Tư liệu về vụ nhà Minh cướp và đốt sách cổ của Việt Nam
LƯỢC KHẢO VỀ THƯ TỊCH CỔ VIỆT NAM DU NHẬP VÀO TRUNG QUỐC
Hà Thiên Niên
(Đại
học Dương Châu, Trung Quốc)
Trong quá trình
giao lưu văn hóa Trung - Việt, không chỉ riêng thư tịch Trung Quốc du nhập vào
Việt Nam mà cũng đã có một số tác phẩm chữ Hán của người Việt Nam ra đời và lưu
truyền ở Trung Quốc. Tứ khố tổng mục có ghi chép một số sách Việt Nam
như An Nam chí lược của Lê Trắc, Nam Ông mộng lục của Lê Trừng,
song chỉ có duy nhất một cuốn sách vốn thuộc về Việt Nam nhưng về sau du nhập
vào Trung Quốc. Đó là Việt sử lược. Bài viết này nhằm tìm hiểu về một số thư
tịch cổ từ Việt Nam
du nhập vào Trung Quốc, nếu có điều gì thiếu sót, kính mong độc giả chỉ giáo.
Niên đại các thư tịch cổ ở đây phần lớn giới hạn từ đời Thanh trở về trước.
Thời Tống, chỉ có
cuốn An Nam biểu trạng của Lý Thiên Tộ tức vua Anh Tông triều Lý (ở ngôi
từ 1138 - 1175) có thể được coi là có nguồn gốc từ Việt Nam. Trong Q.7 sách Trực
Trai thư lục giải đề của Trần Chấn Tôn có viết: “Sách An Nam biểu trạng
là do Lý Thiên Tộ tiến cống năm Thiệu Hưng thứ 25. [Sự giao thiệp hai bên] kể
từ năm Tĩnh Khang thứ 2 đến bấy giờ mới bắt đầu thông suốt”. An Nam biểu trạng
còn được Mã Đoan Lâm nhắc đến trong Văn hiến thông khảo. Năm Thiệu Hưng
thứ 25, tức là năm Đại Định thứ 16 (1155) triều Lý. ở quyển 3 sách Đại Việt
sử ký toàn thư (dưới đây gọi tắt là Đại Việt sử ký), năm Thiên Phù
Duệ Vũ thứ 7 (1126) (niên hiệu Tĩnh Khang thứ nhất đời vua Khâm Tông) có đoạn:
“Tháng (11) nhuận, sai Lệnh thư gia Nghiêm Thường, Ngự khố thư gia
Tứ Diên đem 10 con voi thuần và vàng bạc, sừng tê sang biếu nhà Tống để tạ ơn
việc bắt Mạc Hiền”. Chuyến đi tiến cống này gặp đúng lúc người Kim sang xâm chiếm,
cuối cùng sứ giả đem lễ vật trở về nước, chưa được vào chầu. Việt sử lược
thì ghi chép: “Năm Quý Mão niên hiệu Thiên Thuận thứ nhất (đúng ra phải là năm
Mậu Thân, 1128), (Lý Thần Tông) sai người đem thư sang Tống, báo tin việc tang
vua Nhân Tông và việc vua lên ngôi. Lúc bấy giờ vua Tống Cao Tông chạy loạn
người Kim, đã sang sông, đóng đô ở Lâm An”. Nếu vậy thì từ niên hiệu Kiến Viêm
trở đi, nước Việt vẫn có sứ sang Trung Quốc chứ không phải như Trực Trai thư
lục đề giải nói rằng đến năm Thiệu Hưng thứ 25 mới bắt đầu thông sứ. Về
chuyến triều cống năm Thiệu Hưng thứ 25, Tống sử cũng có ghi chép khái quát. Giao
Chỉ truyện chép: Năm Thiệu Hưng thứ 25, (vua) ra chiếu chỉ cho sứ giả An
Nam trọ ở dịch trạm Hoài Viễn để tỏ rõ ân sủng đối với người dị tộc. Lịch sử
Việt Nam không thấy ghi chép về nguyên do của chuyến đi đó. Trong khi đó, Việt
sử lược lại chép về một lần tiến cống khác: “Năm ất Hợi niên hiệu Đại Định
thứ 16 (thời vua Lý Anh Tông, tức năm Thiệu Hưng thứ 25), Tống Cao Tông phong vua
làm Nam Bình vương. Bấy giờ vua bèn sai Ngoại lang Nguyễn Quốc đem đồ lễ vật
sang Tống. Tống Cao Tông ban cho vua áo, đai, yên, ngựa”. Nhưng đây không phải
là chuyến triều cống nhà Tống cùng năm đó mà trên đây đã đề cập, bởi vì Tống
sử. Giao Chỉ truyện chép: Năm Thiệu Hưng thứ 25, “tháng 8, Thiên Tộ sai
bọn Lý Quốc (tức Nguyễn Quốc) đem vàng bạc châu báu, trầm hương, lông chim trả,
ngựa tốt, voi thuần sang cống”. Nếu vậy thì Nguyễn Quốc phải xuất phát từ năm
Đại Định thứ 16 thời Lý Anh Tông, lúc bấy giờ là năm Thiệu Hưng thứ 26 triều
Tống, và trở về nước vào năm Đại Định thứ 19 (tức năm Thiệu Hưng thứ 28). Việt
sử lược và Đại Việt sử ký đều có ghi chép việc này với lời lẽ khá
giống nhau.





