Thứ Tư, 4 tháng 1, 2012

NHÀ BÁO VÀ CÔNG CUỘC CHỐNG THAM NHŨNG

Nguyễn Xuân Diện

Hiện nay, ta đang hô hào chống tham nhũng. Xin hỏi, những kẻ tham nhũng là ai? Nó là những kẻ có chức có quyền, vì phải có chức có quyền thì mới tham được, mới nhũng được. Chức nào cũng có thể tham nhũng, từ chức nhỏ nhất đến chức to nhất. Mà muốn có chức có quyền, tức là muốn được cất nhắc thì phải vào Đảng, phải gia nhập Đảng.

Dân có tham nhũng được không? Xin thưa là Không. Dân chỉ Gian thôi, không tham được. Chỉ Quan mới tham được. Những Đảng viên thường, không có tý chức quyền gì thì cũng không thể tham và nhũng được. Và họ chính là những Đảng viên mà sự trong sạch được đảm bảo nhất.

Những kẻ tham nhũng đều là những kẻ có chức có quyền. Chúng lại có đường dây của nó, rất tinh vi, rất chằng chịt, vì đây là liên minh liên kết chỉ xuất phát và phục vụ cho 2 điều: Giữ ghếKiếm Chác ngày một nhiều hơn. Chính vì vậy, đánh tham nhũng vô cùng khó khăn, vì nó len lỏi và bao che cho nhau. Muốn oánh Tham nhũng phải có quyết tâm thật cao, phải không ngại mất đoàn kết, không ngại hy sinh (kể cả mất chức, mất ghế). Vì sao? Vì oánh tham nhũng là động đến Ghế và Tiền của người ta, mà Ghế là Tiền, Tiền là Ghế. Các cái Ghế lại đã trót nhận tiền của nhau rồi nên rất bảo vệ, bảo kê cho nhau, động đến quyền lợi của một cái Ghế là động đến cả một hệ thống Ghế. Vì thế, người ta hô hào chống tham nhũng rất ghê, cuối cùng thì rất chi là đầu voi đuôi chuột. Ở đâu đó đã thấy sự buông xuôi, đã thấy sự mỏi mệt, đã thấy sự chùn bước, đã thấy sự thoả hiệp.
Chống tham nhũng là đụng chạm đến các Đảng Viên, đến uy tín của Đảng. Rất mong báo chí được tạo điều kiện tốt nhất và được bảo vệ để chống tham nhũng.
Vậy ai là người chống tham nhũng? Xin thưa rằng chỉ có 3 đại diện chống tham nhũng thôi:

Thứ nhất là Các cơ quan chống Tham nhũng do chính phủ lập ra, theo hệ thống từ TW đến địa phương. Tham nhũng rất ít khi đuợc phát hiện ở đây, và chỉ phát hiện được vụ lặt vặt, động đến các Ghế thấp.

Thứ Nhì: Dân. Dân thì đông, nhưng dân trí nước ta thấp. người dân còn thiếu thông tin. Vì thế, khó phát hiện được tham nhũng đã đành, mà khi đã phát hiện có tham nhũng thì cũng rất khó để tìm ra ngọn ngành của nó, mà cũng khó lôi nó ra ánh sáng (do không có nghiệp vụ để truy tìm, không có diễn đàn để công bố, không có chi phí và công cụ để thực hiện). Thế là Dân không đánh được tham nhũng, các vụ tham nhũng đuợc Dân phát hiện và đánh cũng rất nhỏ, lẻ, chủ yếu ở các địa phương. Mà Dân ta vì dân trí thấp ít thông tin nên việc chống tham nhũng trong Dân rất lẻ tẻ, yếu ớt, không chuyên nghiệp và manh động, không đủ kết thành sức mạnh.

Thứ Ba: Nhà báo. Nhà báo là lực lượng chống tham nhũng thiện chiến nhất hiện nay. Vì nhà báo được học hành rất kỹ về nghiệp vụ điều tra. Nhiều nhà báo đã được học một chuyên ngành nào đó trước khi học nghiệp vụ báo chí, hoặc ngược lại, họ đã học báo chí rồi lại tiếp tục học chuyên ngành, lĩnh vực mà mình gắn bó. Nhà báo có nghiệp vụ điều tra, có diễn đàn là tờ báo của mình, có kinh phí do toà soạn trả, và đặc biệt nhất là họ luôn luôn có dũng khí của một kẻ trượng nghĩa, biểt chở che cho dân lành và những người yếu đuối trong xã hội.

Ngoảnh nhìn lại, các vụ đánh lớn đều do báo chí phát hiện, phanh phui và đánh sập. Kẻ tham nhũng dẫu tinh vi đến đâu, ghế dẫu cao thế nào và mối liên hệ chằng chịt thế nào báo chí cũng làm cho ra khiến kẻ tham nhũng phải phơi bụng và lật ghế trước bàn dân thiên hạ.

Nhà báo là đội quân chống tham nhũng thiện chiến như vậy. Vì thế, một chính phủ trong sạch thật sự muốn chống tham nhũng thì phải dựa vào đội ngũ các nhà báo, phải bảo vệ được các nhà báo bằng những cơ chế và văn bản rõ ràng minh bạch. Nếu chính phủ bảo vệ được các nhà báo, các tờ báo chân chính thì không có lo gì không chống được tham nhũng. Chính phủ ấy sẽ làm cho xã hội trong sạch, nhân dân tin yêu. Chính phủ đó nhờ vậy được thọ cùng trời đất. Nhìn vào đội ngũ nhà báo, mở những tờ báo hàng ngày (báo in, báo mạng, báo nói, báo hình,... và tất nhiên cả "báo nói có hình" nữa) là chúng ta biết quyết tâm chống tham nhũng đến đâu!

Việc bảo vệ các nhà báo không những thể hiện ở chỗ có những văn bản bênh vực nhà báo trong khuôn khổ của pháp luật, mà còn ở chỗ tránh cho các nhà báo trước những cám dỗ của bọn tham nhũng. Chúng bảo vệ Ghế và Tiền, tất nhiên chúng sẽ mua các nhà báo bằng tiền, bằng các chuyến du lịch nước ngoài, bằng thiết bị máy móc như máy ghi âm máy quay phim hiện đại, bằng gái, bằng cổ phiếu, v.v…Cũng đã có không ít nhà báo sa bẫy, hoặc đã có một chân sập bẫy của chúng, rồi lại khéo léo mà rút ra được.

Để kết thúc cái bài suy nghĩ này, xin khẳng định rằng nước ta mạnh hay yếu, tham nhũng có bị diệt hay không, dân trí nước nhà có được nâng cao hay ngày một lùn đi, là phụ thuộc vào sức chiến đấu của nhà báo rất nhiều. Nghề báo là một nghề cao quý. Nghề báo cũng là một nghề nguy hiểm. Nhà báo chỉ có một con đường là đi cùng nhân dân. Nhà báo cũng chỉ đi vào lề đường nào mà Nhân Dân Lao Động (không chức quyền) đang đi.
21.6.2010. 
N.X.D


QUỐC NẠN: SỰ VÔ TRÁCH NHIỆM VÀ LÃNG PHÍ MANG TÍNH HỆ THỐNG

Quốc nạn: Sự vô trách nhiệm và lãng phí mang tính hệ thống 

Nguyễn Hoàng
(Bài viết nhân vụ Vinashin thất thoát trên 80 nghìn tỷ)

Sự vô trách nhiệm mang tính hệ thống tất yếu gây ra những lãng phí mang tính hệ thống. Đó là sự lãng phí về cơ hội, các nguồn lực con người và xã hội, tiền của, thời gian, tài nguyên đất nước và phải được coi như một tội ác ghê gớm. Quy mô và sức phá hoại nó rât nặng nề có thể lên đến nhiều tỷ dollar/năm. So sánh về sức tàn phá, tham nhũng chỉ như mấy chú muỗi mắt đặt bên cạnh những con khủng long lãng phí và phá hoại mà thôi. Hiện tại chưa có bất cứ một chế tài nào để chế ngự được loại quốc gia đại nạn này.

Công luận xã hội VN vừa qua đã tập trung bàn nhiều về nạn tham nhũng, hối lộ gọi chúng là quốc nạn.

Nhưng còn có một loại có thể gọi là quốc gia đại nạn. Một cơ chế phá hoại làm thất thoát kinh khủng các nguồn lực quốc gia ngay từ đầu đã nằm cơ hữu trong lòng kinh tế xã hội VN.
Đó chính là sự vô trách nhiệm, lãng phí mang tính hệ thống.

Sự vô trách nhiệm và lãng phí mang tính hệ thống này thường có sức phá hoại giá trị hàng trăm triệu đến nhiều tỷ dollar. So về quy mô tàn phá, tham nhũng chỉ như mấy chú muỗi mắt đặt bên cạnh những con khủng long lãng phí và phá hoại mà thôi.

Kết quả từ loại quốc nạn này thường là sự tàn phá nền kinh tế mang tầm cỡ quốc gia mà đến nay còn ít được bàn thảo. Chỉ riêng một Vinashin đã có tới trên 4 tỷ dollar nợ nần. Nó góp phần gia tăng gánh nặng cho nền kinh tế nghèo VN vốn không ổn định. Nợ quốc gia đã tới gần 50%, điểm phải dừng vì bên kia sẽ là vực thẳm.

Mặc dù đã bắt điều tra 5 vị lãnh đạo trực tiếp của Vinashin, sẽ xác định được các tội cố ý làm trái hay hối lộ, tham nhũng nhưng chắc chắn số tiền tham nhũng chỉ đến hàng chục, ghê gớm lắm mới đến hàng trăm triệu dollar. Vậy hàng tỷ dollar kia vì sao thất thoát, nguyên nhân nào dẫn đến sự lãng phí phá hoại rất kinh khủng này? 

1. Sự vô trách nhiệm mang tính hệ thống:

Ở ta có một nền kinh tế xã hội luôn được vận hành theo cách thức đặc biệt: một nơi ra quyết định, nghị quyết, một nơi thứ hai thực hiện nghị quyết, một nơi khác thứ ba vận hành và nơi cuối cùng là con cháu chưa ra đời sẽ chịu trách nhiệm về mọi hậu quả của nó về sau này.

Hiện thời chẳng ai phải chịu trách nhiệm về các hậu quả của hành động của họ trong một hệ thống ra quyết định liên hoàn như vậy!

Cả một hệ thống đồ sộ tốn kém với hàng triệu quan chức lớn nhỏ nhưng lại tỏ ra trì trệ và vô cảm.

Một bộ máy lập pháp hướng tới thỏa mãn các quyết sách chính trị nhất thời và nhu cầu tự thân của ngành hành pháp hơn là xây dựng một nền pháp trị lâu bền trên nền tảng do dân, vì dân.

Một bộ máy hành pháp, tư pháp đều mang tính tự thân đề cao lợi ích, sự an toàn dựa vao sự vô can của bộ phận mình lên trên toàn cục hơn là can dự một cách khách quan nhằm thực thi và bảo vệ pháp luật; lại còn cơ chế vùa đá bóng, vừa thổi còi nên không sao phân định được trách nhiệm của cầu thủ với trọng tài.

Hệ thống ấy cho phép không có nơi nào phải chịu trách nhiệm về những sai hạm tày trời xảy ra ở Vinashin. Mặc dù tất cả đều có quy trình luật định, có nhiều vòng giám sát nhưng con voi vẫn đi qua được mọi lỗ kim. Họ vẫn mua được những con tàu, nhà máy điện ở dạng những đống sắt vụn với giá cắt cổ nền kinh tế mà không ai trong hệ thống trên bị liên đới trách nhiệm.

Cũng từ sự vô trách nhiệm mang tính hệ thống này mà các quyết định thành lập các cơ cấu xài tiền như Vinashin, các dự án tổn hại tiền dân như chương trinh mía đường v.v... đều đã và có thể thông qua mà không một ai phải tự vấn lương tâm mình!

Điều khôi hài đau xót nhất ở đây lại là tất cả chúng ta đều vô can trong mọi sự đổ vỡ của nền kinh tế, trong sự đổ vỡ nồi cơm của chính nhà mình! 

2. Sự lãng phí mang tính hệ thống hay cơ chế “ Muốn ăn thì phải phá”:

Một nhóm nguyên nhân sâu xa khác gây nên hiện tượng lãng phí mang tính hệ thống là sự không hài hòa, không nhất thể hóa các quyền và lợi giữa các bộ phận trong một xã hội. Khi một nhóm thủ lợi, không bị các cơ chế và luật pháp minh bạch của một xã hội công dân điều tiết, họ sẵn sàng hy sinh đại cục, lợi ích của xã hội vì lợi ích riêng.

Không phải ngẫu nhiên trong ngôn từ xã hội có từ “buôn cơ chế” thuộc loại siêu của siêu lợi nhuận. Những lãng phí, thất thoát và tham nhũng trong đầu tư cơ bản trỏ thành câu chuyện quen thuộc đến mức người dân nơi quán xá đều thông thạo khi nói về chúng.

Chạy dự án” đã làm giàu thêm cho ngôn ngữ Việt để chỉ về một hoạt động có sức hút rất lớn về lợi ích. Khi vài chục phần trăm đến non một nửa giá trị dự án rơi vào túi tư nhân thì đây cũng chính động lực không cưỡng lại được cho sự ra đời các loại dự án và siêu dự án mà kết quả chung sẽ là tăng quy mô và tầm cỡ của sự lãng phí có tính hệ thống và gánh nặng nợ nần trong xã hội hiện nay.

Ở các nước khác, cơ chế win-win cho phép mọi thành phần xã hội nỗ lực làm ăn, tạo ra của cải làm giàu cho bản thân và đóng góp cho xã hội. Ở ta, cơ chế làm ra để chia nhau không biết vì lẽ gì đã không được thực thi.

Từ các phân tích ở phần trên, ta sẽ thấy như một lẽ tự nhiên của luật nhân quả, trong thực tiễn đã hình thành một cơ chế đáng sợ “Phá để ăn” hay “Muốn ăn thì phải phá” và phá càng nhiều thì kiếm chác cũng càng nhiều.

Những điều này có thể tìm thấy ở hầu hết các dự án của Vinashin mà gần đây Phạm Viết Đào đã tổng kết trên trang Blog đầy tính chiến đấu của ông, từ vụ ký HĐ đóng 15 con tàu 53 nghìn tấn đến các vụ đầu tư cho những đống sắt phế thải, gây ô nhiễm môi trường như các vụ mua tàu, nhà máy điện sắp hoặc hết niên hạn sử dụng, Vinashin gây thất thoát cho chính mình hàng trăm triệu dollar mà hậu quả nhìn thấy trước là cả một chặng đường thua lỗ. Phá hoại cả một ngành đóng tàu khi trứng nước bằng phương cách “muốn ăn một hãy phá mười, một trăm hoặc nhiều hơn thế". Không biết những người ký các HĐ này kiếm chác được bao nhiêu từ khoản hoa hồng nhỏ nhoi trong công cuộc phá hoại của họ???

Gần đây có một dự án mang tính thời sự tốn hàng trăm tỷ của VTV đang được đắp chiếu nằm đó.

Tin rằng bạn đọc có thể tiếp tục nêu ra rất nhiều ví dụ đau xót về hiện tượng phá để mà ăn, mà chia nhau này! 

3. Sự thiệt hại ở quy mô quốc gia

Trên nền tảng của sự vô trách nhiệm và lãng phí mang tính hệ thống, quy mô của sự thiệt hại, quy mô phá hoại của nó đã vượt ra khỏi sức tưởng tượng của nhiều người, lên đến nhiều tỷ dollar năm.

Có thể nêu ra vài ví dụ:

Thời kỳ HTX nền nông nghiệp VN chỉ sản xuất được 12-14 triệu tấn lương thực quy thóc mỗi năm. Khi thực hiện chỉ thị 100 và nghị quyết khoán 10 đi đúng quy luật khách quan, sức sản xuất trong nông nghiệp được giải thoát, Việt Nam từ nước nhập khẩu trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Riêng sản lượng lương thực mỗi năm đã đạt 38 triêu tấn thóc, gấp khoảng ba lần tổng sản lượng lương thực thời kỳ HTX. Theo thời giá, nếu tạm tính bình quân 400 USD/tấn gạo như hiện nay thì riêng ngành sản xuất lúa gạo của nông nghiệp Việt Nam thu về thêm so với thời kỳ HTX khoảng trên 6 ,4tỷ ÚSD mỗi năm.

Nói cách khác, hệ thống sản xuất cũ tạo ra một sự lãng phí mang tính hệ thống trị giá 6,4 tỷ USD/năm chỉ riêng trong một ngành sản xuất lúa gạo.

Có thể nêu lên một ví dụ khác là phong trào đầu tư của các địa phương cho chương trình một triệu tấn đường, đã tiêu của ngân sach và các nguộn vốn khác trên 10.050 tỷ (trên nửa tỷ dollar), nay càng sản xuất càng bị lỗ, không nhìn thây khả năng hoàn vốn.

Năm 2010, tình trạng tài chính của các nhà máy đường trên toàn quốc là hết sức thê thảm với số nợ khoảng trên 5.000 tỷ đồng (khoảng 263 triệu dollar) và đa số mất khả năng chi trả.

Sự vô trách nhiệm và lãng phí mang tính hệ thống còn gây ra rất nhiều thiệt hại trên các lĩnh vực khác như làm suy yếu các nguồn lực kinh tế xã hội. Phá hoại năng lực cạnh tranh của nền kinh tê, không nâng cao được chất lượng tăng trưởng, Gần đây VN liên tục bị đánh tụt hạng ở chỉ số tin cậy quốc gia, chỉ số tín dung các ngân hàng. 

4. Thay cho lời kết

Sự vô trách nhiệm mang tính hệ thống tất yếu gây ra những lãng phí mang tính hệ thống. Đó là sự lãng phí về cơ hội, các nguồn lực con người và xã hội, tiền của, thời gian, tài nguyên đất nước và phải được coi như một tội ác ghê gớm. Quy mô và sức phá hoại nó rât nặng nề và hiện chưa có bất cứ một chế tài nào để chế ngự nó.

Thế hệ con cháu sẽ biết lấy gì trả nợ khi chỉ số ICOR đã lên đến 7, 8 cảnh báo về một nền kinh tế kém hiệu quả, có chất lượng tăng trưởng rất thấp, tính cạnh tranh và độ tin cậy quốc gia và một số ngân hàng VN hàng đầu về tín dụng thuộc tốp dưới của các bảng xếp hạng quốc tế!

Nhân vụ thất thoát trên 80 nghìn tỷ của Vinashin,xin được bàn thêm về một dạng quốc gia đại nạn trong bài viết ngắn này với đôi suy tư thiển cận và hạn hẹp, với tấm lòng thành mạnh dạn tỏ bày.

Mong các sỹ phu, chư vị chỉ giáo nhằm sáng tỏ sự đúng sai nhiều chiều của một vấn đề hệ trọng liên quan trực tiếp đến sự giàu nghèo của đất nước, đến bát cơm manh áo của mỗi người dân!
N.H
4.9.2010

* Bài viết do tác giả TS. Nguyễn Hoàng gửi riêng Nguyễn Xuân Diện-Blog. 
Xin chân thành cám ơn tác giả!

ĐỪNG NGHE ....NÓI, HÃY XEM ...LÀM!

Bộ_Lại.jpg
Tranh vẽ cảnh làm việc của Bộ Lễ, triều Nguyễn.

NÓI VÀ LÀM

Phan Hồng Giang


Sách cổ Trung Quốc có ghi lại mẩu chuyện lý thú về Án Anh, vị tể tướng nhỏ thó mà lừng danh nước Tề.

Có người hỏi Án Anh:

- Bao năm làm tể tướng, với tiên sinh điều gì khó nhất?

- Làm được điều mình nói, - Án Anh trả lời ngay tức khắc.

Đó là câu chuyện từ mấy ngàn năm trước. Còn bây giờ là chuyện cuối thế kỷ XX.

Giữa năm 1985, khi Mikhail Gorbachev, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, mới phát động chiến dịch cải tổ và tăng tốc được ít lâu, ông có làm cuộc vi hành đến Leningrad. Để tạo hình ảnh một nhà lãnh đạo trẻ, năng động, gần gũi dân chúng, (tương phản với dáng vẻ nặng nề, ốm yếu, già nua của ông L.Breznev trước đó không lâu), ông Gorbachev đi bộ ra quảng trường Cung điện Mùa Đông để trò chuyện với nhân dân. Bắt tay một người đàn ông trung niên Nga, rắn rỏi, vạm vỡ, nhà lãnh đạo Liên Xô ân cần hỏi:

- Đồng chí làm nghề gì?

- Thưa đồng chí, tôi là thợ tiện nhà máy đóng tàu.

- Đồng chí muốn chúc điều gì cho tôi và Trung ương?

- Tôi chúc đồng chí và Trung ương làm được điều mình nói! - Người thợ tiện nọ trả lời ngay tức khắc… (Cũng phải nói thêm, lúc này, sau ít tháng xuất hiện ở cương vị cao nhất đất nước, người dân Liên Xô đã thấy ông Gorbachev bắt đầu bộc lộ hứng thú ưa đăng đàn diễn thuyết).

Hai câu chuyện cách nhau hàng ngàn năm xảy ra với hai người vị thế xã hội hoàn toàn khác nhau - vị tể tướng lừng danh và người thợ tiện vô danh. Ấy vậy mà ý tưởng và cung cách trả lời lại hoàn toàn giống nhau. Xin mạn phép độc giả kể lại chỉ cốt để nhắc đến một chân lý mà ai cũng dễ thấy: sống trên đời này để lời nói đi đôi với việc làm thật khó lắm thay!

* * *
 
Chúng ta đang sống trong thời đại mà các phương tiện truyền thông có mặt mọi lúc mọi nơi. Những hàng chữ, những lời nói, những hình ảnh ngày ngày đập vào mắt, lọt vào tai chúng ta, dù muốn hay không muốn. Những sự việc người thật, việc thật cũng không thoát ra ngoài sự nhận biết của chúng ta. Và thế là, dù muốn hay không muốn, chúng ta cũng buộc lòng phải thấy sự khập khiễng, độ vênh - vênh đến dễ sợ! - giữa lời nói và việc làm đang diễn ra quanh ta.

Phải nói ngay rằng những điều khập khiễng kể ra dưới đây không hàm ý "vơ đũa cả nắm". Mặc dù vậy, nếu cứ tiếp tục diễn giải theo kiểu: "Mặt tốt đẹp là cơ bản, thành tích là to lớn, tuy nhiên…", thì những sự việc liệt kê ở phần sau chữ "tuy nhiên" sẽ ít có cơ may thuyên giảm, nếu không phải là sẽ nối dài thêm ra…

Xin liệt kê làm ví dụ so sánh giữa lời nói và việc làm theo kiểu "nhớ gì nói nấy", không có ý định hệ thống hóa.

Không ngày nào chúng ta không nghe nói đến quyết tâm bài trừ nạn tham nhũng. Nhưng lạ thay, tham nhũng như một quái vật có phép màu, cứ phổng phao, đâm thêm nhành ngọn, vụ sau to hơn vụ trước, cấp sai phạm không dừng lại ở cỡ quan chức thường thường bậc trung. Và bây giờ người ta có thể không ngần ngại mà gán cho nó hai chữ "quốc nạn".

Đi ra đường phố, thấy cảnh ô tô, xe máy, xe lam, xe đạp, xích lô, xe thồ ngược xuôi, lạng lách, rẽ ngang rẽ trái không theo một luật lệ nào, rồi thì chợ cóc, chợ xanh, chợ hoa dưới lòng đường, hàng hóa bày ra choán hết vỉa hè…, chúng ta hoang mang tự hỏi Nghị định về lập lại trật tự giao thông dân quên rồi sao? Mật độ dày đặc đứng đường (có lẽ là cao nhất thế giới) của cảnh sát giao thông cũng không làm giảm bớt bao nhiêu những ách tắc. Rồi cái nạn đua xe của mấy cô mấy cậu rửng mỡ, con nhà giàu, con ông cháu cha gây nhức nhối bao năm, sau rất nhiều lời hứa hẹn "kiên quyết chấm dứt" vẫn diễn ra như trêu ngươi; các thứ thư tay, điện thoại riêng "đề nghị chiếu cố, nương nhẹ" vẫn tồn tại sau mỗi lần Công an bắt giữ người, xe…

"Chính quyền của ta là của dân, do dân, vì dân", - câu nói đẹp nức lòng người dân mau chóng bị sao nhãng khi người dân đến cửa quan gặp phải những bộ mặt lạnh tanh, những câu trả lời nhát gừng và những kiểu đùn đẩy hồ sơ hết phòng, ban nọ sang phòng ban kia, những kiểu hẹn lần lữa không có hồi kết thúc như thử thách lòng kiên nhẫn của người dân. Kết quả là đơn thư khiếu nại chất thành đống, năm này qua năm khác, và cảnh ăn chực nằm chờ để khiếu kiện vượt cấp là tất yếu...

"Lương y như từ mẫu", câu khẩu hiệu gặp ở mọi bệnh viện, trên thực tế liệu đã làm yên lòng bệnh nhân chưa? Chắc chắn là chưa. Thế nên hầu hết người bệnh khi chẳng may phải lên bàn mổ, hay gặp bệnh hiểm nghèo, đều phải cố lần những đồng tiền còm cõi cuối cùng, kín đáo bỏ vào phong bì, rồi tìm kiếm cơ hội tiếp cận vị "lương y như từ mẫu" kia để mà nài nỉ, khẩn khoản họ nhận cho "tấm lòng thành" với mặc cảm của người có lỗi. Thật đáng thương thay! Rồi những tin bệnh nhân này, sản phụ nọ mất mạng vì sự thờ ơ, tắc trách của một số vị y, bác sĩ đâu còn là chuyện lạ…

"Cải cách giáo dục", "Nâng cao chất lượng dạy và học", "Giáo dục là quốc sách"… Những lời lẽ này được lặp lại ngày này qua ngày khác, nhưng những phiền muộn do giáo dục mang lại cũng không giảm. Nào là "quá tải phải giảm tải", "học thêm, dạy thêm", nào là sách giáo khoa viết sai in sai, đề thi ra nhầm lẫn, lộ đề trước khi thi, nào là các "lò luyện thi" thương mại hóa một cách lộ liễu đến trơ tráo, nào là bằng giả chứng chỉ giả, và nguy hiểm nhất là bằng thật nhưng học giả, học quấy quá, học chiếu lệ, vừa bận rộn công tác quản lý mà vài năm vẫn kiếm được vài cái bằng thật để rồi tiếp tục leo cao trên nấc thang danh vọng…

"Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực" - chân lý thật đúng, thật cao đẹp. Nhưng người lao động ở ta lại được hưởng một sự đãi ngộ, một chế độ lương thấp ngoài sự tưởng tượng của thiên hạ, một thang bậc lương không đủ bù đắp sức lực con người đã bỏ ra (dùng chữ là "không đủ tái sản xuất sức lao động"!), không đủ nuôi bản thân, chưa nói gì đến nuôi con, phụng dưỡng cha mẹ già cả. Một thang bậc lương khích lệ mọi người cùng cơ quan tìm cách ăn bớt (một cách lương thiện!) ngân quỹ nhà nước để còn tồn tại, để nuôi con ăn học, để sắm xe máy và… xây nhà!

"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết…", "Giữ gìn sự đoàn kết như giữ gìn con ngươi của mắt mình…". Và trên thực tế, chẳng còn là điều bí mật gì với ai là tình trạng mất đoàn kết, đấu đá nội bộ, tố cáo nặc danh phổ biến ở nhiều cơ quan nhiều địa phương. Những người hôm qua còn là đồng chí với nhau, hôm nay đã không nhìn mặt nhau, coi nhau như kẻ thù. Phải chăng lời chỉ bảo của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Bắc năm xưa: "Muốn có đoàn kết, trong Đảng phải có dân chủ thực sự" lúc này lúc khác, nơi này nơi khác đã bị lãng quên?

Có thể liệt kê dài dài những khập khiễng giữa lời nói và việc làm. Nào "Sống và làm việc theo pháp luật", nào là "Cán bộ là đầy tớ của dân, lo trước thiên hạ, hưởng sau thiên hạ…", nào là "Vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi"…

Khi lời nói không đi đôi với việc làm (hay rất khó đi đôi với việc làm) đã trở thành thứ tật bệnh không còn ở ngoài da mà ăn sâu vào xương cốt, thì chúng ta phải cùng nhau đi tìm những phương thuốc hữu hiệu hơn để trị tận gốc căn bệnh đó. Hình dung như thế nào về phương thuốc đó có thể là chủ đề của một bài báo khác. Có điều chắc chắn là không thể dùng lời nói, lời hô hào suông mà chữa khỏi được./.
Há Nội, tháng 8.2010.

* Bài do tác giả gửi trực tiếp cho Nguyễn Xuân Diện Blog. 
Xin chân thành cảm ơn TS. Phan Hồng Giang.

Thứ Ba, 3 tháng 1, 2012

VĂN HÓA - THAY ĐỔI BẮT ĐẦU TỪ NHỮNG CÁ NHÂN

Văn hóa - thay đổi bắt đầu từ những cá nhân

TTCT - Văn hóa bị bỏ quên, bị xuống cấp nghiêm trọng trong thời buổi kim tiền? Vì sao sự dửng dưng, vô cảm nhiều thế trong đời sống thường nhật và cái ác hiện diện ở ngay những nơi ít ngờ nhất? 

TTCT gặp nhà văn Nguyên Ngọc, nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng, tiến sĩ Nguyễn Thị Hậu (Viện Nghiên cứu phát triển TP.HCM) và PGS.TS Trần Hữu Quang (Viện Khoa học xã hội Việt Nam) để ghi lại góc nhìn của họ về câu chuyện văn hóa của năm qua.

Mỗi cá nhân có ý thức văn hóa và hành xử có văn hóa sẽ tự ngăn chặn sự tha hóa và góp phần cải biến xã hội - Ảnh: Thuận Thắng

Cần xây dựng lại một nền đạo đức tự trị

* Khi nhìn vào câu chuyện văn hóa hiện nay, ông/bà thấy điều gì đáng lo, điều gì cần được ghi nhận? 

- PGS.TS Trần Hữu Quang: Trong năm qua, báo chí trong nước đã đăng tải khá nhiều sự kiện bất bình thường như: vợ tẩm xăng đốt chồng, con nhốt cha trong cũi, đánh chết người trộm chó, bắt cóc và tra tấn để đòi nợ, giảng viên luật bị truy tố vì chạy án... Có thể nói, đấy là những dấu hiệu tuy ít về số lượng nhưng đã bộc lộ một tình trạng rạn nứt đáng báo động trong sự vận hành của những tế bào cơ bản của xã hội. 

Người ta không thể không tự hỏi rằng tại sao những mối quan hệ giữa vợ với chồng, mẹ với con... lại có thể đi đến chỗ quái lạ và kỳ dị như vậy, tại sao người ta không giải quyết xung đột bằng cách viện nhờ đến những định chế chính thức như công an hay tòa án, tại sao nhiều ứng xử của người dân lại bất chấp cả chuẩn mực đạo lý lẫn chuẩn mực pháp lý đến thế... Đấy hẳn nhiên không phải chỉ là câu chuyện của một năm qua, mà là hệ quả sự vận hành của xã hội suốt vài thập niên qua. 

- TS Nguyễn Thị Hậu: Tôi thấy một đời sống văn hóa không thiếu các hoạt động, sôi nổi như thể không có (và chẳng phản ánh) tình trạng lạm phát cao và đời sống ngày càng khó khăn. Tiếc là ngay trong quản lý hoạt động văn hóa lại để xảy ra nhiều sự cố “kém văn hóa”, từ vụ mất vài chục tỉ đồng của Cục Điện ảnh, kiện cáo trong việc xét chọn giải thưởng cao, tai tiếng trong các cuộc thi người đẹp, cử đại sứ du lịch..., báo chí - nhất là báo mạng - tràn ngập “thảm họa” trong sinh hoạt nghệ thuật... 

Tất cả sự việc ấy đều cho thấy cách thức quản lý chưa thay đổi đủ để phù hợp với thực trạng mới của đời sống văn hóa trong một môi trường xã hội phức tạp mà chủ thể của những hoạt động văn hóa cũng ngày càng đa dạng. Và như nhiều năm trước, sự trông đợi một thành tựu “văn hóa đỉnh cao” trong các lĩnh vực trên vẫn còn xa vời... 

Nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng - Ảnh: Nguyễn Anh Tuấn

- Nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng: Bất cứ ai sống ở Việt Nam đều có chút lo ngại về một đời sống văn hóa đang có chiều hướng đi xuống. Hệ quả của nó là ứng xử nhân luân trong xã hội có nhiều vấn đề như tai nạn giao thông, nạn tắc đường, nạn tham nhũng và những tệ nạn dã man chưa từng có trong đời sống của người Việt. Dường như tất cả cái đó có quan hệ lẫn nhau trong sự thiếu hiểu biết về mặt trái của nền kinh tế thị trường, của đời sống dân chủ chưa được nâng cao.

Xét riêng trong văn nghệ, có thể nói các ngành nghệ thuật đều tích cực tìm đường đi để vừa có sáng tạo vừa có thị trường, dù hai mặt đó không phải lúc nào cũng trùng hợp. Chúng ta vẫn thừa các tượng đài tốn kém, các bộ phim bạc tỉ, sau đó lại “đắp chiếu”. Điện ảnh Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc vẫn chiếm thời lượng lớn với một thứ văn hóa xa lạ và những chuyện tình vớ vẩn nhằm quảng cáo hàng hóa. Giữa những nghệ sĩ trẻ và già có những khoảng cách khó thông cảm. Bảo tàng nghệ thuật hiện đại vẫn chưa có và nghệ thuật vẫn luôn phân rẽ bởi các hoạt động bao cấp kém chất lượng, những hoạt động ngoài luồng lôi kéo rất nhiều nghệ sĩ trẻ. 

Về cái ác và một cuộc nhìn lại bản thể

“Cần thẳng thắn nhìn lại coi có phải nền đạo đức xã hội ở Việt Nam đang có nguy cơ (hay đã) băng hoại, vì đã quá chú trọng những mục tiêu ngoại trị mà bỏ quên yêu cầu xây dựng một nền đạo đức tự trị hay không. Và để có thể làm điều này thì không phải chỉ cần xem xét lại triết lý giáo dục trong nhà trường và gia đình, mà còn phải cải tổ cả ở quy mô rộng lớn hơn đối với triết lý xã hội, hay nói chính xác hơn là triết lý quản lý xã hội. Theo thiển ý của tôi, có làm như vậy may ra mới có thể kiến tạo được nội lực thật sự của quốc gia. “Nội lực” hiểu theo nghĩa nguyên thủy và sâu xa của từ này là một cộng đồng những chủ thể luân lý trưởng thành và tự giác”.
PGS.TS TRẦN HỮU QUANG
* Nếu chỉ nhìn vào tin tức đăng tải trên truyền thông thì dễ thấy cái ác và sự đổ lỗi cho những cá nhân ác. Nhưng sự tha hóa của con người liệu có thể bắt đầu từ việc vượt đèn đỏ, ngồi vào chỗ của người khuyết tật trên xe buýt hay bạt tai một đứa trẻ? 

- PGS.TS Trần Hữu Quang: Khi người ta không còn dám trung thực thì theo tôi, đó chính là dấu hiệu ban đầu của sự tha hóa hay sự vong thân - một thuật ngữ được dùng để diễn đạt khái niệm alienation trong triết học. Một cách đơn giản, có thể hiểu sự tha hóa hay vong thân là tình trạng đánh mất mình, biến thành cái gì khác, không còn là mình nữa. Ở đây, chữ “mình” không được hiểu theo nghĩa là tư cách cá nhân, mà là tư cách của một con người với đầy đủ tự do và ý chí.

Tôi nghĩ sự tha hóa không bắt đầu từ việc vượt đèn đỏ hay ngồi vào chỗ của người khuyết tật trên xe buýt, nhưng sự rạn nứt của luật pháp và sự suy thoái đạo đức đúng là có thể khởi sự từ những chuyện tưởng chừng nhỏ nhặt như vậy. Lâu nay, một số người hay lên tiếng cổ xúy cho những mục tiêu lớn lao của thời đại, những câu chuyện đại sự của quốc gia và dân tộc. Đấy quả là những điều cần kíp và thích đáng. Nhưng tôi nghĩ rằng điều cấp thiết không kém là cần bắt đầu thúc đẩy sự thay đổi từ những chuyện nhỏ, từ cá nhân và nhất là bắt đầu từ nội tâm mỗi con người. 

Từ những chuyện như không đi ngược chiều hay vượt đèn đỏ (như các cháu mẫu giáo vẫn đang phải học!), lượm một mẩu rác dưới chân, khóa một vòi nước đang chảy phí phạm, biết chào hỏi, cảm ơn và xin lỗi vào những lúc cần thiết... Tuy ai cũng biết nhưng dường như người ta dễ quên rằng hễ không làm được chuyện nhỏ thì khó lòng làm nên chuyện lớn. Coi chừng có khi chính những khẩu hiệu đại ngôn dễ khiến người ta xem thường và bỏ qua những phẩm chất đạo lý nền tảng của bất cứ cuộc sống xã hội nào. Do vậy có khi đấy cũng là một trong những căn nguyên của tình trạng tha hóa hay vong thân.

TS Nguyễn Thị Hậu - Ảnh: Gia Tiến
Mỗi cá nhân có “ý thức văn hóa” và thể hiện ý thức thành hành xử (có) văn hóa là tự ngăn chặn sự tha hóa và “cải biến” chính mình

- TS Nguyễn Thị Hậu: Cái ác bắt đầu rất đơn giản, có khi chỉ từ một lời nói nhục mạ, từ sự dửng dưng trước tai nạn của người khác, trước bất công... chứ không đợi đến một hành vi phạm pháp hay vô đạo đức. 

Mỗi ngày chỉ cần lướt qua vài trang báo là có thể thấy vô số tin “tức” về bạo lực mà nguyên nhân nào có gì to tát. Không thể không tự hỏi: vì sao trong xã hội bây giờ người ta nhục mạ nhau, đánh nhau, giết nhau... dễ dàng đến thế? Vì hầu như ai cũng ngại, không muốn can thiệp vào những việc trái tai gai mắt, “chủ nghĩa mackeno” làm mọi giá trị đảo lộn, tốt xấu không còn phân biệt, con người trở nên dửng dưng với cái xấu, dửng dưng cả với lẽ phải, với sự thật! Ý thức cộng đồng đang băng hoại từ sự dửng dưng như thế! 

Trong đời sống xã hội hiện nay, tình trạng khủng hoảng niềm tin vào điều thiện như những con sóng ngầm mà những hành xử vô văn hóa chỉ là bề nổi. Mất lòng tin vì một đời sống mà những ứng xử lệch chuẩn dần trở thành bình thường. Không phải vì giá trị của những hành vi này thay đổi, mà vì chúng không được xã hội điều chỉnh đúng theo giá trị văn hóa chuẩn mực.

Nhận thức được cái xấu, cái ác như thế thì việc bắt đầu là không làm điều xấu, điều ác dù là nhỏ nhất. Mỗi hành xử tốt là loại bỏ được một nguy cơ cái ác xuất hiện. Đồng thời đứng trước cái ác, cái xấu chỉ có một chọn lựa là đoàn kết chống lại nó. Một người chống lại cái xấu cần nhiều người ủng hộ và làm theo. 

Mặt khác, xã hội phải tạo điều kiện (như luật pháp, các quy định chế tài...) để ngăn chặn cái xấu, lên án những hành vi vô văn hóa, để ý thức văn hóa phát triển và hành xử (có) văn hóa trở nên phổ biến trong xã hội. 

- Nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng: Trong chiến tranh, người chết, máu chảy đầu rơi hằng ngày, nhưng có thể nói con người Việt Nam luôn hướng thiện, luôn mong bình yên và hòa hợp. Sau hòa bình, một cuộc chiến khác nảy sinh và lần này hình như sự khoan nhượng biến mất. Đó là cuộc chiến việc làm, đất đai, nguồn vốn, lợi nhuận..., sự tranh giành thấy hằng ngày, cụ thể là chiếm đường đi bằng được trong giao thông bất kể đèn tín hiệu. 

Cuộc chiến vì lợi nhuận này chính là biểu hiện sâu sắc của cái ác đang bị đơn giản hóa, đang được coi là bình thường. Ví dụ như nông dân phun thuốc trừ sâu đậm đặc vào rau, hằng ngày cho gia súc ăn thức ăn tăng trọng, dùng chất bảo quản độc hại đưa vào thực phẩm... là những việc nhỏ, hằng ngày và thật sự giết dần giết mòn sức sống của dân tộc. Lớn hơn là người ta biến hàng ngàn thước đất bờ xôi ruộng mật thành nhà máy, sân golf mà thật sự chẳng vì phát triển kinh tế. Từ đứa trẻ đi mẫu giáo đến người lớn đi làm, ai nấy cũng phải tham gia ít nhiều vào cơ chế phong bì... 

Tất cả cái đó nếu gọi là cái ác thì hơi quá nhưng làm bất ổn xã hội lâu dài, làm rối loạn nền kinh tế và đạo đức không biết bao giờ mới chữa lại được. Chúng ta phải suy nghĩ điều này: tệ nạn, thiện ác thì bất cứ xã hội nào cũng có, nhưng những xã hội lành mạnh, phát triển thì cái ác và tệ nạn được kiểm soát. 

Nếu tệ nạn là hậu quả mặt trái của nền kinh tế thị trường thì không thể chỉ khuyến thiện bằng giáo dục hay tôn giáo mà được. Cái đó chỉ có thể giải quyết bằng sự điều chỉnh vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế, sao cho nó đi trong sự cạnh tranh lành mạnh, theo luật pháp. Nếu những chủ thể kinh tế và địa phương cứ hành động tự do theo quyền lợi cục bộ của mình, sự tha hóa có khả năng kiếm lời không ai từ bỏ. Đương nhiên, chẳng hạn như Phật giáo với sự giáo hóa về nhân quả có thể hạn chế những hành vi quá khích. 

Nụ cười của anh thợ hồ Nguyễn Vũ Trường Giang, người đã lao ra dòng sông Sài Gòn cứu sống cô gái nhảy cầu Thủ Thiêm tự tử. Một cộng đồng lành mạnh và khỏe khoắn bắt đầu từ những cá nhân tử tế và nhân bản - Ảnh: Minh Đức

* Nhiều người cho rằng điều quan trọng trong giáo dục hiện nay là trang bị cho mỗi người bản lĩnh, nhận thức về cái ác, cách đối phó đúng với cái ác, để gặp ác mà không thành ác. Để có được bản lĩnh này, chúng ta phải bắt đầu từ đâu? Chúng ta có cần một cuộc nghiêm khắc và trung thực xét lại văn hóa dân tộc để bảo tồn và xây dựng lại những giá trị phù hợp, thải loại những thứ đã hỏng hóc để có một nền văn hóa Việt Nam thực thụ và độc đáo - nền tảng để nước Việt mạnh hơn, người Việt được nể trọng hơn? Và nếu cần thì chúng ta phải bắt đầu từ đâu?

- PGS.TS Trần Hữu Quang: Nhà triết học Đức Immanuel Kant (1724-1804) từng cho rằng cần thiết lập một nền đạo đức thực thụ trên nền tảng của nguyên tắc tự trị (Autonomie), chứ không thể dựa trên sự ngoại trị (Heteronomie) (1). Kant phê phán lý thuyết đạo đức học công lợi (utilitarianism) và nhiều lý thuyết đạo đức học khác, vì ông cho rằng chúng đã ngoại tại hóa nền tảng của đạo đức bằng cách quan niệm rằng đạo đức phải nhắm tới lợi ích hay hạnh phúc của cộng đồng và xã hội. 

Theo Kant, “luân lý là tổng thể những quy luật ra mệnh lệnh vô điều kiện để ta phải hành động theo chúng”. Đạo đức học tự trị là “một đạo đức học của lý tính”, nghĩa là các mệnh lệnh đạo đức phải bắt nguồn từ lý tính (tự mỗi chủ thể phải “ban bố” quy luật đạo đức cho chính mình), chứ không phải là những quy luật bắt nguồn từ kinh nghiệm, vì kinh nghiệm thì không thể mang tính phổ quát và tất yếu, do đó không thể lấy kết quả hay sự thành công làm tiêu chuẩn hay thước đo của đạo đức. 

Mệnh lệnh nhất quyết (kategorischer Imperativ), theo Kant, là cái mà ta phải làm do lý tính buộc chúng ta phải làm (vì thấy điều phải làm là đúng, là thiện), chứ không phải vì bất cứ lý do hay động cơ, hoặc mục tiêu lợi ích nào đó nằm ở bên ngoài lý tính. Cần lưu ý thêm rằng Kant không phủ nhận yếu tố kết quả của hành động, nhưng ông không coi đấy là nền tảng của hành vi đạo đức.

Tôi nghĩ rằng tư tưởng của Kant về nền tảng của một nền đạo đức thực thụ, đặc biệt sự phân biệt giữa nguyên tắc ngoại trị và nguyên tắc tự trị, là hết sức quan trọng và cần được chúng ta đọc lại như một cái khung lý thuyết để phân tích những vấn nạn nóng bỏng của xã hội bây giờ như bệnh thành tích, thói chuộng hư danh, tệ giả dối, óc thực dụng, tệ cẩu thả (thiếu lương tâm chức nghiệp), sự nghèo nàn và trống rỗng trong đời sống tinh thần... nhằm từ đó đi tìm gốc rễ của những câu chuyện “đáng lo ngại” đang xâm thực xã hội chúng ta. 

- TS Nguyễn Thị Hậu: Nhiều người trong chúng ta bây giờ không còn tự hào “mình nghèo mà giỏi”, ngược lại luôn tự hỏi “sao mình giỏi mà nghèo?”. Cũng như không chỉ ca ngợi những truyền thống tốt đẹp mà còn biết trăn trở “vì sao truyền thống của mình tốt đẹp mà bây giờ lại tha hóa như vậy?”. 

Tôi cho rằng có lẽ cần phải nhìn nhận thấu đáo hơn về những đặc điểm tạo thành “tính cách văn hóa” của con người và truyền thống dân tộc mình. Cần biết mình rõ hơn, thật hơn, vì không biết mình đầu tiên là làm khổ chính mình, sau đó sẽ cản trở làm mình “không biết người”, dẫn đến luôn thua kém người. Nên chăng bắt đầu từ việc vạch ra những gì làm chúng ta chưa thật sự tốt đẹp?

- Nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng: Nói đến sự hùng cường là mơ hồ quá khi chúng ta vay nợ nhiều, lạm phát, thiếu việc làm trầm trọng. Để phát triển đất nước không chỉ là tăng trưởng kinh tế bằng mọi cách, mà phải đi song hành giữa kinh tế và văn hóa. Bản thân văn hóa trong một xã hội phát triển cũng có khả năng tạo ra kinh tế, là một phần của hoạt động kinh tế. Thị trường văn hóa càng lớn tức là xã hội càng phát triển, thay thế những ngành công nghiệp ô nhiễm bằng công nghiệp phim ảnh, thể thao, nghệ thuật.

Tôi nghĩ cơ chế kiểm duyệt hoạt động văn hóa nghệ thuật phải xem xét lại, làm sao thúc đẩy hoạt động văn hóa tiến nhanh vào cơ chế thị trường. Giai đoạn đầu phải ưu tiên cho nó phát triển, phải khuyến khích các doanh nghiệp tham gia đầu tư vào văn hóa.

* Theo ông, vì sao chúng ta ngày càng thấy nhiều hơn những biểu hiện khác nhau cho một tâm trạng xã hội có phần tránh né, chấp nhận giả dối, thiếu vắng những cuộc nói thẳng nói thật có tính cải biến xã hội?
PGS.TS Trần Hữu Quang - Ảnh: Cẩm Phan

- PGS.TS Trần Hữu Quang: Khi mà người ta chứng kiến ngày càng nhiều chuyện bất bình thường trở thành bình thường (như tệ phong bì, đút lót, mãi lộ...), khi mà cái xấu, cái tiêu cực và cái ác ngày càng lan tràn, điều khó tránh khỏi là người ta cảm thấy băn khoăn và hoang mang (ít ra vào lúc đầu), để rồi sau đó khi buộc lòng phải “sống chung” với nó (vì muốn cưỡng lại cũng không được) và riết rồi người ta đâm ra quen với nó. 

Nguy cơ cần suy ngẫm ở đây là nguy cơ bình thường hóa cái bất thường, không chỉ về mặt cấu trúc xã hội mà cả về mặt chủ quan nơi tâm thức cá nhân người dân và kể cả (hay nhất là) nơi cá nhân công chức. Sống trong tình trạng này, nhiều người có thể căm ghét nó, rồi do quá mệt mỏi với nó nên đâm ra bàng quan với nó, nhưng cũng có những kẻ tận dụng sự tranh tối tranh sáng ấy để thủ lợi, kẻ thì chủ động, kẻ thì thôi đành nhắm mắt đưa chân... Điều nghịch lý là chính kẻ vi phạm lại thu được nhiều lợi hơn, còn người ngay thường thua thiệt...

Tại sao người ta lại có thái độ tránh né, chấp nhận sự giả dối, không dám nói thẳng nói thật? Nhìn bề ngoài, dễ lý giải đó là do cái tiêu cực, cái bất bình thường và cái xấu đã trở nên phổ biến. Nhưng nhìn sâu vào nội tâm mỗi người, đó là do tình trạng suy thoái đạo đức và xói mòn luật pháp dẫn tới hệ quả hoài nghi cả các giá trị đạo đức xã hội lẫn các chuẩn mực pháp lý. 

Khi người ta không còn tin thì nói thật để làm gì? Cái nguy ở đây là sự giả dối nói riêng và những nghịch lý nói chung được mọi người coi là bình thường, “chuyện nhỏ như con thỏ”! Hậu quả nghiêm trọng của tâm trạng hoài nghi xã hội, xét về mặt xã hội học, đó là xói mòn cả lòng tin đối với người khác, lòng tin vào xã hội và nhất là lòng tin vào chính mình.

PHAN XUÂN LOAN - CẨM PHAN thực hiện
__________
(1) Xem Immanuel Kant, Phê phán lý tính thực hành (Đạo đức học) (1788), Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải, Hà Nội, Nxb Tri Thức, 2007.
__________
Cần một cuộc tự vấn

Cái được nhất về văn hóa và xã hội trong năm qua của chúng ta đã đến vào gần cuối năm: ba học sinh lớp 11, tức khoảng 15 hay 16 tuổi, ở Quảng Ngãi hi sinh thân mình cứu bạn bị lũ cuốn trôi. Cũng ở Quảng Ngãi, một học sinh lớp 7 vì xả thân cứu người trong lũ nay bị chấn thương nặng, chỉ còn sống cuộc đời thực vật.

Gần đây, trong vụ chìm phà bi thảm ở huyện Núi Thành, Quảng Nam, liều chết cứu người là hai em nhỏ, một em học lớp 10, em thứ hai sinh năm 1989... Không quá lời đâu khi nói các em không chỉ cứu những người bị dòng nước hung dữ nhấn chìm mà còn cứu chúng ta, vực chúng ta dậy khi chúng ta đã, đang có rất nhiều bi quan về xã hội và con người.

Nhà văn Nguyên Ngọc - Ảnh: Thuận Thắng

Chuyện hai chiếc xe thản nhiên cán qua người một em bé, rồi hơn chục người lớn thuộc đủ thành phần xã hội dửng dưng đi qua dù xảy ra ở bên Trung Quốc nhưng thôi thì nên nói thật đi, ở ta, trong những mức độ khác nhau, không thiếu những chuyện tương tự... May thay, cái “lì” đó còn chưa kịp lan đến phần nhiều trẻ em (không biết có ai để ý điều này không: các em vừa kể trên hầu hết đều ở những vùng có thể gọi là vùng sâu vùng xa về cái gọi là văn hóa).

Vậy có một câu hỏi tiếp: Cái “lì” kia là thế nào và vì sao? Đấy là một trạng thái chán chường sâu sắc và mênh mông về đạo đức xâm chiếm mọi con người. Bởi càng ngày người ta càng thấy vây kín quanh mình, ở bất cứ đâu, trong bất cứ chuyện gì, va vào đâu cũng gặp một thứ, theo mọi kiểu, trắng trợn hay tinh vi: giả dối. 

Tôi cho rằng căn bệnh nặng nhất, chí tử nhất, toàn diện nhất của xã hội ta hiện nay là bệnh giả dối. Chính cái giả dối tràn lan khiến người ta không còn thật sự tin vào bất cứ điều gì nữa. Câu hỏi thường trực bây giờ: Tốt để làm gì? Sạch để làm gì? Quên mình để làm gì? Xả thân chống lại cái xấu, cái giả để làm gì? Liệu rồi có ai, có cơ chế nào bảo vệ những nỗ lực đạo đức đó không? Hay thậm chí bị cả cơ chế quật đánh lại như vẫn thấy không hề ít? 

Trẻ em, một bộ phận trẻ em, may thay còn chưa biết đặt ra những câu hỏi như vậy. Đạo đức trước hết là một trạng thái vô tư. Mà người lớn thì không còn có thể vô tư được. 

Vậy lúc này ở cấp độ cá nhân, dù một cách cô đơn, cũng phải dám tự mình cưỡng lại cái “lì” kia, với một niềm tin rằng giả dối không phải là trạng thái tự nhiên của xã hội và con người. Còn ở cấp độ vĩ mô cần một sự phản tư toàn diện và thẳng thắn, cố gắng triệt để. Cách đây mười mấy năm, tôi có lần nói về yêu cầu tự vấn, của xã hội và của dân tộc. Hôm nay TTCT nói đến yêu cầu “nghiêm túc xét lại văn hóa dân tộc”, tức một cuộc tự vấn về xa tận đâu đó trong đường dài lịch sử dân tộc, “bản thể” của nó.

Tôi cũng đồng ý cần có một cuộc trở về nghiêm túc, đến nơi đến chốn như vậy. Dân tộc bên cạnh những điều mãi mãi đáng tự hào quả cũng có những nhược điểm, hình thành lâu dài trong lịch sử, cần được nhìn thẳng. Song tôi cũng không quá bi quan về dân tộc.
NGUYÊN NGỌC
Nguồn: Tuổi Trẻ.

Thứ Hai, 2 tháng 1, 2012

Trịnh Kim Tiến: ĐÓN TẾT

Đón Tết
Trịnh Kim Tiến

Thời gian cứ chảy như những con sóng trôi về biển cả.Nhịp sống hối hả , làm con người ta không còn nghĩ đến tháng năm. Một năm nữa thấm thoát lại sắp đi qua để chào đón một năm mới trong dòng siết của cuộc đời .

Để đón mừng cái khoảnh khắc giao mùa với bao nhiêu hi vọng hân hoan về một tương lai tươi đẹp ,từ những thế kỉ trước , ông cha ta đã cử hành lễ Tết hàng năm một cách trang trọng.Cái Tết Nguyên Đán trở thành một phần không thể thiếu trong phong tục, sinh hoạt của người Việt Nam , ngày hội cổ truyền mang đậm nét văn hóa dân tộc sâu sắc và độc đáo, là sự hòa điệu giữa con người và thiên nhiên theo chu kỳ vận hành của vũ trụ.

Nó là cái Tết của gia đình, Tết của mọi nhà. Hằng năm, mỗi khi năm hết, Tết đến dù làm bất cứ nghề gì, ở bất cứ nơi đâu, kể cả người xa xứ hàng trăm, hàng ngàn ki-lô-mét vẫn mong ước được về sum họp dưới mái ấm gia đình trong những ngày Tết, được khấn vái dưới bàn thờ tổ tiên, nhìn lại ngôi nhà, nhìn lại nơi mà một thời bàn chân bé dại đã tung tăng một thời  và mong được sống lại với những kỷ niệm đầy ắp yêu thương nơi chúng ta cất tiếng khóc chào đời.

“Già trẻ gái trai đều khoái Tết,
Cỏ cây hoa lá cũng mừng Xuân.”

Cứ mỗi độ Tết đến , xuân sang , nhà nhà , người người lại đua nhau đi sắm tết .Hoa Tết trở thành thú chơi không thể thiếu trong những ngày xuân đến .

”Đào hoa, đào diệp lạc phân phân”, hoa đào , lá đào bay tà tà. Hoa đào đã trở thành biểu tượng cho ngày Tết, cho mùa xuân. Thú chơi hoa và cây cảnh ngày Tết nói chung và thú chơi đào nói riêng thể hiện sự tinh tế trong tâm hồn người Việt.

Tôi rất thích đào Tết nhưng gia đình tôi chưa Tết năm nào trưng một cành đào nhỏ trong gian nhà.Bố tôi cũng là người thích chơi đào , nhưng ông không thích nó ở cái khoản , cứ đến Tết là nó lại đắt đến thế .Năm nay  có lẽ sẽ như mọi năm , gần gần sát Tết là ba mẹ con tôi lại ra chợ hoa , nhặt những cành hồng , bó cúc đem về cắm vào cái lọ cũ và bày nó trên cái bàn ở giữa gian nhà .Nhưng có một điều là sẽ không còn ai nhìn những  bó hoa mà chê nó xấu nữa .Bố tôi là một người rất giản dị , nhưng lại ít khi thẳng thắn với những sở thích của mình .Ông có quý, có thích cái  gì cũng ít khi thể hiện  ra mặt .Ông hay bĩu môi, nhìn thứ mình thích mà chê xấu, nhưng ánh mắt của ông thì không thể giấu nổi cái  sự thích thú của mình.

Từ sau ngày 17/11, phiên tòa xét xử vụ việc của bố tôi đã không diễn ra như mong đợi , rất nhiều người vẫn hỏi tôi  về sự việc . Rằng tòa có xử  hay không xử ? Đến bao giờ thì tòa mới xử?

Tôi cũng không biết nữa, tôi chỉ biết chờ , dù sự chờ đợi có thể khiến tôi mệt mỏi, buồn phiền nhưng tôi không bao giờ từ bỏ nó .Vụ án của bố tôi là một vụ án có tính chất nghiêm trọng, nhưng nó lại không hề phức tạp , mọi thứ đều rất rõ ràng .Vậy mà vụ án lại kéo dài đến gần 10 tháng ,vượt  xa cái thời gian mà đáng lẽ ra chúng tôi phải chờ đợi theo luật định, tôi thấy vậy.

Con người ta có thể mất đi tất cả nhưng chỉ cần còn ý chí và niềm tin sẽ vượt qua mọi thứ, tôi tin là như vậy .Người khác họ có thể cướp của tôi nhiều thứ , nhưng ý chí của tôi , họ không thể đánh cắp .

Có thể rằng họ sẽ kéo dài qua năm sau mới xử vụ án .Tôi cũng có thể giả tưởng rằng , họ có thể sắp lịch xử vào ngày hai mươi bảy ,hai mươi tám hay mồng  bốn , mồng năm Tết Nguyên Đán.Trong khi người ta đang nô nức kéo nhau đi vui xuân trẩy hội, đường phố tấp nập cảnh người bán kẻ mua , những ánh đèn đường huyền ảo , hoa lá thi nhau vươn sắc .Trước khung cảnh màu sắc hoa lệ , những nụ cười hạnh phúc đón xuân , mọi người đang bận rộn , hối hả chuẩn bị cho cái Tết thì có thể bà cháu,mẹ con chúng tôi sẽ phải dắt díu , nắm vịn tay nhau bước đến phiên tòa.Cái quãng đường hai , ba cây số từ nhà đến tòa ấy không xa , nhưng sao tôi hình dung ra nó dài đến thế.Có khi nào chỉ có bốn người chúng tôi đi trên con đường đó cùng với vong linh của bố tôi  , nhưng  dù thế nào tôi  cũng không hề nản lòng.

Đối với bố mẹ, tôi vẫn luôn chỉ là một đứa trẻ chưa khôn lớn , luôn được cưng chiều nâng niu trong lớp  vỏ bọc của tình thương .Dù cho không thiếu những lúc bị mắng , bị đánh vì những việc làm sai trái , những lời nói hỗn láo , nhưng cũng chính những dạy dỗ đó , khiến bước bước chân lầm lỡ không bị lạc đường.Cũng chính nó đã mang lại sức mạnh cho tôi để có thể tiêp tục chờ đợi và hi vọng cho đến hôm nay .

Tất cả chỉ là giả định vì tôi đâu có chắc được điều gì sẽ xảy ra ? vì tôi đâu có quyền hạn để ra lệnh.?Tôi chỉ là một đứa trẻ của bố mẹ tôi .

Trở lại việc đón Tết , năm tới là năm con Rồng không biết là ai sẽ “xông đất “được cho nhà tôi nhỉ? “Xông đất” là 1 tập tục cổ truyền của người Việt , thường thì tính  từ thời điểm giao thừa , người ta hay chọn lựa những người có cung mệnh , tuổi hợp với gia chủ để bước vào nhà trước tiên , lấy vận may cho năm mới .Mọi năm  đều là bố tôi tự tính và xem tuổi nhưng năm nay chắc tôi phải mua quyển vạn sự về nằm trong chăn mà nghiền ngẫm cho kĩ càng mới được.

“Xuân vẫn còn dài, hướng đến tương lai vùng đất mới,
Tết dù đã ngắn, quay nhìn dĩ vãng cảnh người xưa.”

Có lẽ vì vậy mà Tết này tôi càng cần phải gần gũi bên mẹ nhiều hơn.Tôi muốn lấp đầy cái khoảng trống đau thương trong  lòng mẹ  .Đêm 30 Tết tôi sẽ ở nhà đón giao thừa .Tôi với bà , với mẹ và em gái   sẽ đứng trên sân thượng , nhìn lên bầu trời , ngắm những bông pháo đang nở rực rỡ, và sẽ cầu nguyện cho vong linh bố .Rồi đến đêm , tôi sẽ rúc  vào trong chăn , ôm chặt lấy mẹ, ngoắc ngoắc cái ngón chân của tôi tới chân mẹ như bố vẫn hay chọc .Tôi sẽ dung đôi bàn tay của mình, xoa xoa đôi bàn tay khô cứng nứt nẻ của mẹ, rồi hôn lên trán mẹ một cái “ con yêu mẹ “để cái mùa đông này bớt giá băng.

Tôi rất là nghịch ngợm và mải chơi , nhưng cái Tết này tôi phải lớn thật rồi .


 
Nguồn: FB Trịnh Kim Tiến.

21h NGÀY 1 TẾT DƯƠNG LỊCH NĂM 2012

FB. Dũng Mai: Một thanh niên chở bưởi đi bán dạo bị cảm ngã ra đường ở gần Đại học Thương Mại (gần Mai Dich-Hà nội). Mình quẳng xe máy nhảy xuống khênh anh ta vào vỉa hè sơ cứu, bấm huyệt vì người này đã ở trong tình trạng nguy kịch, đái ra quần vô thức; hô hào bà con gần đấy pha trà gừng đổ vào miệng và bấm huyệt nhân trung. Nạn nhân đã tỉnh lại và cho biết anh ở Đan Phượng (Hà tây cũ) bị ế hàng, không có tiền ăn, sáng đến giờ không ăn gì, lại mặc không đủ ấm, tụt huyết áp. Thật may nạn nhân đã tỉnh lại và ăn được chút cơm bà con đem ra. Mình có mấy trăm dúi hết cho anh ta và nhờ bà con trông chừng hộ vì vội đưa bạn ra bến xe Mỹ Đình. Nhìn đi nhìn lại không thấy bạn đâu. Rút điện thoại alô: Em đang ở đâu? - Cảm ơn anh đã gọi lại cho em, em ra bến xe rồi. Mình ngạc nhiên: Ô, đi bằng gì vậy? - À đi bằng chân, nói vậy chứ em vẫy taxi rồi, anh cứ việc làm phúc đi, lần sau không dám phiền anh nữa đâu. 
Sờ túi quần không thấy khóa xe đâu cả. Một cô gái trên hè cầm chìa khóa đưa mình: Vừa nãy chú không khóa xe cháu rút chìa cầm hộ chú, đang lộn xộn kẻ gian lấy mất xe thì sao.
Chùm ảnh cấp cứu anh thanh niên trong đêm đầu năm:
Anh thanh niên đã tỉnh lại và ăn được chút cháo do bà con mang tới.
Nguồn: FB Dung Mai.

CHỈNH ĐỐN ĐẢNG CẦN THANH LỌC

Chỉnh đốn Đảng, cần thanh lọc
BÙI CÔNG TỰ

Mình là một quần chúng rất gần gũi với Đảng. Tuổi 15, 17 nhiệt tình cách mạng đã hừng hực. Chả thế mà ngày đó đã viết hẳn một bài báo nhan đề “Tôi nguyện sống cho Đảng” đăng trên tờ Hải Dương Mới của tỉnh Đảng bộ Hải Dương nơi mình học phổ thông. Bây giờ nhớ lại thấy ngượng quá! Sao mà ngày ấy mình hâm tỉ độ thế!

Đến khi đi học chuyên nghiệp thì các môn Mác Lê, Lịch sử Đảng có điểm cao chót vót. Mình rất khâm phục những người Cộng Sản qua các hồi ký cách mạng như “Nhân dân ta rất anh hùng”, “Người trước ngã, người sau tiến”, “Hồi ký của đồng chí Sao Đỏ”, v..v… Mãi sau này mới hay những tác phẩm ấy có sự gia thêm mắm muối, mì chính của các nhà văn là người ghi chép hồi ký.

Thời kỳ tiếp theo là mấy chục năm làm anh viên chức mình vẫn rất gắn bó với Đảng. Đồng chí bí thư Đảng ủy quê Ninh Bình, cũng tên là Tự, ông Phạm Hữu Tự rất quý mình, thường mời mình trà lá bình luận thời sự. Mình được cái ở cơ quan thì chăm đọc báo Nhân dân, đọc từ chỗ “cơ quan trung ương của .. phố Hàng Trống” đến chỗ “In tại nhà máy in Tiến Bộ… giá … hào (tiền cũ)”, đêm về nhà thì hay dò dẫm nghe các đài địch, đài Bắc Kinh, đài Mạc Tư Khoa, tuy câu được câu mất nhưng cũng có thông tin để nói lại cho đồng chí Bí thư nghe.

Thói quen ấy mình giữ đến tận bây giờ. Các kỳ đại hội Đảng, mình đều tập trung theo dõi, tìm đọc các báo cáo, cương lĩnh, nghị quyết, các lời phát biểu của các đồng chí lãnh đạo. Nhờ thế mình nắm chắc đường lối của Đảng.

Bạn bè của mình thì hầu hết là Đảng viên, tép riu lính tráng cũng nhiều nhưng cục, vụ, thứ trưởng cũng có, mấy ông đại tá nhưng ăn lương tướng. Các vị ấy hoàn toàn không coi mình là quần chúng, trao đổi mọi chuyện, chẳng giấu diếm gì. Gia đình mình nội ngoại Đảng viên đông như quân Nguyên. Mình thật sự là một quần chúng rất gần gũi gắn bó với Đảng.

Vài năm trước mình vào Sài Gòn sống với các con. Bán hết cơ ngơi ngoài Bắc đem vào mua được đám đất xây được cái nhà trong hẻm. Hàng xóm là mấy ông xe ôm, phu hồ, lái xe, thổi kèn đám ma, bận đi kiếm tiền tối ngày. Mình phải vượt biên ra khu đô thị mới làm quen chơi với mấy vị “hạ cánh an toàn”, gồm ông sếp tàu viễn dương, sếp ngân hàng, sếp tuyên giáo, hai ông đại tá quân đội (một ông ăn lương tướng), một ông đại tá công an đồng hương. Thế là sáng sáng, sau vài vòng cuốc bộ, mấy ông già lại tụ tấp café bàn chuyện thời sự chính trị.

Đề tài được thảo luận hôm nay là câu chuyện “xây dựng chính đốn Đảng”.

Một ông bảo: - Dùng từ chỉnh đốn nhẹ nhàng quá, không chính xác. Như ở quân đội khi nói “chỉnh đốn trang phục” là chỉ vuốt cái áo, cái quần cho thẳng thướm chứ không có gì thay đổi cả.

Ông khác lại bảo: - Nói nhưng không làm đâu, nói một đằng làm một nẻo ấy mà. Nhận xét chung là các vị kỳ cựu như thế mà đều thiếu tin tưởng ở chủ trương chỉnh đốn Đảng. Thế mà riêng mình là quần chúng thì lại tin tưởng mới lạ. Hay là do mình không ở trong chăn?

Sáng nay tan cuộc café, mình về tắm táp qua loa rồi mở máy vào mạng định tìm đọc bài diễn văn bế mạc hội nghị TW lần thứ tư (khóa XI) của đồng chỉ Tổng bí thư, mặc dù tối qua đã nghe trên VTV rồi. Thế quái nào con chuột lại dẫn tới mấy trang blog trước. Thì ra đề tài “chỉnh đốn Đảng” cũng được nhiều cây bút quan tâm. Đúng là (Đảng của chúng ta) thật (lời một bài ca).

Bạn Hồ Trung Tú viết trong blog của mình: “Nếu Đảng thực tâm muốn giải quyết các vấn đề cấp bách của Đảng như hội nghị TW kêu gọi và thực lòng muốn nghe các góp ý thì mình chỉ đề nghị một điều, không phải quá nhiều điều kêu gọi tinh thần vốn chưa bao giờ hiệu quả, một điều có thể giái quyết tất cả, nằm ngay trong tầm tay đó là, như tổng thổng B. Clinton nói ở trường ĐH Quốc gia HN ngày 17/11/2000 là: Các bạn hãy để cho tòa án độc lập!”. Đọc câu này bác Quê Choa tán thưởng: Hay!

Là quần chúng ruột rà của Đảng, mình cũng băn khoăn nhiều về vấn đề nêu trên. Bạn Hồ Trung Tú “chỉ đề nghị một điều” thì mình cũng bắt chước bạn ấy “chỉ đề nghị một điều” thôi.

Điều đề nghị của mình là: Muốn xây dựng chỉnh đốn Đảng thì Đảng phải thanh lọc.

Theo mình Đảng cần phải đuổi ra khỏi Đảng những kẻ ngồi trên pháp luật, coi thường pháp luật, khinh miệt nhân dân, lạm quyền, bòn rút công quỹ, hãm hại người chính trực, câu kết bọn lưu manh. Trong bọn này không loại trừ có kẻ cam tâm làm tay sai cho ngoại bang bán rẻ đất nước.

Đảng cũng cần loại bỏ những Đảng viên giàu có một cách bất chính, thiếu trung thực, bám vào cái ghế để trục lợi.

Đảng cũng không thể dung dưỡng trong hàng ngũ những kẻ cờ bạc, xa hoa lãng phí, đạo đức suy đồi, ăn chơi trác táng.

Cũng cần đưa ra khỏi Đảng cả những Đảng viên hạn chế về năng lực, nhận thức, không thể tiền phong gương mẫu hoặc những người đã mệt mọi ý chí phấn đấu.

Trong quá trình loại bỏ những Đảng viên thoái hóa biến chất, hư hỏng, yếu kém nói trên Đảng sẽ dần dần trong sạch, sẽ lấy lại được niềm tin của nhân dân.

Mình không có tư liệu về số lượng Đảng viên của Đảng hiện nay. Nhưng số Đảng viên suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tham ô, lãng phí… theo TBT Nguyễn Phú Trọng nói là “một số không nhỏ”. Thế thì theo mình số này đông lắm, không thể là vài chục ngàn mà phải vài chục vạn hoặc hơn thế nữa. Những người này lại thường kết bè kết Đảng, chiếm giữ những vị trí quan trọng, tiền của nhiều vô kể, mưu mô thủ đoạn khôn lường, thật sự là khó đánh. Vậy thì Đảng với số Đảng viên trung kiên còn lại liệu có đủ dũng khí, đủ trí tuệ, đủ lực lượng để khai trừ những người suy thoái đó ra khỏi Đảng, làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh không?

Không loại bỏ được những đối tượng thoái hóa, biến chất, lạc hậu, trục lợi, hư hỏng ra khỏi Đảng thì như Tổng bí thư đã cảnh báo sự sống còn của Đảng, của chế độ sẽ bị đe dọa.

Thanh lọc Đảng là vấn đề cần được chú trọng để đạt được mục tiêu hội nghị TW lần thứ tư (khóa XI) vừa đề ra, hi vọng Đảng thành công.

TP Hồ Chí Minh, 01/01/2012

*Bài do tác giả gửi trực tiếp cho NXD-Blog. Xin chân thành cảm ơn!
**Cũng như tác giả Bùi Công Tự, chủ Blog không phải là đảng viên, 
đăng bài này để các đảng viên tham khảo.

Chủ Nhật, 1 tháng 1, 2012

Nguyễn Văn Phương - TẠM BIỆT 2011


Tạm biệt 2011

Năm 2011 sắp khép lại, một năm với biết bao biến cố đối với cá nhân và với đất nước. Có lẽ, năm 2011 là năm đáng nhớ nhất trong cuộc đời tôi, với bao buồn vui lẫn lộn. Mỗi con người sinh ra và lớn lên nhờ được nuôi dưỡng bởi mồ hôi, công sức của bố mẹ, tâm hồn của chúng ta được trưởng thành bởi hồn quê, hồn đất, hồn người...bởi những điều ta được dạy dỗ, những điều chúng ta nghe, chúng ta thấy, bởi những người chúng ta gặp, chúng ta yêu thương...bởi những thăng trầm cuộc sống mà chúng ta trải qua, chúng ta tranh đấu. Biết bao những thứ ấy đã hun đúc nên con người của ta hôm nay. Từ nhỏ, chúng ta luôn được học phải đấu tranh cho lẽ phải, công bằng, rằng chính nghĩa sẽ thắng gian tà...tuổi thanh niên phấp phới trong lòng với câu nói nổi tiếng của Paven trong "Thép đã tôi thế đấy" : “Đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng đã sống hoài sống phí...". Lý tưởng ấy từng là kim chỉ nam của bao lớp thanh niên một thời oai hùng trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Và với tôi, đến bây giờ câu nói đó vẫn còn nguyên giá trị. Mùa hè 2011, một mùa hè mà lòng dân, lòng người VN lại sôi sục hướng về Hoàng Sa - Trường Sa thân yêu. Nơi những con người Việt đang ngày đêm âm thầm chịu đựng sóng gió, đối mặt với bao hiểm nguy từ thiên nhiên, từ những kẻ thù hung tợn phương bắc để quyết tâm bám biển, giữ vững hải đảo xa xôi của tổ quốc. Và thêm một lần nữa, người dân Việt lại xuống đường bày tỏ lòng yêu nước, phản đối lại những hành động xâm phạm chủ quyền một cách trắng trợn của chính quyền Bắc Kinh. Nỗi căm hờn của lòng yêu nước đã thôi thúc tôi xuống đường cùng đồng bảo ở Hà Nội, SG và rất nhiều người Việt khác đang sinh sống, làm việc trên thế giới. Đứng cạnh những con người gọi nhau với 2 chữ thiêng liêng “đồng bào” thật hạnh phúc biết bao. Và từng đoàn người ấy cùng hò hét “đả đảo”,  “phản đối” đến cháy cổ họng, mồ hôi nhễ nhại trên từng khuôn mặt mà trông ai nấy cũng vẫn đầy niềm phấn khởi. Có những bà mẹ già lưng còm, chân yếu nhưng tiếng hô vẫn đanh thép, hào hùng. Có những em nhỏ còn đeo trên vai khăn quàng đội viên mà vẫn hiên ngang bước đi trong tiếng dầm dập của đoàn người. Có người bác, người cô không quản ốm đau, bệnh tật vẫn cố gắng bước đi cùng đồng bào…Vui lắm chứ, tự hào lắm chứ, có tình yêu nào lớn hơn tình yêu quê hương dân tộc đâu. Chúng ta sợ ư? Không!, người Việt Nam chúng ta sợ ư? Không! Không bao giờ đất nước này chịu khuất phục trước kẻ xâm lược. Tổ tiên, ông cha ta đã gây dựng và giữ gìn hình hài đất nước cho đến ngày hôm nay, chẳng có lý gì mà con cháu chúng ta bây giờ có thể đánh mất được…không giữ được đó là một nỗi nhục, nỗi nhục muôn đời!

  Những con người ấy, đã gặp nhau với chung một lòng yêu nước và họ đã gắn bó, giúp đỡ nhau những lo toan, những khó khăn trong cuộc sống. Những con người ấy họ thật tử tế và chân thành. Ngày cuối cùng của năm 2011, người tôi nhớ đến nhất lúc này là cô Bùi Hằng, người mà hiện giờ đang bị giam giữ, cải tạo 2 năm mà không qua xét xử. Chỉ vì cô Hằng tham gia nhiều lần những cuộc biểu tình yêu nước chống Trung Quốc xâm lược mùa hè qua mà người ta quy cho cô về tội “gây rối trật tự công cộng”. Tôi hỏi rằng: tại sao nhà nước không lo bắt tàu Trung Quốc đang xâm phạm ngoài biển Đông mà suốt ngày chỉ lo đối phó với những người yêu nước tay không tấc sắt? Tại sao lại bịt mồm, đạp mặt, bắt bớ, đàn áp những người nói lên tiếng nói yêu nước chống xâm lược? Đây là nhà nước của dân, do dân và vì dân sao?. Có lần một tay an ninh hỏi tôi rằng: “Em đi biểu tình này do ai xúi? Tôi nhìn thằng vào mắt hắn và trả lời rằng: LÒNG YÊU NƯỚC - Tôi chợt nghĩ rằng, những người hỏi câu đấy thật ngớ ngẩn, trẻ con. Trong họ chẳng lẽ không có lòng yêu nước sao? họ không thấy căm phẫn khi tổ quốc bị trà đạp, đồng bào bị bắt bớ, bắn giết sao?. Mong sao, giờ này trong nhà giam cô Hằng được thấy ấm lòng, vì sự đóng góp của cô sẽ mãi được nhân dân ghi nhận.

  Một năm qua đi, cho dù có nhiều sự xáo trộn về cuộc sống cũng như công việc nhưng tôi thấy thật hạnh phúc vì mình đã góp một phần nhỏ có ích cho lòng yêu nước. Được sống với lý tưởng mà lòng mình luôn tâm niệm, để không thấy hổ thẹn với trách nhiệm của một người công dân. Năm mới 2012 sắp đến, tôi xin được gửi lời cầu chúc sức khoẻ, bình an đến tất cả các bác, các cô chú, anh chị, các em và mọi người…những người tôi đã gặp hoặc có thể chưa được gặp mặt. Mong mọi điều tốt đẹp sẽ luôn đến với những người tốt, những người có lòng, chân thành với anh em, bạn bè và đất nước!
Thân chào!
.