nguyễn Xuân Diện phụng soạn (2013).
 
Ảnh: Đền thờ các AHLS ở Vị Xuyên
 

Thứ Hai, 10 tháng 2, 2025

"SƠN TÂY TỨ QUÝ"


Sơn Tây tứ quý

Nguyễn Xuân Diện

Trong số bạn bè của tôi, có một tay rất sành sỏi trong sự ẩm thực, có nhiều dịp được thưởng thức của ngon vật lạ khắp nơi. Riêng đất Hà Tây, anh khoe đã đến bánh dầy Quán Gánh, rượu làng Chuôn, bánh tẻ Cầu Liêu, chè lam làng Thạch, thịt chó - cháo vịt Vân Đình... Tôi phải công nhận đấy là những đồ ăn thức uống ngon.


Thứ Hai, 23 tháng 12, 2024

Nguyễn Xuân Diện: NHƯ THANH NHẬT KÝ (TRỌN BỘ 7 KỲ)


Như Thanh nhật ký (2009)

Lâm Khang chủ nhân

Thưa chư vị,

Hồi giữa năm 2008 Tây lịch, tôi và ông Thiền Phong, ông Chuyết Chuyết được cử đi Xứ Thanh để khảo cổ tích. Tôi có viết một cái Như Thanh nhật ký (7 kỳ), có đăng trên trang nhà. Như Thanh nhật ký được anh em thích lắm, từ giới giang hồ đến dân bút mực đều tán thưởng.

Thứ Ba, 10 tháng 12, 2024

Nhật ký: THĂM NGHÈ VẸT - NGHĨ VỀ CÔNG NGHIỆP CỦA NHÀ CHÚA


VUA LÊ - CHÚA TRỊNH SONG TRÙNG QUYỀN LỰC
 
Nguyễn Xuân Diện

Hôm vừa rồi, chúng tôi có tới Nghè Vẹt, ở xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Hiện tại, đây là nơi họ Trịnh thờ cúng các đời Chúa. 
 
Ngẫm về thời các chúa Trịnh tồn tại bên cạnh vua Lê, cũng có những điều thú vị, mà công lao của nhà chúa đối với đất nước cũng không phải hoàn toàn như trong sách vở giáo khoa hay các công trình nghiên cứu của các sử gia quốc doanh. 
 
Vua Lê - Chúa Trịnh, đó chính là mô hình chính trị “song trùng quyền lực”(còn gọi là “lưỡng đầu chế”). Mô hình ưu việt này, mãi về sau mới thấy có ở Nhật Bản và Anh Quốc.
 
Trong suốt 249 năm vua Lê - chúa Trịnh song trùng tồn tại, lãnh thổ đã được giữ vững và không xảy ra một cuộc tấn công xâm lược nào của phương Bắc; không một thước đất nào bị cướp.