Chủ Nhật, 2 tháng 11, 2025

TÓM TẮT LUẬN VĂN CỦA ÔNG NGÔ ĐÌNH NHU


TÓM TẮT LUẬN VĂN CỦA ÔNG NGÔ ĐÌNH NHU

"Phong tục và tập quán của người Bắc Kỳ từ thế kỷ thứ 17 đến thế kỷ thứ 18 theo các du khách và các nhà truyền giáo" (Moeurs et coutumes des Tonkinois aux XVIlè et XVIIlè siecles d’apres les voyageurs et missionaires).

Ông Ngô Đình Nhu sinh ngày 7-10-1910. Ông sang Pháp học và thi đỗ vào trường Cổ tự học Quốc gia vào năm 1935 và tốt nghiệp năm 1938 với luận văn về lịch sử Việt Nam lần đầu tiên được bảo vệ tại Pháp có nhan đề "Phong tục và tập quán của người Bắc Kỳ từ thế kỷ thứ 17 đến thế kỷ thứ 18 theo các du khách và các nhà truyền giáo" (Moeurs et coutumes des Tonkinois aux XVIlè et XVIIlè siecles d’apres les voyageurs et missionaires).

TỔNG THỐNG VNCH NGÔ ĐÌNH DIỆM VỚI VIỆC KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ HOÀNG SA


Tên bài viết: Công ty Tây Sa và chính sách khai thác, bảo vệ Hoàng Sa của chính quyền Ngô Đình Diệm

Tác giả: Võ Hà
 
Nơi đăng tải: Văn hóa Nghệ An

Sau khi lên “nhiếp chính” tại miền Nam năm 1955, Tổng thống Ngô Đình Diệm cho nhiều đoàn ra điều tra, khảo sát có tính chất toàn diện tại quần đảo Hoàng Sa... Kết quả khảo sát đều phải báo cáo đầy đủ, trực tiếp cho Tổng thống để có cơ sở cho việc chỉ đạo khai thác và tăng cường thực thi chủ quyền tại quần đảo này. Một trong những hoạt động rõ nét là trên lĩnh vực kinh tế.

Series: LIỆU HỒ QUÝ LY CÓ BỊ HÀM OAN?


FB: Trung Hoang

HỒ QUÝ LY –MỘT BIỆN LUẬN DỰA THEO JOHN K. WHITMORE và MAI QUỐC ẤN

“Không ai có thể trách mặt trời vì đã mọc khi đêm qua lạnh lẽo.”

Không phải là chuyên gia về sử, nhưng tôi không tìm thấy bao nhiêu nét công bằng trong những gì sử Việt nói về Hồ Quý Ly. Có một nỗi day dứt khác, ngay ở nơi ông xây thành, và mở rộng ra trên cả nước, hầu như không có ngôi đền nào chính thức để thờ ông. Đó là một hệ luỵ bất công với một nhân vật lịch sử, là sự phản ánh rằng người Việt vẫn bị quy chiếu góc nhìn lịch sử của họ vào “quan điểm” và họ vẫn coi ông - gần như mặc định – là kẻ đã có dã tâm tiếm ngôi của nhà Trần. Điều đó thật tàn nhẫn, ông bị biến thành một kẻ phải đứng bên lề của lịch sử, một vị vua oan.

Thứ Bảy, 1 tháng 11, 2025

NGÔ ĐÌNH NHU VÀ CÔNG LAO ĐẶC BIỆT ĐỐI VỚI SỰ SỐNG CÒN CỦA CHÂU BẢN TRIỀU NGUYỄN *


NGÔ ĐÌNH NHU VÀ CÔNG LAO ĐẶC BIỆT ĐỐI VỚI SỰ SỐNG CÒN CỦA CHÂU BẢN TRIỀU NGUYỄN *
TS. Đào Thị Diến

Tạp chí Xưa và Nay, số 444 tháng 2 năm 2014
 
Ông Ngô Đình Nhu sinh ngày 7-10-1910 tại xã Phước Qua, tổng Cự Chánh, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên trong một gia đình quan lại theo đạo Thiên Chúa. Là con trai của Ngô Đình Khả, Thượng thư Bộ Lễ dưới triều vua Thành Thái,sau những năm tháng học tập dưới sự dạy dỗ của cha và hội giáo ở Huế, Ngô Đình Nhu sang Paris theo học tại các trường Đại học Văn khoa và Ngôn ngữ phương Đông.
Ông thi đỗ vào trường Cổ tự học Quốc gia vào năm 1935 và tốt nghiệp năm 1938 với luận văn về lịch sử Việt Nam lần đầu tiên được bảo vệ tại Pháp có nhan đề Phong tục và tập quán của người Bắc Kỳ từ thế kỷ thứ 17 đến thế kỷ thứ 18 theo các du khách và các nhà truyền giáo (Moeurs et coutumes des Tonkinois aux XVIlè et XVIIlè siecles d’apres les voyageurs et missionaires).

TRÒN 62 NĂM, NGÀY ANH EM ÔNG NGÔ ĐÌNH DIỆM BỊ SÁT HẠI TẠI SAIGON


Ông Ngô Đình Diệm (3.1.1901 - 2.11.1963) là một nhân vật lịch sử. Lịch sử sẽ phán xét rất công bằng về ông ấy. Tôi không phải là sử gia nên không dám lạm bàn. Nhưng ông ấy là một người yêu nước (điều này ông Hồ Chí Minh nói). Và ông rất thiết tha với cội nguồn văn hoá dân tộc. Điều này ai cũng biết.
 
Đây là lời tự bạch của Ông Ngô Đình Diệm: "Tôi không phải là thần thánh, tôi chỉ là một người bình thường, tôi chỉ biết thức khuya, dậy sớm làm việc, một lòng hiến dâng đời tôi cho đất nước và dân tộc".

Xin cầu nguyện linh hồn Ông Ngô Đình Diệm được an lạc nơi Nước Chúa, đời đời.!

Ảnh: Chân dung cố Tổng thống Ngô Đình Diệm. Hình ảnh Ông Diệm tiếp Quốc vương Thái Lan và vợ chồng Tổng thống Philippines.

Series: LIỆU HỒ QUÝ LY CÓ BỊ HÀM OAN?

Trần Khát Chân: giữa hai dòng thời đại

“Không ai có thể trách mặt trời vì đã mọc khi đêm qua lạnh lẽo.”

Trong những năm tháng cuối cùng của nhà Trần, khi bóng tối đã bao phủ lên ánh vàng của huy hoàng cũ, xuất hiện một con người được xem là mẫu mực của trung liệt, trí dũng và tiết tháo – Trần Khát Chân. Nhưng sự thật không giản dị như những trang sử vẫn kể. Con người ấy, trong cái nhìn sâu hơn, là hiện thân của một cuộc giằng co giữa hai thứ trung: trung với triều đại đang tàn, hay trung với vận mệnh quốc gia đang cần đổi thay. Lịch sử đã chọn cách ca ngợi ông như một vị trung thần, nhưng không trả lời câu hỏi khó nhất: liệu ông có thực sự tin vào cái triều đại mà ông bảo vệ, hay chỉ không đủ dũng cảm để bước qua giới hạn của thời đại mình?

Series: LIỆU HỒ QUÝ LY CÓ BỊ HÀM OAN? SỰ CÁO CHUNG CỦA THÁI DƯƠNG



“Không ai có thể trách mặt trời vì đã mọc khi đêm qua lạnh lẽo.”

Không có triều đại nào sụp đổ trong một khoảnh khắc, cũng như không có một con người nào đủ sức làm sụp đổ cả một triều đại. Những gì ta gọi là “cáo chung” thật ra chỉ là biểu hiện sau cùng của một tiến trình mục rữa kéo dài, âm thầm diễn ra trong lòng quyền lực, nơi những gì từng là cội rễ của sức mạnh dần biến thành gánh nặng. Nhà Trần, sau gần hai thế kỷ trị vì - với những võ công rực sáng như thái dương – dù vậy vẫn bước vào cuối thế kỷ XIV trong một trạng thái như thế — một sự suy yếu không bộc phát, mà lặng lẽ, kiên nhẫn, và toàn diện. Từ chính trị đến xã hội, từ kinh tế đến đạo đức, mọi thứ đều đang tự mất đi khả năng duy trì trật tự mà không cần cưỡng bức. Và khi một trật tự chỉ còn có thể tồn tại bằng cưỡng bức, nó đã đến giai đoạn tự diệt.

Hào quang ba lần kháng lại quân Nguyên – Mông hùng mạnh nhất địa cầu thời điểm đó, từng là biểu tượng của ý chí dân tộc, đã trở thành một thứ di sản không thể sử dụng được. Hào quang ấy không giúp được gì trong lúc triều đình kiệt quệ tài chính, nạn đói triền miên, dân bỏ ruộng phiêu tán, các điền trang lớn nuốt trọn nguồn lao dịch và thuế khóa. Một triều đại từng làm nên kỳ tích trên chiến trường lại bất lực trước ruộng cạn, dân đói, và bộ máy đang rệu rã. Trong cung điện, những vị vua trẻ được dựng lên rồi bị gạt xuống, các cuộc tranh đoạt trong họ tộc trở thành cơ chế duy nhất để phân chia quyền lợi. Tầng lớp quý tộc, từng là trụ cột quốc gia, đã tách hẳn khỏi nền kinh tế và đời sống dân gian. Họ không còn biết đến những cánh đồng, chỉ biết đến bổng lộc; không còn bảo vệ đất nước, mà chỉ bảo vệ quyền sở hữu của chính mình. Một trật tự như thế không thể tồn tại lâu: nó đã đánh mất mối dây ràng buộc căn bản nhất giữa quyền lực và đời sống.

Khi quyền lực mất gốc, mọi thứ còn lại chỉ là hình thức. Các nghi lễ vẫn diễn ra, triều phục vẫn chỉnh tề, pháp chế vẫn đọc vang, nhưng tất cả chỉ để duy trì cảm giác rằng trật tự vẫn còn. Ở những giai đoạn như vậy, mọi thay đổi đều bị coi là phản nghịch, và mọi người được giáo dục để tin rằng chết theo triều đại là biểu hiện của trung thành. Nhưng sự trung thành ấy, nếu không đi cùng với hiệu quả, chẳng khác nào tự sát. Từ góc nhìn của lịch sử, cái chết của một triều đại không bao giờ là tấn thảm kịch của đạo đức, mà là biểu hiện của sự bất lực tổ chức. Nhà Trần đã hết khả năng tổ chức. Những người cai trị không còn điều hành nổi đất nước; họ chỉ duy trì một cơ chế tưởng niệm cho quyền lực đã mất.

Trong bối cảnh ấy, bất kỳ ai có năng lực và ý chí hành động đều sẽ trở thành mũi nhọn của định mệnh. Hồ Quý Ly là người như thế. Ông không xuất hiện như một kẻ phá hoại, mà như một sản phẩm tất yếu của sự tan rã. Khi một cơ thể đang thối rữa, người đầu tiên dám cầm dao mổ luôn bị xem là kẻ sát nhân, dù thật ra họ chỉ đang cố gắng cứu lấy phần còn có thể sống. Ông xuất hiện không ngoài quy luật đó: vừa là kết quả của một trật tự cũ, vừa là phản ứng chống lại nó. Sự nghiệp của ông không sinh ra từ tham vọng nhất thời, mà từ một hiểu biết lạnh lùng về thực tế rằng: nếu không thay đổi, triều đại này sẽ bị lịch sử xoá bỏ cùng toàn bộ cơ cấu quốc gia. Hồ Quý Ly, trong nghĩa ấy, không phải là kẻ cướp ngôi, mà là người thực hiện phép tái định nghĩa quyền lực — một quyền lực được xây lại trên nền tảng của hiệu năng, chứ không còn dựa vào huyết thống hay danh nghĩa tông tộc.


Thời đại đã không còn chỗ cho những vị vua chỉ biết dựa vào tông tích. Nhưng xã hội thì vẫn bị trói buộc bởi ảo tưởng rằng huyết thống là định mệnh và vinh quang của triều đại là không thể lụi tàn. Hồ Quý Ly không chỉ đối diện với một triều đình đã rã mục, mà còn phải đối diện với cả tâm lý cộng đồng – thứ tâm lý vốn coi sự thay đổi là phạm thượng. Ông hiểu rằng để quốc gia có thể sống sót, cần phải khôi phục lại kỷ luật của nhà nước: phải biết thu, biết chi, phải có kỷ cương trong tuyển chọn người tài, phải đặt trật tự hành chính lên trên tình cảm họ hàng, và phải coi quốc gia là một cơ thể thống nhất chứ không phải là tổng cộng của các quyền sở hữu riêng. Đó là thứ lý trí mà thời đại chưa sẵn sàng chấp nhận.

Nhưng lý trí, dù bị ghét bỏ, vẫn là bản năng sinh tồn cuối cùng. Khi Hồ Quý Ly bắt đầu can thiệp vào tài chính, cấm các điền trang lớn mở rộng, kiểm soát chi tiêu triều đình, những người hưởng lợi từ trật tự cũ lập tức xem ông như kẻ thù. Khi ông lập lại kỷ luật thi cử, chọn người bằng học vấn và khả năng, họ coi đó là sự xúc phạm đối với quyền lực dòng dõi. Khi ông nói đến việc thay đổi tiền tệ, phát hành giấy bạc, giới cầm quyền coi đó là trò nghịch ngợm của một kẻ ngông cuồng. Và khi ông dời đô, họ gọi đó là hành động của kẻ phản bội. Trong mọi thời đại, người muốn sửa trật tự đều bị chửi là phản trật tự. Nhưng nếu nhìn sâu hơn, đó chính là khoảnh khắc mà một xã hội phải lựa chọn: tiếp tục mục nát trong yên ổn hay chịu đau đớn để tái sinh.

Hồ Quý Ly đã chọn đau đớn. Nhưng cải cách chưa bao giờ là hành động đơn giản. Ông phải đối mặt với một triều đình không còn đủ sức tự đổi mới, và một dân chúng bị cột vào hình ảnh của triều đại như cột vào hình ảnh của quốc gia. Khi quyền lực cũ sụp đổ, ký ức thay thế cho lý trí. Người ta không cần biết vì sao Trần sụp đổ, chỉ cần tin rằng nó bị “làm sụp”. Trong tâm lý cộng đồng ấy, Hồ Quý Ly trở thành biểu tượng của tội lỗi. Mọi thất bại của nhà nước đều bị đổ lên vai ông, kể cả những gì đã tồn tại trước khi ông nắm quyền. Còn chính ông, trong nỗ lực kiểm soát tình hình, càng phải sử dụng những biện pháp cứng rắn, khiến ông càng xa cách dân chúng hơn. Một nhà cải cách cô độc là hình ảnh buồn nhất của lịch sử, bởi ông vừa phải chiến đấu với quá khứ, vừa bị tương lai chưa kịp hình thành nghi ngờ.
Sự kiện dời đô về Tây Đô là một minh chứng cho tư duy chiến lược của Hồ Quý Ly, và cũng là minh chứng cho sự không hiểu của hậu thế. Người ta gọi đó là hành động chạy trốn, nhưng trốn thì không xây thành bằng đá. Ông không rời bỏ Thăng Long, ông chỉ rút nó vào một cấu trúc phòng thủ sâu hơn. Xây thành Tây Đô là cách ông viết xuống một chân lý chiến lược: quyền lực chỉ tồn tại nếu có không gian để lùi đủ xa khỏi mối đe doạ mà mình chưa đủ sức kháng cự. Khi quốc gia bị đe dọa từ phương Bắc, việc giữ kinh đô ở vùng trũng dễ bị tấn công là điều không thể chấp nhận. Tây Đô, với quy hoạch chặt chẽ, tường thành kiên cố, là bước đầu của một nỗ lực phòng ngự có tính toán. Nhưng trong con mắt của những người chỉ nhìn thấy nghi lễ, việc ấy trở thành biểu tượng của phản nghịch. Họ không hiểu rằng để bảo vệ một quốc gia, đôi khi phải rời bỏ những biểu tượng từng thiêng liêng, vì giữ lại chúng chỉ khiến quốc gia chết nhanh hơn.

Khi nhà Minh bắt đầu mở rộng thế lực, Đại Việt đã không còn sức kháng cự. Mọi nguyên nhân đều đã có từ trước: dân đói, kho trống, quân yếu, lòng người chia rẽ. Hồ Quý Ly, với tất cả nỗ lực chỉnh trị, không thể bù đắp nổi những vết nứt đã kéo dài qua nhiều thế hệ. Sự thất bại của ông trong cuộc kháng chiến chống Minh không thể được xem là nguyên nhân “mất nước”; nó là hệ quả của một tình trạng đã mất từ lâu. Nhưng lịch sử, khi được kể lại bởi kẻ thắng, luôn cần một người gánh tội. Và Hồ Quý Ly, người cuối cùng cầm quyền trước khi Đại Việt rơi vào tay đế chế, trở thành tấm bia hoàn hảo cho mọi phẫn nộ của hậu thế. Người ta quên rằng ông đã cố gắng, rằng những gì ông làm – siết lại kỷ cương, dựng lại nền tài chính, tổ chức lại hành chính – đều là hành động của một người cố gắng cứu vãn, không phải của một kẻ muốn phá. Nhưng trong con mắt của lịch sử đạo đức, kẻ thất bại luôn là kẻ có tội.
Hồ Quý Ly là một nhà tổ chức trong thời đại chưa biết cần tổ chức, là một người duy lý giữa đám đông duy tín. Ông tin rằng quyền lực phải được phân phối theo năng lực, rằng đạo đức trị quốc không thể thay thế cho kỹ năng, rằng trung thành không thể là cái cớ để che đậy sự bất tài. Những tư tưởng ấy, với xã hội Việt Nam thế kỷ XIV, là quá sớm. Mọi lý trí đến sớm đều bị xem là vô đạo. Ông không thể thắng, bởi ông nói bằng ngôn ngữ của tương lai trong khi mọi người xung quanh vẫn nói bằng ngôn ngữ của quá khứ. Nhưng chính vì vậy mà ông đáng để được hiểu lại: không như một nhân vật chính trị, mà như một dấu mốc của sự tiến hóa trong tư duy quốc gia. Ông thất bại vì thời đại chưa sẵn sàng, chứ không phải vì ông sai.

Lịch sử Việt Nam sau đó đã đi tiếp trên con đường ông mở ra mà không biết, hoặc giả vờ không biết. Khi nhà Lê sơ lên, họ làm lại gần như tất cả những gì ông từng thử: tập trung quyền lực vào triều đình, củng cố tài chính, đặt lại kỷ luật quan lại, thi cử chọn người, kiểm soát đất đai, lập pháp rõ ràng. Họ làm điều ấy trong hòa bình và được tôn vinh, còn ông làm giữa khủng hoảng và bị nguyền rủa. Lịch sử đôi khi chỉ khác nhau ở thời điểm. Cùng một hành động, ở lúc này là phản nghịch, ở lúc khác là khai sáng. Hồ Quý Ly sinh ra trong khoảnh khắc tồi tệ nhất: khi cái cũ chưa chết hẳn, và cái mới chưa kịp thành hình. Ông không thể tránh khỏi bi kịch ấy, bởi lịch sử không có lòng nhân đạo với người đến sớm.

Và thế là, từ trong lớp bụi của định kiến, hình ảnh Hồ Quý Ly vẫn mờ đi giữa hai thái cực: một bên gọi ông là kẻ cướp ngôi, bên kia coi ông là nhà cải cách đi trước thời đại. Nhưng có lẽ cách công bằng nhất để nhìn ông là coi ông như một mắt xích: người kết thúc một trật tự đã kiệt sức, và đặt nền móng cho một trật tự khác. Nếu ông không tồn tại, nhà Trần vẫn sụp; chỉ có điều, sự sụp đổ ấy sẽ vô nghĩa. Ông biến nó thành một bước ngoặt. Và trong chừng mực nào đó, chính việc ông bị hiểu lầm lại làm rõ hơn tính tất yếu của vai trò ấy: mọi sự thay đổi thực sự đều bị phản kháng bởi những người cần nó nhất.
Khi nói về sự cáo chung của nhà Trần, người ta thường tiếc nuối một thời hưng thịnh, nhưng ít ai chịu nhìn thẳng vào nguyên nhân. Triều đại ấy sụp không phải vì bị phản bội, mà vì không biết phản tỉnh.
 Sức mạnh của nó bị chính nó ăn mòn. Và Hồ Quý Ly, trong tư cách một cá nhân, chỉ là biểu hiện nhìn thấy được của quy luật đó. Lịch sử không hề phụ thuộc vào lòng trung, mà phụ thuộc vào khả năng tự sửa mình. Một dân tộc, một thể chế, hay một con người — nếu không dám tự sửa, sẽ bị lịch sử sửa. Hồ Quý Ly đã cố gắng sửa, và bị lịch sử trừng phạt. Nhưng nếu không có ông, có lẽ lịch sử Việt Nam sẽ thiếu mất một bài học: rằng đôi khi, để cứu một quốc gia, phải dám chịu tiếng là kẻ phản nghịch.

Nhà Trần chết trong ánh sáng hoàng hôn của chính mình. Hồ Quý Ly bước ra từ bóng tối của sự mỏi mệt ấy, không như một kẻ phá, mà như người kết thúc cần thiết. Ông không phải anh hùng, cũng không phải tội nhân. Ông là người mang lý trí vào thời đoạn phi lý, mang trật tự đến trong cơn hỗn loạn, và mang bi kịch của kẻ đi trước thời gian. Mọi triều đại sau ông, bằng cách này hay cách khác, đều đi trên con đường ông đã mở. Lịch sử sẽ tiếp tục quên, rồi lại nhớ, nhưng ý nghĩa của sự xuất hiện ấy thì không bao giờ mất: đó là khoảnh khắc mà Việt Nam, lần đầu tiên, nhìn thấy chính mình trong gương của lý trí.
Nói cách khác, ông đã đến quá sớm, trong một thời đại đã quá muộn.

(Còn tiếp)

NHẤT PHIẾN BĂNG TÂM


Ở xóm Sui làng Mông Phụ có cái giếng, bên cạnh có tấm bia, trên bia có 4 chữ Nho “Nhất Phiến Băng Tâm”.
 Ấy là 4 chữ lấy từ một bài thơ Đường. Bài thơ này rất nổi tiếng nên các đồ sứ của Trung Hoa cũng thường vẽ tranh và đề bài này bên cạnh.

Toàn văn như sau:

PHÙ DUNG LÂU TỐNG TÂN TIỆM
Vương Xương Linh

芙蓉樓送辛漸其一

寒雨連江夜入吳,
平明送客楚山孤。
洛陽親友如相問,
一片冰心在玉壺。

Phù Dung lâu tống Tân Tiệm (kì 1)
Hàn vũ liên giang dạ nhập Ngô,
Bình minh tống khách Sở sơn cô.
Lạc Dương thân hữu như tương vấn,
Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ.

Dịch nghĩa

Mưa lạnh rơi khắp mặt sông trong đêm vào đất Ngô,
Khi trời sáng tiễn khách chỉ có ngọn núi đất Sở trơ trọi.
Nếu như bạn bè thân thích ở Lạc Dương có hỏi thăm,
(Thì xin đáp tôi vẫn giữ) một mảnh lòng trong sáng như băng trong bình ngọc.

Chú giải:
 
- Phù Dung lâu do vua nhà Đông Tấn cho xây và đặt tên ở tại phía tây bắc thành Trấn Nam phủ (nay là tây bắc huyện Đan Dương, tỉnh Giang Tô).
- dạ nhập Ngô: Tác giả mới ra làm quan ở Ngô, ban đêm sông nước mưa lạnh vừa đến, thì sáng sớm hôm sau lại đưa Tân Tiệm về Lạc Dương, tiễn chân ở đất Sở.
- Sở sơn cô: Ngọn núi trơ trọi ở đất Sở. Có nơi hiểu là núi Cô ở đất Sở.
- Lạc Dương: Giờ là Hà Nam.

Bản dịch của Đông Sơn cư sĩ

Đêm mưa thuyền tếch sông Ngô,
Chon von núi Sở sáng đưa khách về.
Lạc Dương bạn hỏi xa quê,
Giá trong hồ ngọc lòng thề như in.

Bản dịch khuyết danh

Canh thâu lác đác tiếng mưa,
Tiễn nhau núi Sở sông Ngô đưa đường.
Mượn về dặm khách Lạc Dương,
Giá trong lòng vẫn thường thường thế đây.

Nguồn: Đường Thi Quốc Âm Cổ Bản, Nguyễn Xuân Diện - Trần Ngọc Đông, NXB tổng hợp TP HCM, trang 359-360

Bản dịch của Nam Trân

Mưa lạnh tràn sông đêm đến Ngô
Sáng ra tiễn khách núi buồn trơ
Lạc Dương nếu có người thân hỏi
Một mảnh lòng băng tại ngọc hồ.

Bản dịch của Trần Trọng Kim

Đang đêm mưa lạnh vào Ngô,
Sáng ngày đưa khách, núi cô trập trùng.
Lạc Dương bầu bạn hỏi cùng,
Băng tâm một mảnh ở trong ngọc hồ.

Nguồn: Trần Trọng Kim, Đường thi, NXB Văn hoá thông tin, 1995

Bản dịch của Cao Tự Thanh

Mưa lạnh theo sông tối tới Ngô,
Sáng ra đưa khách núi Nam sầu.
Bạn bè đất Lạc như thăm hỏi,
Một mảnh lòng băng giữa ngọc hồ.

Nguồn: Cao Tự Thanh, Giai thoại thơ Đường, NXB Phụ nữ, 1995.
Cảm ơn bạn Nguyễn Văn Xá đã tìm được nhiều bản dịch cho bài thơ này.
Ảnh giếng Sui (ảnh Sandinh.com)
Bình gốm và tranh: Từ Hạnh.





Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2025

LÀNG MÔNG PHỤ (ĐƯỜNG LÂM) - XƯA VÀ NAY


Bài của Nguyễn Xuân Diện
Tháng 6/1997

Xin được bắt đầu câu chuyện về làng cổ Mông Phụ từ những cái giếng của làng quê ấy. Làng có 5 xóm, mỗi xóm có một cái giếng khơi quanh năm nước đầy và trong được xây bằng đá ong loại tốt nhất. Mỗi cái giếng đều nổi tiếng và được định vị bởi những giai thoại rất thú vị. Một cái giếng có tấm bia khá lớn dựng ngay bên cạnh, đề bốn chữ “Nhất phiến băng tâm” (lấy chữ từ Đường thi) nhắc người đời giữ giếng sạch trong như giữ lòng trong sáng. Một cái giếng khác có bia ghi về việc sửa giếng vào năm 1705 mà bài bi ký ấy lại do một vị Tiến sĩ chấp bút. (Ghi lại một việc sửa giếng cũng nhờ tay một ông Nghè, xem thế, đủ biết giếng làng quan trọng đến như thế nào). Còn một cái giếng kia thì lại là khởi nguồn cho một câu chuyện thi vị. Giếng ấy, xưa kia có một cái gầu múc nước dùng chung cho cả xóm. Trai gái làng đã khéo hò hẹn nhau qua một mối dây gầu. Chiều chiều đi gánh nước, người con trai kia đã ngấm ngầm thắt một nút trên sợi dây gầu. Và họ đã nhận ra tín hiệu của nhau. Một mối dây gầu thắt lại, ấy là hò hẹn, là dấu hiệu đêm ấy họ gặp gỡ nhau ở điểm đã hẹn. Đêm ấy, có một cô gái trốn nhà đi chơi. Mối dây gầu như một thông điệp, như thắt chặt mối tình của đôi người yêu nhau nơi thôn dã. Mối dây nên vợ nên chồng, nên ông nên bà cả trăm năm.
 
Nước giếng Hè, giếng Giang là ngọt hơn cả, nên nhà nào làm đám cưới đều đến lấy nước ở các giếng đó về dùng. Người ta đồn rằng như vậy đôi bạn trẻ kia sẽ hạnh phúc đến đầu bạc răng long.

Khi nghe tôi kể về những cái giếng đá ong trứ danh ấy, một ông bạn của tôi cứ khăng khăng bảo rằng thủy thổ như vậy, tất phải là đất chuộng văn học và phải là nơi phát khoa danh, văn hiến truyền đời.
Cách thị xã Sơn Tây yên bình và xinh đẹp 4 km, có một con đường đất dài gần 1 km, dẫn từ đường quốc lộ 32 vào một cổng làng cổ kính nằm bên gốc đa già: Cổng làng Mông Phụ. Trên con đường non một cây số ấy, nếu ta gặp được một người hay chuyện, thì ta cũng biết được khối chuyện để rồi đi hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Nào gò Yên Ngựa, gò Núm Chiêng, gò Tang Trống, nào gò Mũi Dáo, Mũi Mác... như đặt như bày, cùng sóng hàng hai bên lối đi với khí thế hùng hậu.

Xa xa là núi Tản mờ xanh đỉnh quyện khói mây mà những đồi xa đồi gần như đàn rùa khổng lồ chầu non thiêng của Đức Tản Viên. Văn Miếu tỉnh Sơn, làng cũ của Ngô Vương và Phùng Bố Cái quanh quất kề bên, mà đền Và thờ Thánh Tản Viên, miếu Mèn thờ mẹ Hai Bà Trưng chỉ là láng giềng gần.

Làng Mông Phụ có ngôi đình thật to. Đình làng Mông Phụ là chốn hội nhân, vì nó là đầu mối giao thông lớn của cả làng. Nhiều nhà dân tộc học, nhà nghiên cứu lịch sử Mỹ thuật đã về nghiên cứu ngôi đình này. Riêng cái xích hậu (một hạng mục trong tổng thể kiến trúc của đình) cũng đã làm cho một vị giáo sư phải bóp trán suy nghĩ tính toán mất mấy ngày về tên gọi, chức năng sử dụng của nó. Một học giả nước ngoài thì sung sướng khi phát hiện ra rằng, đình Mông Phụ là mối giao thông, vậy mà kẻ qua người lại chẳng có ai quay lưng thẳng lại với tòa đại đình cả. Đình Mông Phụ hiện còn giữ được nhiều tự khí cổ có giá trị về mỹ thuật.

Ngay cạnh đình là nhà thờ Thám hoa Giang Văn Minh, vị sứ thần đã làm rạng danh cho đất Việt vào dịp tuế cống nhà Minh năm 1638. Trong nhà thờ hiện còn đầy đủ cả bia đá, biển đề và tự khí cổ truyền. Hàng năm, ngày giỗ Thám hoa Giang Văn Minh vẫn cứ là ngày giỗ lớn của cả họ Giang. Nhà thờ hiện còn đôi câu đối ca ngợi tiếng thơm của Giang Thám hoa và ca ngợi lễ nghĩa, phong tục của làng Mông Phụ.
 
Lễ nghĩa bách niên Mông Phụ ấp
Phong thanh thiên cổ Thám hoa môn.
(Trăm năm lễ nghĩa làng Mông Phụ
Ngàn thuở danh thơm cửa Thám hoa).

Xa xa, giữa cánh đồng kia là đình Giang (còn gọi là quán Giang), nơi quàn linh cữu của Thám hoa trước khi an táng Người. Chuyện rằng: Khi sang sứ nhà Minh, ông đã đối đáp khảng khái, giữ được quốc thể, nên đã bị vua Minh sai người mổ bụng để xem bên trong có đúng là có một túm lông ở trong lá gan không. Ông đã không tránh được cái chết dưới lưỡi dao đồ tể và mưu đồ hại người tài của vua quan nhà Minh.

Thi hài của Giang Thám hoa được chuyển về nước. Ngựa trạm từ cửa ải Lạng Sơn về báo với dân làng Mông Phụ và triều đình từ 6 tháng trước khi mang được quan tài ông về đến quê. Trong 6 tháng ấy, những người dân địa phương đã đào đá ong xây một ngôi nhà để đón linh cữu của ông. Ngôi nhà ấy có 8 cột đá ong nguyên khối, khi dựng cột phải cần đến mấy chục trai đinh khỏe mạnh mới có thể làm được.

Ngoài nhà thờ họ Giang, các dòng họ khác đều còn giữ được nhà thờ Tổ, là nơi quy tụ anh linh tiên liệt và giáo dục truyền thống gia tộc. Nhiều vị danh nhân tên tuổi rạng rỡ nơi khoa giáp, hiển hách chốn triều chính xưa đã xuất thân từ các dòng họ này.

Người dân làng Mông Phụ hiền lành, chất phác, cư xử rất trọng lễ nghĩa. Cái thiên tính ấy có thể biết được mỗi khi chúng ta giao tiếp với họ. Người làng Mông Phụ nói bằng thứ tiếng nặng nặng của mình. Mông Phụ là một trong bốn làng nằm trên một cái gò đất rộng. Trên cái gò đất ấy, bốn làng cùng chung cả thủy, thổ, vậy mà cách phát âm của mỗi làng ấy vẫn cứ khác nhau. Dân làng Mông Phụ có nếp sống riêng và tiếng nói thô và nặng chất Việt cổ. Đến bây giờ tiếng làng vẫn được dân làng bảo trọng, giữ gìn. Các cụ già trong làng cho rằng, người dân dù tha phương nơi đất khách quê người, dù lưu lạc nơi góc bể chân trời, mà khi trở về quê hương bản quán vẫn nói được tiếng làng là không quên gốc, rất đáng quý trọng.

Người dân Mông Phụ rất trọng việc học hành. Xưa làng có nền Văn chỉ để thờ Khổng Tử và các vị danh nho đỗ đạt của làng. Văn bia “Bản xã tiên hiền bi ký” trên bia Văn chỉ của làng do cụ Mai Hiên Nguyễn Công Hoàn thân phụ của Tiến sĩ, Thượng thư 6 bộ Nguyễn Bá Lân, người làng Cổ Đô, huyện Tiên Phong, nay là Ba Vì, Hà Tây soạn vào năm Long Đức 2 (1733). Bản Quy ước văn hóa của làng dành hẳn một điều để nhấn mạnh trách nhiệm mỗi gia đình phải tạo điều kiện để con em mình được học hành tốt. Hàng năm, làng có tổ chức họp mặt và tặng quà cho các học sinh thi đỗ vào các trường đại học.
Được khích lệ, động viên kịp thời, trẻ em trong làng rất chịu khó học hành. Nhiều gia đình cuộc sống còn vất vả mà vẫn gắng công nuôi con ăn học. Người tài được sinh ra từ làng quê này không phải là ít, xưa cũng vậy và nay cũng vậy. Người ta bảo Mông Phụ là đất học cũng là vì thế. Dù ra đồng, hay vào làng là đều gặp những biểu tượng tôn vinh việc học. Kìa bia Văn chỉ năm tháng rêu phong vẫn lưu dòng bút tích, nọ cửa Thám hoa trăm năm cổ kính còn ngời dấu vinh phong. Nhà thờ họ Phan, họ Hà, họ Nguyễn... còn đấy, vẫn nghi ngút khói hương ghi ơn tiên liệt. Lăng cụ Tuần, mộ cụ Giáo cùng chùa Ón rêu phong giữa cánh đồng là hiện diện của khí tượng văn võ vô song.
 
Làng Mông Phụ là một làng đồi, song vì đây là một điểm quần cư rất sớm nên không có cảnh những ngôi nhà tọa lạc giữa vườn cây trái sum suê, nhà nọ cách nhà kia bằng cả một khoảnh vườn rộng lớn. Ở đây nhà cửa san sát, lối ngõ đan cài. Nhà xây chủ yếu bằng vật liệu đá ong - một loại “đặc sản” của miền trung du nắng cháy, một vật liệu “đắc dụng” trong kiến trúc xưa. Có những nhà xây hẳn tòa cổng lớn bằng đá ong để trần không trát vữa; đá lại được đẽo gọt trang trí công phu rất ưa nhìn. Qua tháng qua năm, qua nắng hạ mưa đông tắm sương gội nắng, cái cổng đá ấy thêm chắc thêm bền. Cái cổng đá ong đẹp một vẻ đẹp mộc mạc đơn sơ mà đủ vẻ thanh kỳ quyến chân du khách. Đá cũng trở nên có hồn!
Làng Mông Phụ nhà cửa san sát, ngõ xóm chằng chịt, chẳng khác nơi đô thị, vậy mà cũng không trở thành một làng buôn nổi tiếng. Điều này đã làm cho nhiều học giả trong và ngoài nước rất để tâm lý giải. Giáo sư Trần Quốc Vượng đã về đây nhiều lần, cũng ăn ở với dân làng để tìm ra bí ẩn của cái giáp ở đây. Giáo sư Nguyễn Dương Bình về Mông Phụ để khảo mấy chữ Bố Cái Đại vương và những vấn đề liên quan.Còn Giáo sư Diệp Đình Hoa thì khẳng định 4 làng cổ ở Đường Lâm trong đó có làng Mông Phụ đã có lịch sử 4000 năm; và đã nối cho Mông Phụ mối dây truyền thống từ thời đại đồ đồng thau đến hôm nay.

Mông Phụ, cho đến hôm nay vẫn vẹn nguyên dáng cổ. Cả làng hiện không có nhà hai tầng nào. Không phải là vì dân nghèo, mà vì đã có một lời nguyền không ai được xây cao hơn mái đình. Và thế là trong làng, ngoài đồng đều còn nguyên cả, từ nhà cửa, đình đền đến quán trạm, lăng mộ... Đường đi lối lại phong quang sạch sẽ, ưa nhìn. Rất nhiều đoàn làm phim đã về làng Mông Phụ để chọn bối cảnh dựng phim. Nhiều thước phim tài liệu, khoa học, du lịch đã được quay tại đây. Hồi trước, làng Mông Phụ là nơi sơ tán của anh em văn nghệ sĩ Hà Nội, nên vẻ đẹp như tranh của làng đã vào tranh của rất nhiều họa sĩ. Bức tranh vẽ cổng làng Mông Phụ của họa sĩ Phan Kế An (người làng Mông Phụ) hiện đang được lưu giữ tại Viện bảo tàng Mỹ thuật ở nước ngoài.

Cảnh quan tốt đẹp, dáng cổ vẹn nguyên, những gì xa xưa vẫn còn giữ lại đến hôm nay, không bởi tại trời mà bởi tại người. Người dân làng quê này đã bao đời quần tụ trong môi trường ấy, gìn giữ và tô điểm cho nét văn của làng. Cảnh quan ấy có được là do mỗi người dân đều gắng công xây dựng, gìn giữ rất tự nguyện. Xưa làng có Hương ước, nay làng có Quy ước văn hóa làm khuôn mẫu cho tất cả mọi người.

Có thể hình dung một phần cuộc sống xưa kia của làng qua bản Hương ước cổ của làng, cái hay cũng có mà cái dở cũng không phải là không có. Trên tinh thần gạn đục khơi trong, dân làng đã xây dựng cho mình một bản quy ước mới gồm 6 chương với ngôn ngữ dễ hiểu, dễ nhớ và ngắn gọn, phản ánh đầy đủ những nội quy mà mỗi thành viên trong làng phải thực hiện.
Hiện nay làng Mông Phụ đã có một thư viện với 5 số báo và một tủ sách phục vụ bạn đọc cho mọi lứa tuổi vào các ngày thứ ba, thứ năm và thứ bảy hàng tuần. Ngày mùng 3 tháng 3 âm lịch hàng năm, làng tổ chức đấu vật (trong Hương ước cổ gọi là giao điệt) ở chùa Ón rất đông vui. Chùa Ón, gọi là chùa nhưng không phải là nơi thờ Phật. Đó là một nếp nhà gỗ ba gian và một hậu cung nhỏ, bên trong không có tượng Phật mà chỉ có một bát hương nhỏ, bát hương này chỉ được thắp hương vào ngày hội vật hàng năm.

Làng không phải là đã giầu, nhưng đã có nhiều ti vi, xe máy và máy điện thoại.

Và đường làng chắc sẽ còn rộng thêm ra để xe ô tô từ các nẻo đường đi về đây mà tham quan, nghiên cứu, khám phá mọi khía cạnh văn hóa của một làng cổ khá tiêu biểu của trung du Bắc Bộ.
Giáo sư Trần Quốc Vượng về làng nghiên cứu đã từng coi đây là “Một làng rất đáng được nghiên cứu, ít nhất cũng về phương diện lịch sử và bảo tàng học”. Thật vậy! Sau khi bạn bước chân vào con đường dẫn vào làng, bạn đã thấy được núi xa đồi gần rất hùng hậu mà thanh bình. Trên con đường vào làng bạn đã được thấy gốc đa kề sát cổng làng rất cổ kính, thấy mái đình nét cong duyên dáng. Và những ngôi nhà cổ vẫn còn đây. Bước qua lần cổng là gặp một sân lát gạch. Góc sân sẵn mấy chum tương - mà cái tương cà gia bản là cái sinh hoạt thường ngày của người nông dân xứ Bắc. Có chum tương nó biểu hiện như một cái gì đó nền nếp, căn bản của nền kinh tế nông nghiệp. Nhà lợp ngói mũi, cấu kiện tòa nhà đều bằng gỗ đã nâu một mầu thời gian. Bàn thờ ở gian giữa, một vị trí trang trọng nhất của một gia đình. Hoành phi câu đối nét vàng chói lọi ca ngợi tổ tiên, nêu cao nếp gia phong truyền đời. Nhà cổ ấm về mùa đông và mát mẻ về mùa hè. Cả không gian là một màu nâu; màu sẫm của ngói, gỗ, vật dụng tiện nghi, và cả màu nâu ngăm ngăm khuôn mặt chữ điền của chủ nhân. Nếu là người hay chuyện, ham học hỏi, bạn sẽ được chủ nhà giảng giải cho mọi điều về một ngôi nhà cổ. Nào là cửa gỗ bức bàn, nào là cái dại cửa, chồng giường, thượng thu hạ thách... gom góp lại, cùng với những gì đã đọc, nếu thông minh bạn cũng có thể hình dung được về kiến trúc nhà cửa ở nông thôn Việt Nam mấy trăm năm về trước, cũng như lịch trình của kiến trúc nhà ở nông thôn, nắm bắt được tâm tính và phong cách của người dân Việt ở châu thổ Bắc bộ Việt Nam.

Khi đêm về, các ngõ lớn là nơi tụ tập của đám trai gái làng. Còn trong xóm nhỏ là nơi các bậc lão nông tri điền hội ẩm bên ấm nước chè xanh vừa hãm. Chuyện làng, chuyện nước, cả chuyện quốc tế nữa được đàm luận dõng dạc như các bậc lão thần bàn quốc sự. Gặp một hội uống chè như thế, bạn nên ngồi im mà nghe và cứ hãy tỏ ra là người ít nói, bạn sẽ được biết nhiều chuyện lắm đấy!

Các thế hệ cháu con họ Giang, họ Phan, họ Đỗ, họ Hà... ở Mông Phụ đều có thể tự hào về truyền thống của gia tộc, tự hào về công tích của cha ông tiền bối. Tên tuổi của các tiên liệt vẫn còn lưu trong sử vàng bia đá, và hành trang của các tiên liệt vẫn còn làm nên những huyền thoại trong dân gian xứ Đoài...

Họ Đỗ xưa nay vốn có tiếng là cao cờ. Xưa, nghe nơi nào có hội là người họ Đỗ lại rủ nhau đi giật giải chơi và lần nào cũng giật được giải. Có bao nhiêu hội lớn hội nhỏ ở cái tỉnh Đoài này, nếu họ Đỗ không đến thì thôi, chứ nếu đến là giải về tay họ Đỗ cả. Dân làng bảo “Cờ họ Đỗ, giỗ họ Giang” là vì thế! Tôi được nghe kể rằng, xưa có một vị họ này trên đường đi nhậm chức, hai cha con đi hai cái võng, cứ thế đánh với nhau cái ván cờ tưởng tượng trên suốt dặm đường mà không hề có quân đi, không có bàn bày chi hết. Lại có người bảo, vị quan Đốc (học), người sở hữu viên đá cuội cứ bỏ vào bát nước lã là thành rượu thơm trong thiên truyện “Trên đỉnh non Tản” của cụ Nguyễn Tuân nửa hư nửa thực ấy chính là chuyện có thật của cụ Đỗ Doãn Chính, ông tổ của dòng họ Đỗ nổi tiếng hay chữ, Đốc học tỉnh Sơn Tây hồi xưa. Chuyện là thế, thực hư thế nào, xin chờ các bậc thức giả giúp hiểu biết sau vậy.

Nhưng tôi biết chắc rằng, cụ Đỗ Doãn Chính là Bang biện tỉnh vụ kiêm Đốc học Sơn Tây cùng với học trò là Giang Văn Sâm, là tác giả của hai bài văn bia “Vân Già Đông Chấn cung”, soạn năm Tự Đức 36 (1884); hiện bia còn đặt tại nhà Tiền tế đền Và, nơi thờ Tản Viên Sơn thần, một trong những đại danh thắng của xứ Đoài. Phòng sách của cụ có hoành phi đề ba chữ “Dưỡng tâm an”, nay hãy còn.
Con cháu của cụ Đốc học là cụ Đội Hớn, tức Đỗ Vân Hán là tác giả của một truyện thơ Nôm lục bát dài có nhan đề là Tản Viên Sơn sự tích để ca ngợi uy linh của Đệ nhất Phúc thần Tản Viên Sơn. Bản truyện này với thư pháp tuyệt đẹp là thủ bút của cụ nay con cháu vẫn giữ gìn cẩn thận.

Mông Phụ là đất văn vật. Tâm tính của người dân chất phác, phóng khoáng mà khảng khái. Xưa, làng có nhiều võ quan, hình quan tài đức, tiết tháo. Quan Án sát Nguyễn Khắc Nguyên thời gian nhậm chức ở Quảng Bình rất được nhân dân kính trọng. Ông cũng từng là thế lực đối lập với quan đại thần Trương Đăng Quế thời Tự Đức, nhà Nguyễn. Dân làng Mông Phụ khi làng cũng như ở nơi thiên hạ rất đoàn kết với nhau. Vào khoảng đời Thành Thái (1889-1907) có bọn giặc cướp quấy phá, dân làng đã hạ thủ được tướng cướp, triệt nọc được một băng cướp khét tiếng tỉnh Đoài. Vì thành tích ấy, làng được Công sứ đại thần, Tuần phủ Sơn Tây vâng mệnh vua ban tặng cho dân làng bức hoành phi “Dũng cảm khả tưởng” (Dũng cảm đáng khen) để biểu dương. Bức hoành phi này nay vẫn còn treo ở đình làng..
 
Mông Phụ là một làng nông nghiệp thuần túy. Nguồn sống chính của dân làng vẫn là từ nghề làm ruộng. Mông Phụ và Phụ Khang là hai làng chủ yếu của HTX Nông nghiệp Đường Lâm. Làng cổ, nghề xưa truyền đời nên người dân Mông Phụ có trình độ canh tác, kinh nghiệm cao. Họ thật sự là những lão nông tri điền. Họ có thể giảng giải cho chúng ta một cách tường tận về những trải nghiệm và hiểu biết của mình về đất, nước, cây con và thời tiết, mùa vụ như một chuyên gia thực thụ.

Xưa, ở đây có nhiều sản phẩm nông nghiệp nổi tiếng đã trở thành phương ngôn:
 
Dưa hấu, dưa gang là làng Mông Phụ
Nước giếng Giang, khoai lang Đồng Bường.
 
Đàn bà con gái Mông Phụ không có vẻ đẹp thanh thoát của phụ nữ liễu yếu đào tơ mà họ có khuôn hình chắc khỏe của người con gái trong tranh Tố nữ và trong tác phẩm điêu khắc cổ dân gian. Mặt to, đầy đặn, lông mày dày, ánh mắt hiền hậu, vai rộng, ngực nở và tiếng nói ấm trầm. Đấy là những gì có thể nói về người con gái làng Mông Phụ. Những bà già Mông Phụ mặt vuông chữ điền, mũi to và cao, khiến người ta phải nghĩ rằng đây chắc là vợ hay con gái một ông quan nào đó.

Hy sinh và chịu đựng, chịu thương, chịu khó, nhưng người đàn bà thôn quê này rất hiền hậu, thương chồng yêu con rất mực. Và mỗi người đều mang sẵn trong mình cái mơ ước được “võng anh đi trước, võng nàng đi sau” trở thành bà Thám, bà Nghè, bà Cử. Nhiều người trong số họ được đáp đền xứng đáng.

Đặc biệt làng Mông Phụ có một người phụ nữ được tôn vinh là Hậu thần, được phối thờ cùng Thành hoàng. Đó là bà Giang Thị Thắng, chị gái của sứ thần Giang Văn Minh, một người phụ nữ thông minh, tài đức đã từng được vua vời vào kinh để làm Nhũ mẫu. Bà cùng với chồng là Phù Việt hầu Cao Phúc Diễn (người làng Cam Thịnh) được tôn vinh là Thánh ông và Thánh bà ở đình làng Cam Thịnh, cùng xã. Hiện nay, ở trong đình làng Cam Thịnh còn giữ được một tấm bia lớn “Hậu thần bi ký” dựng năm Cảnh Thịnh thứ 8 (1712) đời Lê Dụ Tông để ghi nhớ việc ông bà đã cúng 400 quan tiền và 2 mẫu ruộng “thượng đẳng điền” cho làng.

Bà Phan Thị Biên là cháu dâu và các bà Giang Thị Phương, Giang Thị Thưởng là chắt của Thám hoa Giang Văn Minh là những người hưng công và có đóng góp lớn trong việc xây dựng giếng làng được ghi tên trong bia “Tu lý bi ký”.
 
Ai có về Mông Phụ hôm nay hẳn sẽ cảm thấy rất sung sướng vì được sống trong một không gian Việt trong lành, thuần phác. Không gian ấy là không gian hòa quyện giữa núi xa và đồi gần, giữa ruộng lúa nước và nương khoai đồi, giữa cái bình thản của thế đất và cái san sát của xóm làng, sự hòa quyện của cổ và kim trong kiến trúc, quy hoạch và lối sống cộng đồng. Không gian ấy đích thực là một không gian văn hóa nhiều chiều. Chúng ta sẽ gặp ở đây nét văn hóa của làng xưa chuộng lễ nghĩa, trọng học và sự tiến bộ. Từ xa xưa đến nay, Mông Phụ vẫn cứ là đất mến khách. Đến đây, bạn sẽ được thỏa ước nguyện tìm hiểu, nghiên cứu, khám phá cho dù bạn là người khó tính hoặc cầu toàn nhất. Văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của làng Mông Phụ như mách bảo cho bạn biết rằng bạn đã đến một làng văn hóa thực thụ. Làng văn hóa này không phải của riêng Sơn Tây, hay tỉnh Hà Tây mà là của cả nước.

Về với Mông Phụ, cho dù bạn không phải là người con của quê hương ấy thì khi cất bước chân đi bạn cũng sẽ thấy đây là một quê hương của bạn rồi. Vì rằng Mông Phụ có tất cả vẻ đẹp cổ truyền và vẹn nguyên của một làng văn hiến mà hồn của muôn xưa vẫn còn hiện diện đâu đây, trong giọng nói tiếng cười, trong nếp sinh hoạt của người dân hôm nay.
 Tháng 6/1997
N.X.D
Chùm ảnh Đường Lâm của nhiều tác giả đã đăng trên internet.

 
 
 
 
 
 


 
 

Lý do điện Thái Hòa vẫn khô ráo giữa nước lũ ở Huế


Việc quy hoạch hợp lý qua các triều vua Nguyễn đã giúp điện Thái Hòa trong Đại Nội Huế không bị nhấn chìm trong đợt mưa lụt lớn hiện nay, theo các chuyên gia.

Trong đợt mưa lũ từ cuối tháng 10 tại Huế, trong khi nhiều khu vực trong Đại Nội Huế ngập sâu hơn nửa mét, điện Thái Hòa – công trình trung tâm của hoàng thành Huế vẫn đứng vững, bên trong gần như khô ráo. Theo các chuyên gia, khả năng chống lũ của công trình đến từ nền cao, quy hoạch hợp lý qua nhiều triều vua Nguyễn và hệ thống hồ nước bao quanh giúp thoát nước hiệu quả.
Điện Thái Hòa phía sau cổng Ngọ Môn sáng 28/10. Ảnh: Tran Thien.

Tiến sĩ, kiến trúc sư Lê Vĩnh An, Trường Đại học Công nghiệp TP HCM, người có gần 20 năm tham gia bảo tồn di tích kinh thành Huế, cho biết khi cho xây kinh thành năm 1802, vua Gia Long đã huy động khối lượng đất khổng lồ từ khắp nơi về đắp thành và tôn cao nền móng cung điện. Các công trình trong Hoàng thành đều được xây cao, nền móng được nện rất chặt.

Đến thời vua Minh Mạng (1831), khu vực Hoàng thành được quy hoạch lại, trong đó điện Thái Hòa được dịch chuyển ra phía trước, tách biệt khu ngoại triều và cung cấm. Nhà vua cho tôn cao nền điện so với sân bái đình nhằm thể hiện tính tôn nghiêm của nơi đặt ngai vàng và thuận theo nguyên tắc phong thủy. Nền điện trải trên 1.360 m2 cao hơn tầng sân chầu thứ nhất 1m và cao hơn mặt đất 2,35m. Đây chính là yếu tố quan trọng giúp ngôi điện thoát khỏi những trận lụt lịch sử tại Huế.

“Trục dũng đạo – nơi đặt điện Thái Hòa là điểm cao nhất trong Hoàng thành, có độ dốc mô phỏng hình mai rùa, vừa tôn vinh không gian đặt ngai vàng vừa đảm bảo thoát nước tự nhiên”, ông An nói.

Về cấu trúc, điện Thái Hòa được dựng bằng gỗ lim theo kỹ thuật truyền thống, với hệ vì kèo chồng rường và mái ngói lưu ly (ngói ống tráng men vàng) nhiều lớp. Nhờ mái dốc và hiên rộng, nước mưa thoát nhanh, không đọng trên mái hay chảy trực tiếp xuống chân cột. Chân móng bó vỉa bằng đá thanh và gạch cổ giúp nền công trình khô ráo, hạn chế thấm ẩm.

Cấu trúc “ba lớp bảo vệ” gồm mái dốc, nền cao và hiên rộng giúp tòa điện ít bị tác động bởi nước mưa, ẩm thấp.

Tiến sĩ, kiến trúc sư Dư Tôn Hoàng Long, Trường Đại học Đông Á (Đà Nẵng), lý giải thêm hệ thống hộ thành hào và các con kênh bao quanh Hoàng thành Huế đóng vai trò quan trọng.

“Ban đầu, các kênh và hào được thiết kế để phòng thủ, nhưng khi mưa lớn, chúng giúp điều tiết dòng chảy, giảm áp lực nước dồn vào trung tâm và thoát nước ra ngoài nhanh hơn”, ông Long nói.
Điện Thái Hòa sau trùng tu tháng 11/2024. Ảnh:Võ Thạnh.

Theo Tiến sĩ An, hệ thống thoát nước quanh điện Thái Hòa được xây dựng với kỹ thuật đặc biệt giúp thẩm thấu nước mưa tốt. Hồ Thái Dịch phía trước điện được đắp bằng đá gan gà, xếp khan không dùng vữa, giúp nước thấm nhanh xuống đất rồi chảy ra hộ thành hào, tránh ứ đọng.

Dự án tu bổ tổng thể điện Thái Hòa khởi công năm 2021 với kinh phí gần 130 tỷ đồng. Ngoài việc phục hồi mái ngói, hệ thống cột và sơn son thếp vàng, dự án còn gia cố nền móng, lát lại bậc cấp đá thanh và cải tạo hệ thống thoát nước ngầm. Chính quyền TP Huế cũng duy trì việc nạo vét định kỳ các tuyến hào và rãnh thoát, kết hợp lắp đặt trạm bơm hỗ trợ trong các đợt mưa cực đoan, giúp bảo vệ các di tích.

Các chuyên gia cho rằng nền móng vững chắc, kết cấu được gia cường cùng hệ thống thoát nước và quản lý khuôn viên bài bản là những yếu tố then chốt giúp điện Thái Hòa tránh bị ngập hoặc chịu thiệt hại nặng trong đợt lũ. Tuy vậy, để duy trì độ bền vững này, cần tiếp tục thực hiện công tác bảo dưỡng định kỳ, giám sát tình trạng nền móng và đảm bảo khả năng thoát nước của toàn khu vực, tránh tâm lý chủ quan.
Được xây dựng năm 1805 dưới thời vua Gia Long, điện Thái Hòa là nơi diễn ra các buổi triều nghi trọng đại như lễ đăng quang, lễ khánh thọ hay đón tiếp sứ thần. Điện là công trình kiến trúc – văn hóa tiêu biểu nhất của quần thể di tích cố đô Huế, lưu giữ hệ thống hoành phi, câu đối, thơ văn trang trí theo hình thức “nhất thi, nhất họa” và được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thuộc Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á – Thái Bình Dương năm 2016. Điện thu hút hơn 4 triệu lượt khách tham quan mỗi năm.
Theo VNE

HẬU QUẢ MÔI TRƯỜNG SAU LŨ LỤT VÀ CHUNG TAY HÀNH ĐỘNG CHỐNG DỊCH



- NP Bửu Nam

Trận lụt nặng nề vừa qua ở Huế đã tạm lắng, nhưng nỗi lo trong lòng bà con thì vẫn còn đó. Ngoài việc dọn dẹp nhà cửa bùn đất ngập ngụa, điều mà chúng ta phải đối mặt ngay lúc này chính là nguy cơ dịch bệnh bùng phát từ môi trường hậu lũ. Nói thẳng ra, lụt đi rồi, cái chúng ta đối mặt là một “ổ dịch” tiềm tàng.

I. Hậu Quả Môi Trường Hậu Lũ: Nguy Cơ Khoa Học Là Có Thật

Sau khi nước rút, môi trường trở nên cực kỳ nguy hiểm. Đây không chỉ là chuyện hôi tanh thông thường mà là một vấn đề khoa học nghiêm trọng:

• Ô Nhiễm Nước và Bùn: Nước lũ cuốn theo mọi thứ: rác thải, phân động vật, xác chết thối rữa, hóa chất từ các khu công nghiệp nhỏ (nếu có). Tất cả tạo thành một hỗn hợp bùn đen chứa đầy vi khuẩn, virus và ký sinh trùng. Khi bùn khô, những mầm bệnh này sẽ bay vào không khí dưới dạng bụi.

• Môi Trường Thuận Lợi Cho Dịch Bệnh:

• Nước Tù Đọng: Các vũng nước đọng lại là nơi lý tưởng để muỗi (Aedes aegypti) sinh sôi nảy nở, dễ gây ra dịch Sốt xuất huyết.

• Thức Ăn Bị Hỏng: Thực phẩm ngập nước, ẩm mốc kết hợp với ruồi nhặng lây lan mầm bệnh, dẫn đến các bệnh về đường tiêu hóa như Tiêu chảy cấp, Tả, Lỵ.

• Tiếp Xúc Trực Tiếp: Việc lội trong nước bẩn, bùn đất dễ gây các bệnh ngoài da (nấm, ghẻ lở) và các bệnh nguy hiểm hơn như Leptospirosis (bệnh do xoắn khuẩn) lây từ chuột.

Nói tóm lại, dọn rác, dọn bùn sau lũ là việc làm khoa học để cắt đứt nguồn lây lan của dịch bệnh.

II. Chung Tay Phòng Chống Dịch Bệnh: Trách Nhiệm Của Mỗi Người

"Nhà ni lo cho nhà tê" là tinh thần đáng quý của người Huế, nhưng để chống dịch hiệu quả, cần phải có sự phối hợp chặt chẽ từ mọi phía:

1. Bà Con Nhân Dân: Khẩn Trương Vệ Sinh Cá Nhân và Nhà Cửa

• Vệ Sinh Cá Nhân: Đây là điều quan trọng số một!
• Ăn chín, uống sôi tuyệt đối.
• Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng sau khi dọn dẹp, trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh.
• Nếu bắt buộc phải lội nước bẩn, cần mặc đồ bảo hộ (ủng, găng tay) và rửa sạch chân tay ngay lập tức. Uống thuốc phòng chống bệnh (theo hướng dẫn y tế) nếu cần.

• Vệ Sinh Nhà Cửa:

• Dọn sạch Bùn và Rác: Thu gom rác thải, xác động vật chết, đổ bỏ đúng nơi quy định hoặc chôn lấp hợp lý (xác động vật cần chôn sâu, rắc vôi bột).

• Khử Khuẩn Nền Nhà: Sau khi cọ rửa bằng xà phòng, cần rắc Vôi Bột hoặc dùng Chloramin B (theo hướng dẫn) để sát khuẩn nền nhà, đặc biệt là khu vực nhà vệ sinh.

• Khử Khuẩn Nước Sinh Hoạt: Không dùng nước giếng, nước sông để ăn uống ngay. Cần có viên Chlorine  hoặc các hóa chất khử khuẩn khác để xử lý nước trước khi dùng.

2. Tổ Chức Thiện Nguyện và Cộng Đồng: Hỗ Trợ Đúng Nhu Cầu

• Tập trung vào vật tư y tế: Thay vì chỉ hỗ trợ lương thực, hãy ưu tiên các vật phẩm thiết yếu chống dịch: nước sạch đóng chai, vôi bột, hóa chất Chloramin B, xà phòng, khẩu trang, găng tay và ủng cao su cho người dân.

• Tổ chức Đội Vệ sinh: Cùng chính quyền địa phương tổ chức các đội tình nguyện hỗ trợ dọn dẹp ở các khu vực trũng, ngập sâu, khu tập trung rác công cộng.

• Truyền thông: Đơn giản hóa các thông điệp phòng bệnh và hướng dẫn sử dụng hóa chất an toàn cho bà con.

3. Chính Quyền Địa Phương: Vào Cuộc Quyết Liệt, Khoa Học

• Phun Hóa Chất Diện Rộng: Tổ chức phun hóa chất diệt muỗi, diệt côn trùng, đặc biệt là ở các khu vực nước tù đọng.

• Cung cấp Nước Sạch và Hóa Chất: Khẩn cấp cung cấp nước sạch, phát miễn phí vôi bột, Chloramin B đến từng hộ gia đình và hướng dẫn cách dùng an toàn, khoa học.

• Giám sát Y Tế: Lập các đội y tế cơ động để giám sát, phát hiện sớm các ca bệnh tiêu chảy, sốt xuất huyết... Nếu có ổ dịch, cần khoanh vùng và xử lý triệt để, không để lây lan.

• Dọn Dẹp Công Cộng: Huy động lực lượng (quân đội, thanh niên) dọn dẹp các tuyến đường chính thu gom rác thải công cộng để tránh ùn ứ.


Kết luận: Nước lũ rồi sẽ rút, nhưng mầm bệnh thì vẫn còn đó. Chúng ta không thể nản lòng, hãy biến nỗi lo thành hành động. Mỗi bước dọn dẹp, mỗi lần rửa tay bằng xà phòng, mỗi viên vôi bột rải xuống nền nhà đều là một "liều vắc-xin" tự bảo vệ mình và bảo vệ cộng đồng. Cùng nhau, chúng ta sẽ vượt qua và giữ cho Huế được sạch sẽ, bình yên!

NỬA THẾ KỶ TRANH CÃI VỀ ĐÔI CÂU ĐỐI NỔI TIẾNG Ở ĐỀN KIẾP BẠC




Đây là đôi câu đối rất nổi tiếng, trước hết vì nó rất hay mà lại rất ngắn. Tác giả của đôi câu đối là Tam nguyên Thám hoa Vũ Phạm Hàm là một người hay chữ bậc nhất hồi đầu thế kỷ XX. Nổi tiếng nữa là vì có một dị bản khác là "thung thanh" gây ra cuộc tranh cãi liên miên trên khắp các mặt báo trong hơn nửa thế kỷ qua. Vậy "thu thanh"(Tiếng mùa thu, cũng là tiếng binh đao) hay là "thung thanh"(Tiếng đóng cọc).

萬 劫 有 山皆 劍 氣
六 頭 無 水不 秋 聲
Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm khí,
Lục Đầu vô thủy bất thu thanh
Dịch nghĩa;
Vạn Kiếp có ngọn núi nào thì đều vương hơi kiếm
Lục Đầu không con nước nào không vang tiếng đao binh.
*************
Xin giới thiệu bài Tổng thuật của Nguyễn Hồng Lam:
MỘT CHỮ, NỬA THẾ KỶ TRANH CÃI
Thứ Năm, 24/05/2012, 08:00

CÓ MỘT TƯỢNG ĐÀI NGƯỜI PHỤ NỮ HÀ NỘI TRÊN ĐỈNH ĐÈO NGANG


Nguyễn Xuân Diện
 
Trong văn học Việt Nam có một người phụ nữ Hà Nội đã để lại vóc dáng đài các đã mấy trăm năm. Người phụ nữ tài hoa ấy, đứng trước thiên nhiên đất nước đã nói tâm tình của một con người cô đơn nhỏ bé trước vũ trụ, nhưng dường như đã cố giấu đi cả tên tuổi của mình. Mặc dù tên của bà có ý nghĩa là mùi hương thơm nức, nhưng bà vẫn cố giấu đi, ngay cả tên gọi của mình. Người ta cũng không gọi bà bằng tên gọi của chồng bà như những phụ nữ khác. Người ta chỉ gọi bà bằng cái chức vụ của chồng bà mà thôi. Đó là Bà Huyện Thanh Quan. Tên thật của bà là Nguyễn Thị Hinh. Hinh 馨 chữ Hán có nghĩa là hương thơm ngào ngạt.

Văn chương cổ Việt Nam không có nhiều nữ thi sĩ. Nhưng đặc biệt nhất là có tới hai nữ thi sĩ tên Hương. Một Hồ Xuân Hương ngang tàng, phóng túng. Một Nguyễn Thị Hinh (Hương) đài các, phong lưu.

Hai nữ thi sĩ tên Hương ấy đã đi vào lịch sử văn chương Việt Nam với hai phong cách khác nhau. Và sức lan tỏa của những câu thơ của hai bà đã làm lay động bao thế hệ người đọc Việt Nam. Thơ Hồ Xuân Hương là thơ của một người phụ nữ ngang tàng, nhìn sự vật trong sự biến động và biến chuyển với góc nhìn đầy cá tính. Mỗi sự vật hiện lên trong thơ bà là đều ẩn chứa trong đó khát vọng mạnh mẽ về nữ quyền và về những khát vọng của tình yêu và cả tình dục nữa.


Chân dung Hồ Xuân Hương được vẽ với “yếm đào trễ xuống dưới nương long”, với khuôn mặt tươi tắn, đầy khát vọng và cả chút nhục cảm nữa! Còn Bà Huyện Thanh Quan, một nữ sĩ tên “Hương” khác thì hoàn toàn khác. Bà mang khuôn mặt đầy đặn với nét môi cắn chỉ đoan trang, kiêu sa và kiểu cách của một phụ nữ đài các.

Hiện chưa biết về năm sinh và năm mất của Bà huyện Thanh Quan. Ta chỉ biết bà sinh ra ở làng hoa Nghi Tàm bên bờ Hồ Tây. Rằng bà là người hay thơ, giỏi Nôm. Chồng bà là Lưu Nguyên Ôn, người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông, đỗ Cử nhân năm 1828, từng làm Tri huyện Thanh Quan sau can án bị giáng chức làm việc ở bộ Hình trong kinh đô Huế. Ông huyện Thanh Quan chẳng may mất sớm, khi mới 43 tuổi, bà vẫn ở vậy nuôi con.

Nhắc đến bà huyện Thanh Quan không ai là không nhớ đến chuyện xảy ra lúc chồng bà là Tri huyện Thanh Quan, nhân khi chồng đi vắng, bà nhận được đơn của một thiếu phụ trong huyện xin được đi lấy chồng, thương hoàn cảnh của chị ta, bà đã phê vào tờ đơn bằng mấy câu thơ:
 
Phó cho con Nguyễn Thị Đào
Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai
Chữ rằng “xuân bất tái lai”
Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già!
 
Câu chuyện bà huyện thay chồng phê đơn là một giai thoại văn học rất đẹp. Nó gợi cho ta hình ảnh một bà huyện tự tin và hóm hỉnh. Bà huyện cũng là một phụ nữ nên bà biết thương cái xuân thì của người thiếu phụ. Không biết cô Nguyễn Thị Đào đi lấy chồng, sinh con đẻ cái có đem nhau về chơi với Bà Huyện hay không? Nhưng câu chuyện cũng gợi cho đời sau tưởng tượng ra cảnh nhà bà huyện đầm ấm vui vẻ, vợ chồng cùng thưởng trà dưới nguyệt hay ngâm vịnh xem hoa vô cùng tao nhã và tâm đắc.
Đời vua Minh Mạng, bà được vời vào cung trao cho chức Cung trung giáo tập, dạy dỗ cho các cung phi và công chúa. Điều này xác nhận với chúng ta rằng bà Huyện Thanh Quan là một phụ nữ có đầy đủ “công, dung, ngôn, hạnh” theo đúng chuẩn mực xưa, nên đã được triều đình biết tiếng, được một vị vua sáng là Minh Mạng vời vào cung và giao cho trọng trách này!

Con đường thiên lý Bắc Nam ấy đã từng lưu dấu chân của nữ sĩ tài hoa mà cả trăm năm nay, khách bộ hành, xe kiệu đi qua Đèo Ngang còn thấy dáng hình người phụ nữ lồng lộng và đơn côi trên đỉnh đèo trong một hoàng hôn lữ thứ.
 
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông rợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời – non – nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.

Bài thơ thật buồn. Hình ảnh Đèo Ngang được vẽ bằng mấy nét tiêu sơ, gợi nên cả cái hoang mang của lữ khách. Xa xôi trong đó là một tâm sự về nước non nhà với niềm đau, niềm nhớ niềm thương! Bà huyện đã dừng lại giữa đỉnh đèo giữa trời mây non nước bao la, và nỗi cô đơn xâm chiếm tâm hồn bậc tài nữ trong mấy chữ “ta với ta”. Bà đã đứng khựng lại giữa đỉnh đèo mấy trăm năm nay, bóng hình in vào nền trời Đèo Ngang lộng gió, gửi đến hậu thế muôn sau tâm sự của bà.
 
Có lẽ mối duyên với ông huyện Thanh Quan để lại trong bà huyện những dư vị ngọt lành của tình phu phụ, “tương kính như tân” nên thơ của bà huyện là thứ thơ cao sang, đài các và đẹp một vẻ đẹp điển nhã của thi ca cổ.
 
 
Bà Huyện Thanh Quan để lại 7 bài thơ. Bài thơ nào cũng đài các, sang trọng. Bài thơ nào cũng hoài cổ, luyến nhớ. Nhưng bà nhớ nhất là nhớ nhà, nhớ quê. Trông cảnh chiều thu bà nhớ ngẩn ngơ trong bâng khuâng hoài niệm. Mỗi bước bà đi là lại “lòng quê một bước nhường ngao ngán/ Mấy kẻ tình chung có thấu là!”.
 
Bảy bài thơ của Bà Huyện là bảy bài thơ Nôm, đều là thơ thất ngôn bát cú mỗi bài tám câu, mỗi câu 7 chữ. Nghiêm ngắn, trang trọng. Mỗi bài là một bức tranh thủy mặc được vẽ lên như những bức tứ bình đẹp. Mỗi bức tranh ấy gói ghém tâm trạng của bà. Buồn mà không bi lụy. Có cả những tâm sự hoài cổ của một phụ nữ trước cảnh dâu bể với những hành cung miếu điện của những triều vua đã đi qua. Và hơn hết là cái nhìn đầy thương mến với những cảnh vật tiêu sơ, nơi đèo heo hút gió, những ngư ông và bác tiều phu, những mục đồng lùa trâu về những thôn xa vắng.

Bà Huyện Thanh Quan tên là Hinh, với nghĩa là mùi hương ngào ngạt. Bà không mang tên chồng mà chỉ mang tên chức vụ của chồng. Chức vụ ấy trong đời làm quan của chồng bà cũng rất ngắn ngủi. Bà cũng chỉ để lại cho đời ngót chục bài thơ Đường luật Nôm vuông chằn chặn. Vậy mà vẻ cao sang đài các, kiêu sa từ từng con chữ trong những bài thơ đều mỗi bài 56 chữ ấy đã lan tỏa khắp thi đàn nước Việt trải đã mấy trăm năm.

Tình nước non non nước của người phụ nữ ấy như đã hòa cùng con cuốc cuốc, cái gia gia trong thơ bà cứ da diết, da diết vọng đến hôm nay và muôn sau.

Có thi sĩ đã từng viết về một loài hoa có những “bông hoa nhỏ giấu mình trong cỏ; thơm hết mình mà chẳng thấy hoa đâu”. Phải chăng bông hoa ấy là bà Huyện Thanh Quan hương thơm ngát thi đàn nước Việt mà lai lịch hành trạng thì còn đang đánh đố hậu thế.

Ai có dịp qua Đèo Ngang, hãy ngước nhìn đỉnh đèo non nước trời mây bao la, trên đó là một tượng đài bà Huyện Thanh Quan lồng lộng ở mãi với thời gian…
 
N.X.D

Ảnh: Trịnh Thanh Nhã - Thanh Sơn.

Thứ Năm, 30 tháng 10, 2025

CHUYỂN MÙA

 

Tạp văn của Nguyễn Xuân Diện
viết năm 1993

Thế là mùa thu đã đi. Nhẹ nhàng và bâng khuâng như khi thu đến. Mới hôm nào thu khôi nguyên còn ngại ngùng e lệ, thế mà nay thu đã đi rồi!

Một sáng ngủ dậy, ngóng trời qua cửa sổ đã thấy gió lạnh kéo về. Nao nao nhớ tiếc một cái gì đó rất chi là vu vơ. Sắc trời cao xanh khoáng đạt của mùa thu đã không còn nữa. Bầu trời đã xám màu chì. Loáng thoáng vẫn gặp những đàn chim đi trú rét ở phương Nam xa xôi. Da thịt bắt đầu săn lại. Buổi sớm đã ngại dậy rồi!

ĐÀO NƯƠNG VẤN HUÝ


Ngày xưa đào nương đi hát thờ ở các cửa đình, thường phải gặp các cụ làng sở tại để hỏi cho bằng được tên huý của Thành hoàng và các vị thờ trong đình để nếu trong lời hát có các chữ đó thì hát chệch đi tỏ ý kính trọng.

Ví dụ tên huý của Thần là Minh thì lời hát có chữ này phải hát thành Miêng. Thành thì Thiềng, Bạch thì Biệc, Hoa thì Huê, Lã thì Lữ, Phong thì Phung, Thanh thì Thinh v.v... Có làng thờ 7 anh em ông tướng thì phải kiêng 7 chữ với tên bố mẹ các tướng nữa là 9 chữ.

Ngoài tên Thành hoàng làng sở tại, đào nương còn phải kiêng vài chữ tên của Tổ nghề nữa (Bạch, Hoa, Thanh).