Thứ Năm, 6 tháng 9, 2012

KÍNH MỪNG NHÀ VĂN NGUYÊN NGỌC ĐẠI THỌ 80 TUỔI

Lời dẫn: Nhà văn Nguyên Ngọc, một nhà văn nổi tiếng của Việt Nam, một nhân sĩ trí thức có phẩm cách thanh cao và tình yêu bền chặt như một định mệnh với Tây Nguyên, một người bạn lớn của giới trí thức tinh hoa và của thanh niên đất Việt, năm nay tròn 80 tuổi. 

Ông là một ngọn núi quanh năm phủ mờ sương mây. Ông là một cổ thụ bốn mùa che rợp bóng mát. Cao mà không cô đơn. Nghiêm mà Từ. Xa mà Gần. Khó gặp mà khó xa. Nguyên Ngọc lừng lững tạc một chân dung đổ bóng dài trên nền văn hóa và văn học Việt Nam suốt nửa thế kỷ qua. Khi đã bảy tám mươi Xuân, Nguyên Ngọc - như một gộc cây vẫn vắt kiệt tâm trí để dâng đời những hoa thơm quả ngọt của trí tuệ, của lòng bác ái, của sự tận tâm. Đúng như câu thơ cổ: "Lão thụ trước hoa vô sửu chi"(Cổ thụ đơm hoa mà cành nào cũng đẹp). Mỗi cành ấy là các bản dịch, các bài báo, bài trả lời PV, các luận văn lớn nhỏ về văn hóa và giáo dục, các diễn văn, thư từ, các bài giảng, các bài thuyết trình...Tất cả cho thấy hoạt động phong phú và đóng góp đa diện và rất cụ thể của ông đối với nước nhà. 

Nhân dịp Mừng Đại thọ 80 tuổi của Nhà văn Nguyên Ngọc kính mến, chúng tôi thành kính gửi đến Ông lời cầu chúc dồi dào sức khỏe, sức sáng tạo. Và xin chia sẻ với bạn đọc tại đây, chùm bài viết Ông - một người mà chủ Blog này đã coi là một Biểu tượng đẹp đẽ của lòng nhân ái, khoan dung, của sự bền bỉ và tận tụy, của sự dấn thân và hiến dâng những mùa Xuân cho Đất Nước Đứng Lên.  

************************************** 
Bát tuần rồi Nguyên Ngọc ơi!
Phạm Duy Hiển

Thật nực cười khi nghĩ rằng Nguyên Ngọc phải tiếp tục cho ra những tiểu thuyết, những sử thi thời hậu chiến, thì mới xứng đáng là nhà văn lớn. Tại sao làm những việc mà Nguyên Ngọc dốc sức trong mấy năm nay lại chưa xứng tầm một nhà văn lớn? 

Gần đây rộ lên một chủ đề rất lý thú: Tại sao văn học Việt Nam chưa có tác phẩm lớn? Biết phận mình ngoại đạo, tôi chỉ háo hức theo dõi, không dám ho he. Nghĩ bụng không riêng gì văn học, tất thảy… từ khoa học tự nhiên, xã hội đến nghệ thuật, nhân văn đều thấp lè tè. Không có rừng, chỉ lau lách chen chúc với cây bụi. Trên mảnh đất không thể mọc lên cây cao, sum suê, cho dù có gieo lên những hạt giống tốt nhất. Đi tìm nguyên nhân thiếu tác phẩm văn học lớn ắt sẽ bắt gặp mảnh đất ấy.

Tình cờ một hôm bên cốc cà phê có người mách: “… Hình như bí hết cả rồi! Đến Nguyên Ngọc từng có Đất nước đứng lên được giải nhất Hội Văn nghệ ngay sau hòa bình lập lại 1954, Rừng xà nu được tuyển vào sách luyện văn cho học trò, sau đó lại có Đề dẫn khởi động phong trào đổi mới văn học, nhưng mấy năm nay không thấy tăm hơi gì nữa”.

Đây rồi! Một gợi ý chí lý, một mũi tên lạc hướng mà trúng đích. Chính Nguyên Ngọc đã trăn trở với nan đề trên và đi tìm lời giải cho hiện tượng làng nhàng, sản phẩm tất yếu của số đông được chăm sóc, hay đúng hơn, được chăn dắt chu đáo. Nhưng anh vượt lên trên cái mẫu hình văn học hiện thực phải đạo nổi tiếng của Hoàng Ngọc Hiến để tìm đến ngọn nguồn văn hóa, rộng hơn về không gian lẫn thời gian, thậm chí còn dấn thân vào một hành trình thử nghiệm đầy thách thức.

Nguyên Ngọc người Quảng Nam. Thỉnh thoảng ta vẫn thấy chất Quảng đặc sệt trong anh. Nói thỉnh thoảng, vì chất Quảng được pha trộn nhiều, bớt đậm đặc và cực đoan hơn, do anh đi nhiều, sống ở nhiều nơi, các tỉnh miền Trung và nhất là Tây Nguyên, một miền đất huyền ảo. Thích được rủ rê và cũng hay rủ rê người khác đi cho vui. Lang bạt kỳ hồ để hiểu, tận hưởng, có khi cái chết cận kề trong gang tấc mà cứ thấy nhẹ tênh, nên nét khắc khổ xứ Quảng đã phai mờ, chỉ còn lại một lãng tử Nguyên Ngọc. Lãng tử từ trẻ cho đến tận bây giờ.

Trong kháng chiến chống Pháp, Quảng Nam bị chiếm, chỉ một rẻo nhỏ phía Nam nối liền với vùng tự do kéo dài đến tận Phú Yên qua hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định. Ở tuổi mười lăm, Nguyên Ngọc vào học Lê Khiết, nơi thầy Hoàng Tụy dạy toán. Thầy lớn hơn anh năm tuổi. Thầy Tụy có lúc tiết lộ: Ngọc giỏi toán lắm. Nhiều lúc tôi nghĩ giá Nguyên Ngọc đi làm khoa học, chắc anh sẽ rất thành công.

Nguyên Ngọc thông tường đến kỳ lạ mọi ngõ ngách ở miền Trung và Tây Nguyên. Quảng Nam thì khỏi nói, hình như không có mét vuông đất nào thiếu dấu chân anh, tôi giễu anh khi được anh rủ đi chơi đâu đó trong xứ Quảng. Còn Quảng Ngãi, nhiều lúc tôi cứ tưởng chính anh, chứ không phải tôi, đã từng sinh ra ở đây. Đi với anh khỏi phải lo, ở đâu cũng có người quen. Anh quen từ những người bình thường (nhưng phải có một đặc điểm nào đó) đến lãnh đạo cao cấp nhất trong vùng như Tướng Nguyễn Chánh thời kháng chiến chống Pháp khi anh còn là một lính văn phòng đến ông Võ Chí Công thời chống Mỹ, sau này làm Chủ tịch nước. Mỗi người, mỗi địa danh trong bộ nhớ của anh đều có một vài dấu tích, có thể là một sự tích, chuyện vui, hoặc trải nghiệm bản thân. Lúc thích hợp, anh có thể lôi ngay nó ra khiến người nghe phải ngỡ ngàng.

Quen Nguyên Ngọc, nhiều lúc tôi chỉ ước ao sao cho dung lượng bộ nhớ của mình bằng được một phần mười của anh. Trong Lễ thổi tai và rượu cần anh lý giải tại sao anh giữ được bộ nhớ đồ sộ như vậy:

Nhớ và quên, ngẫm mà xem, phải chăng nói cho cùng đó là hai lẽ sinh tồn tuy hai mà một, hai mặt chủ yếu không thể tách rời của công cuộc làm người ở đời. Không biết nhớ thì hiển nhiên không thể là con người rồi. Song sống mà không biết quên, không có những lúc biết quên đi đến mức “nẻ cả lỗ tai” thì cũng chẳng thể nào sống nổi trên cõi nhân gian biết mấy khổ đau, quá phức tạp và nhiêu khê này. Cuộc đời này, phải chăng lắm lúc cũng đáng quên biết bao nhiêu, quên phứt đi cho rảnh, cho rồi, mà ngẫm cho cùng cũng lại đáng sống để mà nhớ lấy biết bao nhiêu…

Bắt chước anh khó quá! Hồi nhỏ mình không được mẹ làm lễ thổi tai nên trí nhớ kém, lớn lên lại không biết uống rượu cần nên chuyện gì không nhớ được là quên luôn. Riêng có mấy lời các cụ xứ Quảng răn con cháu thì tuy khó mà vẫn nhớ được, nhớ để thỉnh thoảng còn “điểm huyệt” Nguyên Ngọc:

Bất giao Thừa Thiên hữu,
Bất thú Quảng Nghĩa thê,
Bất thương Bắc Hà khách,
Bất đấu Bình Định kê.


Tôi hay đùa với Nguyên Ngọc: Sao cả hai thầy trò anh không nghe lời bề trên? Thầy Tụy dạy ở trường Lê Khiết lại phải lòng một nữ sinh con nhà danh gia vọng tộc xứ Quảng Ngãi. Còn anh, sau khi tung tăng khắp bốn phương trời lại hạ cánh xuống Bình Định, miền đất nổi tiếng các nữ hổ, sao anh không ngán? Nguyên Ngọc cười “hai người ế gặp nhau mà!”. Thế mà vào tuổi bát tuần chị Tâm lại khen anh … còn hiếu động lắm!

Phải chăng Quảng Nam hay cãi là thế. Mà chính tính cách đó đã làm nên cái địa danh văn hóa hàng đầu này của đất nước với những ngôi sao vằng vặc trên bầu trời cũng chính là những con người Quảng Nam nhất, như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Khôi v.v… Thời nay trong số những ngôi sao ấy không thể thiếu Hoàng Tụy và Nguyên Ngọc. Nhưng anh Nguyễn Văn Hạnh, bạn học của Nguyên Ngọc thời niên thiếu, bạn nghiên cứu sinh của tôi hồi ở Đại học Moscow, lại quả quyết rằng Quảng Nam thời nay không chỉ có hai người này đâu nhé. Ở cực bên kia, cùng phe ta cả, có mấy vị A, B, C chẳng kém cạnh chút nào. Tôi chẳng quen biết mấy vị nên không thể bình luận gì. Nghĩ bụng, chắc họ cũng cãi dữ lắm, họ cãi lại những gì không hợp với chính thống.

Đi tìm ngọn nguồn văn hóa cho những nan đề của đất nước, Nguyên Ngọc đến với người đồng hương Phan Châu Trinh. Là nhà văn, anh nghiên cứu Phan Châu Trinh với hơi thở và nhịp đập hòa vào nhân vật. Nhưng anh không biến Phan Châu Trinh thành nhân vật tiểu thuyết mà quyết liệt trong cách tiếp cận khoa học, từ việc lôi ra cho được những bằng chứng lịch sử không thể chối cãi mà lâu nay còn ẩn mình trong các thư tịch hiếm hoi, đến việc xem xét tác động của trào lưu duy tân trên toàn thế giới đến phong trào Duy Tân ở nước ta, để cuối cùng chứng minh con đường này có giá trị phổ quát.

Tôi không đủ hiểu biết và điều kiện để xem các sử gia từng nghiên cứu Phan Châu Trinh đã nói gì. Nhưng tôi có cách tiếp cận khác, xem học sinh được học những gì về Phan Châu Trinh, qua đó biết được một cách cô đặc và chính xác nhất cách hiểu và đánh giá Phan Châu Trinh trong giới chính thống. Sách giáo khoa Lịch sử lớp 11 dày 154 trang có năm trang dành cho bài số 23: “Phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến Chiến tranh Thế giới Thứ nhất”, trong đó có đề mục thứ hai dài một trang “Phan Châu Trinh và xu hướng cải cách”. Bài được mở đầu thế này:

“Ông là người sớm tiếp thu những tư tưởng tiến bộ, chủ trương cứu nước bằng biện pháp cải cách như nâng cao dân trí, dân quyền, dựa vào Pháp để đánh đổ ngôi vua và bọn phong kiến hủ bại, xem đó như là điều kiện tiên quyết để giành độc lập” (chữ nghiêng của tôi).

Chưa hết. Các nhà soạn sách còn cố ý chừa lại một điểm nhấn dành cho học sinh tự suy ngẫm trong mục gợi ý ở cuối bài: “Hãy nêu những sự kiện chứng minh Phan Châu Trinh chủ trương cứu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản…”.

Chao ôi, người ta sợ cái món dân chủ tư sản quá, rồi đem bóng ma ấy ra hù học trò! Họ gói phong trào Duy Tân cùng với khẩu hiệu khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh nổi tiếng của cụ Phan lại thành một cục, đóng lên đó cái triện “dân chủ tư sản” và “dựa vào Pháp” để cho người đời quên đi một trào lưu nổi bật trong lịch sử. Rất dễ hiểu vì sao Nguyên Ngọc và các đồng nghiệp phải dày công “lật lại” hồ sơ Phan Châu Trinh, cố gắng đặt phong trào này lại đúng chỗ trong dòng chảy lịch sử cận đại.

Tôi không dám đả động đến chuyện đúng sai của các nhân vật lịch sử. Phan Châu Trinh không đi đến đích là đương nhiên, nhưng như vậy không hề có nghĩa ông không đúng, hoặc chỉ là một khúc nối nhỏ để tránh cho lịch sử khỏi bị đứt quãng. Phong trào Duy Tân ở Nhật do Fukuzawa, Ikuchi,.. khởi xướng đã thành công nhờ có sự đốc thúc mạnh mẽ của chính Minh Trị Thiên hoàng và được tầng lớp tư sản đang lên samurai dốc lòng ủng hộ. Một nước không mấy tiếng tăm cạnh ta như Thái Lan cũng thành công ít nhiều trong canh tân hồi đầu thế kỷ trước là nhờ có một Bộ trưởng là nhà văn hóa lớn nằm ngay trong Chính phủ Hoàng gia. Ngược lại, ở Việt Nam một phong trào vận động quần chúng canh tân như thế làm sao khỏi bị chính quyền thực dân thẳng tay bóp chết khi còn trong trứng nước.

Điều trớ trêu là sau hơn một thế kỷ, có chính quyền trong tay, với điều kiện tốt nhất chưa từng có trong lịch sử để khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, chúng ta lại không làm quyết liệt. Nếu nhận thức đúng, và làm theo triệt để, mọi việc đã có thể khác. Tiêu cực xã hội tràn lan, lên đến tột đỉnh, đang đe dọa tương lai đất nước là điều rất dễ hiểu.

Tiếp thu tinh thần Duy Tân, Nguyên Ngọc bỏ ra nhiều công sức để dịch thuật, từ J. P. Satre, M. Kundera, F. Julien và nhiều tác giả khác chuyên sâu về văn hóa Tây Nguyên. Anh đi đầu, giương cao ngọn cờ Tân văn trong văn học nghệ thuật, lá cờ đã đưa Nhật Bản đến thành công. Anh vật lộn với các tác phẩm kinh điển để tự học và cho đồng nghiệp cùng học bởi nỗi trăn trở không nguôi đối với lớp nhà văn trẻ không có ngoại ngữ và thiếu kiến thức nền về văn hóa.

Thời nào cũng vậy, mà nhất là thời đại hội nhập toàn cầu hiện nay, cứ hài lòng quanh quẩn trong sân nhà, rồi tán dương tâng bốc nhau, làm sao ra được tác phẩm lớn. Muốn biết tác phẩm lớn nhỏ phải đem chúng đặt lên hệ quy chiếu toàn cầu, phải chấp nhận phương pháp luận và chuẩn mực phổ quát trên thế giới. Văn học, dù viết bằng tiếng Việt, chắc không tránh khỏi quy luật này. Hãy bỏ cái thói kiêu ngạo vô lối “ta có con đường của ta”. Hãy đừng sợ diễn biến hòa bình mà không chịu xông lên các sân chơi quốc tế, con đường độc đạo đưa chúng ta lên đỉnh cao. Hãy xem Olympic 2012, xem cả cái cách mà khắp nơi người ta tôn vinh các vận động viên hàng đầu thế giới như thế nào. Đơn giản là thế, song không phải ai cũng chịu nhận ra và dấn thân như Nguyên Ngọc.

Thật nực cười khi nghĩ rằng Nguyên Ngọc phải tiếp tục cho ra những tiểu thuyết, những sử thi thời hậu chiến, thì mới xứng đáng là nhà văn lớn. Tại sao làm những việc mà Nguyên Ngọc dốc sức trong mấy năm nay lại chưa xứng tầm một nhà văn lớn? Không chỉ trong văn học, trong khoa học cũng có chuyện buồn cười tương tự. Nhiều người không dám bứt phá, bị quá khứ huyễn hoặc, rồi chịu chết “lâm sàng” trong cái chuyên ngành chật hẹp của mình. Trong khi khoa học, cả tự nhiên lẫn xã hội, nhân văn, từ lâu đã là đa ngành.

Mà Nguyên Ngọc vẫn viết truyện ngắn đấy chứ, và những tác phẩm hay nhất của anh vẫn là về Tây Nguyên. Vẫn giọng văn đó, không lẫn với ai, nhưng truyện Tây Nguyên của anh bây giờ, theo tôi, còn hay hơn ngày trước nhiều. Trước đây anh là một tráng sĩ – nhà văn, bây giờ anh viết văn trên tư thế một nhà văn hóa được trang bị đầy đủ kiến thức Đông - Tây kim cổ.

Rừng xà nu là một bản anh hùng ca, có chỗ đứng khá trang trọng trong sách Ngữ văn lớp 12, song với tôi, nó không hấp dẫn bằng mấy truyện ngắn anh viết gần đây về rừng Tây Nguyên như Tượng gỗ rừng già, Người hát rong giữa rừng, Lễ thổi tai và rượu cần... Rừng xà nu không thoát khỏi dòng văn học “minh họa”, do đó buộc phải bằng những tình huống cực đoan nhất, khốc liệt nhất trong chiến tranh để minh họa chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

Ngược lại, mấy truyện ngắn gần đây của Nguyên Ngọc về rừng Tây Nguyên là chuyện đời thường, rất “thường” là khác, nhưng lại rất kỳ lạ, đọc chúng cứ thấy ngỡ ngàng như người bị lóa mắt khi bước từ bóng tối ra ánh sáng. Nhân vật Tnú trong Rừng xà nu thật anh dũng, anh bóp cổ thằng Dục bằng bàn tay rụi hết cả ngón do chính tên ác ôn này đốt khi tra tấn anh và giết chết vợ anh trước đó. Nhưng hành động này không lạ bằng anh chàng cục mịch được linh ứng đi vào rừng già tìm khúc gỗ đẽo tượng trong dịp cất nhà rông của làng. Lạ hơn nữa, anh chàng này nhìn Nguyên Ngọc một cách đầy ác cảm và tức tối khi nhà văn từng có những tác phẩm để đời về Tây Nguyên lại lẩm cẩm hỏi mua anh một chiếc tượng gỗ đem về bày lên bàn làm việc. Nó chạm đến chỗ linh thiêng nhất của người Gia Rai: Rừng.

Rừng ở Tây Nguyên đầy hoang dại, bí ẩn, linh thiêng, là nơi con người trực tiếp với thần linh và được thần linh che chở. Không phải cồng chiêng, lễ hội… mà chính rừng mới là cội nguồn văn hóa ở miền đất này, Nguyên Ngọc thật tuyệt vời khi nhắc nhở chúng ta điều này. Phá rừng Tây Nguyên, đẩy người dân tộc ra khỏi rừng, là tội phạm.

Ở tuổi bát tuần Nguyên Ngọc vẫn đi. Tôi luôn nhìn chừng anh đang đi ở tốp trước và theo sau. Xa hơn một chút về phía trước còn có thầy Hoàng Tụy. Khoảng cách đến hai người đo theo chiều kích thời gian là 5 và 10 năm. Đi cho đến bao giờ hở anh? Anh cười đầy tự tin: “Đi mãi…, để còn thấy con tạo xoay vần đến đâu”. Nhưng mà đã bát tuần rồi, anh Ngọc ơi! 

Nguồn: Tia Sáng. 

Thứ Tư, 5 tháng 9, 2012

NGÀY KHAI TRƯỜNG, NGHE TIẾNG KÊU VAN TỪ VÙNG NÚI NGHỆ AN

Hãy rủ lòng thương lấy các em, dù chỉ 1% thôi
Bài và ảnh Khánh Hoan

Trống trường đã điểm. Ngày tựu trường đã đến!

Hàng nghìn trẻ em miền núi ở Nghệ An bắt đầu lầm lũi gùi gạo, lội suối, vượt rừng đến trường tìm chữ. Những ngày tháng gian khổ, phải sống chui rúc trong những cái lều trọ xác xơ để tìm kiếm con chữ lại bắt đầu. Cam chịu, vì nhà nước không có tiền để xây nhà bán trú cho các em trọ!

Dưới xuôi, hàng loạt nhà tưởng niệm, lưu niệm lãnh tụ với kinh phí hàng chục tỉ đồng vẫn tưng bừng khởi công, khánh thành như không hề có lạm phát, không hề biết nền kinh tế đất nước đang đi thụt lùi.


Để chào mừng sinh nhật lần thứ 110 của cựu Tổng bí thư đảng CSVN Lê Hồng Phong, ngày 3.9, tỉnh Nghệ An tổ chức lễ khánh thành khu tưởng niệm vị cựu lãnh tụ này tại xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên và khu lưu niệm phu nhân Nguyễn Thị Minh Khai tại TP.Vinh. Theo báo Nghệ An, tổng kinh phí cho dự án xây dựng quần thể khu lưu niệm nguyên Tổng bí thư Lê Hồng Phong là 250 tỉ đồng, trong đó riêng nhà tưởng niệm là 35 tỉ đồng. Khu lưu niệm phu nhân Nguyễn Thị Minh Khai khiêm tốn hơn nhưng cũng có kinh phí… tròm trèm 20 tỉ đồng. Trước đó vài tháng, cũng mừng sinh nhật lần thứ 110 của nhà cách mạng cộng sản Phan Đăng Lưu, khu lưu niệm được khởi công ở huyện Yên Thành quê hương đồng chí, với kinh phí hơn trăm tỉ. Cách đây mấy ngày, tỉnh Nghệ An tiếp tục khởi công xây dựng khu tưởng niệm đại tướng Chu Huy Mân ở xã Hưng Hòa, TP.Vinh với kinh phí 13 tỉ đồng…
.
 Cắt băng khánh thành nhà tưởng niệm cố Tổng bí thư Lê Hồng Phong
 (ảnh: báo Nghệ An)

Trong thời buổi đất nước khốn khó, đầu tư công bị buộc chặt, kể cả những công trình dân sinh bức thiết cũng bị ngưng lại thì những khu tưởng niệm là ngoại lệ, vẫn rầm rộ khởi công xây dựng.

Việc xây dựng tượng đài, khu lưu niệm lãnh tụ cộng sản sẽ không làm tôi băn khoăn nếu như không còn những cảnh đời cơ cực như dưới đây mà tôi đã nhiều lần chứng kiến khi đến các xã miền núi của tỉnh Nghệ An.

Trong ảnh là những căn lều do người dân ở xã Bảo Thắng và xã Mường Ải, huyện Kỳ Sơn, Nghệ An dựng cho con em họ đến trọ học. Những căn lều tạm bợ, ẩm thấp, rách nát, nằm chênh vênh bên dốc rừng. Mùa nắng, lều như những cái lò hấp. Mùa đông, gió núi thốc vào lạnh buốt. Bọn trẻ ở đây đứa nào cũng gầy nhẳng, mang những bộ quần áo màu đất, quanh năm chỉ có cơm với muối. Thịt, trứng là xa xỉ phẩm, các em không dám mơ tới. Nhưng đói chưa phải là khổ nhất vì các em đã quen! Các giáo viên nói ở đây các em sợ nhất khi mùa đông đến. Cái lạnh đã thành nỗi ám ảnh kinh hãi đối với những cơ thể gầy nhăng vì thiếu ăn khi những cái chăn cũ mỏng tang không thể chống được cái lạnh buốt giá trong những căn lều thốc gió. Vào những đêm giá lạnh, những cái thân gầy của các em không trụ được với rét, không có chăn đủ ấm để đắp nên không thể ngủ được. Đám trẻ phải rủ nhau dậy đốt lửa lên, cả đêm ngồi vây quanh cho ấm. Anh Lê Đình Hùng, hiệu phó trường cấp 2 Mường Ải, bạn tôi, nói ở đây học sinh các bản xa đến đây trọ học, có nhiều khi cả cơm cũng không có mà ăn. Giáo viên phải góp gạo, mỗi tuần mỗi người vài kí lô cho các em ăn đỡ khi hết gạo. Những đêm quá lạnh, thương các em, giáo viên phải mở cửa nhà/phòng mình rồi gọi các em vào tá túc qua đêm vì biết các em không thể trụ nổi trong những cái chòi gió lùa ấy.

Khoảng 500 triệu thôi, sẽ có căn nhà bán trú giành cho đám trẻ nghèo này bớt cảnh rét mướt. Nhưng trong chủ trương của chính quyền, mục đầu tư cho giáo dục đến nay vẫn không hề thấy dòng nào cho những khu nhà trọ giành cho đám trẻ nghèo khổ này? Ở Mường Ải, anh Hùng nói, năm ngoái bộ đội biên phòng hứa cho 200 triệu dựng nhà cho các em ở. Nhưng từng đó chưa đủ nên chưa thể dựng nhà. Trường cứ loay hoay mãi, viết thư rồi gọi điện xin khắp nơi nhưng chưa ai gật đầu  nên các em vẫn cứ tiếp tục nằm mơ trong những cái chòi xơ xác này.
  
Ừ thì các em hãy thông cảm. Nhà nước còn nghèo, địa phương còn khó khăn.

Nhưng, thưa các vị lãnh đạo. Nếu còn coi những đứa trẻ này là tương lai của đất nước, xin quý vị lãnh đạo hãy bớt ra 1% kinh phí từ các dự án nhà tưởng niệm, lưu niệm thôi, sẽ đủ một căn nhà bán trú cho đám trẻ nghèo khổ này. Đó là hạnh phúc, là niềm mơ ước từ lâu của hàng ngàn đứa trẻ nghèo nơi miền thăm thẳm này.

Tại quê nhà cựu Tổng bí thư Lê Hồng Phong ở xã Hưng Thông, từ lâu đã có khu nhà tưởng niệm bằng tranh, phên nứa, giậu cây, là nguyên bản phục lưu căn nhà của Lê Hồng Phong từng sinh sống. Rất giản dị và gần gũi. Nhưng để làm quà mừng sinh nhật lần thứ 110, tỉnh Nghệ An vẫn dốc hết quyết tâm chính trị xây dựng thêm căn nhà mới hoành tráng 35 tỉ đồng làm quà cho ông và căn nhà 20 tỉ đồng cho quý bà phu nhân.

Tại sao khu tưởng niệm, lưu niệm nào cũng cứ phải xây cho bề thế, hoàng tránh như thế nhỉ?
  
Tôi nghĩ, có lẽ nơi suối vàng, các đồng chí ấy sẽ chẳng vui gì với những món quà này khi cách đó không xa lắm là hàng trăm căn lều xác xơ với hàng ngàn đứa trẻ gầy nhòm vì đói ăn, thiếu mặc vẫn đang lay lắt sống trong những cái chòi như thời hoang dã.
  
Xin đừng lấy tiền bạc của dân ném vào những công trình bằng cốt sắt, bê tông. Hãy để người dân tự xây dựng tượng đài, nhà lưu niệm ngay trong lòng họ. Và quí vị, những lãnh đạo của đất nước, hãy tự xây dựng tượng đài, khu tưởng niệm của mình trong lòng dân đi. Ở đó, những người có công với dân với nước sẽ được lịch sử và người dân muôn đời tôn thờ!

Và đây là hình ảnh về cuộc sống, nơi học hành, ăn ở của các em khi vào năm học mới.
.

* Khánh Hoan 
(PV báo Thanh Niên thường trú tại Nghệ An)

Ghi thêm: Thú thực, tôi đã chảy nước mắt khi đọc bài này, do đồng nghiệp Khánh Hoan gửi thẳng cho tôi. Chỉ muốn kêu lên rằng: Hãy cứu lấy các em!
Nguyễn Thông

"CHUỒNG HỌC"

“Chuồng học” ở Huổi Chát

Huổi Chát là một bản Mông chừng vài chục nóc nhà ở huyện nghèo Mường Tè. Hôm chúng tôi có mặt, chỉ còn 7 ngày nữa là đến ngày hội khai giảng, nhưng những gì bày ra trước mắt thật đắng lòng:


Một căn lều tranh tre nứa lá gió thổi tứ bề, xiêu vẹo, ghế gãy bàn long, ủn ỉn trong đó một cặp lợn mán, được cô giáo cắm bản giới thiệu là trường học.

 “Chuồng học” ở Huổi Chát
“Chuồng học” ở Huổi Chát

Khó từ viên phấn trắng

Đường lên Huổi Chát ngoằn nghèo bò dọc theo núi. Con đường mới vỡ chỉ rộng độ 3 gang tay, bé đến mức những chiếc xe máy chỉ có thể tiến chứ không thể quay ngang để lùi, nhiều đoạn đã thụt hẳn xuống khe sâu hun hút. Đương mùa trái gió trở giời, lúa nương cây trổ cây trụi. Đường núi thăm thẳm thi thoảng lại ngoi lên một khuôn mặt trẻ con cháy nắng lấm lem bùn đất. Những đứa nhỏ 5-6 tuổi đã phải chui rừng cắt suối bói măng mò cá kiếm cơm. Gùi có khi còn to hơn cả người.

Bấy giờ đã giữa trưa, bữa cơm nhiều nhà chỉ có đôi bát nước suối, mấy chiếc măng to bằng quả chuối, với đĩa muối ớt. Dường như cơm có vị cay, vị mặn. Đám trẻ vừa đi nương về áo quần xốc xếch, mặt mũi nhem nhuốc túm tụm sau lách liếp đầu bản giương cặp mắt trong veo như nước suối tò mò nhìn người lạ. Cô giáo Đinh Thị Vin nói bằng tiếng Mông, vẫy chúng xuống lớp. Lớp học là một căn chòi lá rộng độ bằng 4 chiếc chiếu đôi xiêu vẹo, vách tre vọc vạch, hở hoác. Bên trong bàn ghế gãy nát, đầy mạng nhện, ngổn ngang phân heo. Không biết đã từ bao giờ, trường học của lũ trẻ đã trở thành nơi trú ngụ cho một cặp heo mán với 4 heo con. Có người trong số chúng tôi gọi đùa, giọng không ít cay đắng: “Đây là chuồng học chứ đâu phải trường học”. Bế theo một học trò người Mông, cô giáo Vin loay hoay tìm chỗ đặt chân. Lớp học vùng cao khó. Khó từ chiếc bảng đen, viên phấn trắng. Khó đến cả cái sự “bắc cầu Kiều”.

7 năm trước, cô giáo Đinh Thị Vin từ Phú Thọ rừng cọ đồi chè lên Mường Tè theo tiếng gọi tình nguyện. 6 năm trước, cô mang con trai 3 tuổi lên núi, để sau đó chỉ 1 năm phải vội vã đưa con về xuôi vì đứa trẻ bấy giờ chỉ học tiếng người Mông. 5 năm trước, chồng cô mì tôm cá khô tấp tểnh lên thăm vợ, lần đầu và cũng là lần cuối, để chỉ nói một câu: Về. 4 năm trước, cô suýt bị dân bản bắt đền khi giữa đêm dám đem đứa trò nhỏ bấy giờ ốm thập tử nhất sinh vượt “ngang sông Đà”. 3 năm trước, cô khóc cả đêm khi đứa con đứt ruột đẻ ra giờ không còn nhận ra giọng mẹ. Gia đình là thứ gì đó mơ hồ. Có khi chỉ là mười ngày phép mỗi dịp cuối năm và những đồng tiền chắt bóp tháng tháng gửi về quê xa.

Và giờ, cô giáo người Kinh đã trở thành đứa con của Huổi Chát, của Nậm Manh, nói tiếng Mông để dạy tiếng phổ thông, ăn mèn mén, sắn khô, măng rừng, với ước mơ giản dị là một ngày nào đó sẽ có một đứa trò nhỏ người Mông thi đậu vào đại học.

Cái chữ xa xỉ và rau cháo ngày thường

Ở Huổi Chát, ở Mường Tè, ở vùng cao, việc đầu tiên của những cô giáo trước ngày khai trường, không phải là nghĩ ra các khoản thu, nghĩ ra cách thu tiền mà là “dân vận” để cha mẹ học sinh đồng ý đưa con đến trường. Không thể có giáo dục nếu như không có những ngôi trường. Nhưng cũng không thể có những ngôi trường nếu như không có học trò. Chỉ buồn là giáo dục ở vùng cao không thể tách rời chuyện miếng cơm manh áo. Huổi Chát tất nhiên không phải ngoại lệ.

Trưởng bản Lầu Giống Sì khoát khoát cánh tay quanh tứ bề rừng nham nhở xung quanh. Đấy là ông đang giải thích chuyện miếng cơm. 100% hộ sống dưới mức nghèo đói. Cả bản, không một mét vuông ruộng nước, sống nhờ vào những nương lúa. Lúa nương trông cả vào ông giời. Năm nào mưa thuận gió hòa, Nậm Chát có gạo, có ngô ăn đủ trong nửa năm. Nửa năm còn lại thì sao? Thì trông cả vào rừng. Có nghĩa, đến ngay cả chuyện căng cái bụng cũng trông vào ông giời, đủ ăn cũng đã là một niềm mơ ước khi Nậm Chát đói quanh năm chứ không chỉ là mùa giáp hạt. Trong nhà người Mông Nậm Chát, những chiếc lông gà dán trên cây cột thiêng giờ bạc thếch, xác xơ. Lâu lắm rồi người Huổi Chát không có hội, không làm gà, thậm chí không cả xuống chợ Nậm Hàng phía bờ hữu sông Đà. Cuộc sống là chuỗi những mưu sinh không buồn, chẳng vui, không quá khứ, không tương lai. Miếng cơm manh áo thúc vào sườn họ đau và bức bối đến mức ước mơ đôi khi chỉ là bát cơm có miếng thịt. Và cái chữ, vì thế cũng là thứ gì đó xa xỉ, thậm chí xa lạ.

Chúng tôi đi từ Văn Chấn, Mù Cang Chải của tỉnh Yên Bái, ngược lên Phong Thổ, Mường Tè, qua 9 điểm bản và nhận ra một điều rằng, ở bất cứ trường học vùng cao nào cái khó nhất của thầy trò nơi đây chính là bữa ăn. Vâng, đầu thập kỷ thứ hai của thế kỷ 21, vẫn cứ phải nói đến chuyện miếng cơm manh áo khi mà bữa ăn phổ biến nhất của những đứa trò nhỏ vùng biên ải vẫn triền miên là cảnh “một nồi canh rau, 3 miếng đậu trắng”.
.
Trường học là đây, khi chỉ còn 7 ngày nữa là khai giảng năm học mới
Trường học là đây, khi chỉ còn 7 ngày nữa là khai giảng năm học mới

Hôm chúng tôi đến Trường Tiểu học Huổi Luông, ở xã biên giới Huổi Luông thuộc huyện Phong Thổ, Lai Châu, điều không ai có thể quên được là bữa ăn của những đứa trẻ. Một bát tô nhựa, trong đó hổ lốn vừa cơm, vừa canh, và loi nhoi 2 miếng đậu trắng. Không thể gọi khác hơn là tô cơm tiêu điều và khốn cùng. Xin đừng ai đó trách các thầy cô giáo vùng cao. Ở những điểm trường vùng cao, cha mẹ học sinh tháng tháng góp 4kg gạo và 7.000 đồng tiền ăn mỗi tuần, thậm chí vì không có tiền, mỗi cuối tuần chỉ có 1 bó rau rừng được gửi tới. Người ta có thể mua gì khác cho lũ trẻ ngoài đậu, loại thực phẩm chỉ giúp lũ trẻ quên đi cơn đói?

Từ cách đây 2 năm, Nhà nước đã có chính sách hỗ trợ 120.000 đồng/tháng đối với trẻ em 5 tuổi. Tới cuối năm ngoái, Thủ tướng Chính phủ có quyết định (số 60/2011/QĐ-TTg ngày 26.10.2011), theo đó: Trẻ em mẫu giáo 3 và 4 tuổi có cha mẹ thường trú tại các xã biên giới, núi cao, hải đảo, các xã và thôn bản đặc biệt khó khăn, hoặc cha mẹ thuộc diện hộ nghèo theo quy định hoặc mồ côi cả cha lẫn mẹ không nơi nương tựa hoặc bị tàn tật, khuyết tật có khó khăn về kinh tế, được ngân sách nhà nước hỗ trợ 120.000 đồng/tháng và được hưởng theo thời gian học thực tế, nhưng không quá 9 tháng/năm học để duy trì bữa ăn trưa tại trường.

Hiệu lực thi hành của quyết định là từ 15.12.2011. Phải mất nhiều tháng sau đó, liên bộ: GDĐT, Tài chính, Nội vụ mới có thông tư hướng dẫn quyết định 60, thực hiện chi hỗ trợ ăn trưa cho trẻ em mẫu giáo. Và cũng phải bắt đầu từ 1.9.2012, các trường mới bắt đầu làm thủ tục thống kê học sinh 3 - 4 tuổi đề nghị được cấp hỗ trợ. Danh sách này sẽ qua các nấc từ xã, huyện, tỉnh và nếu như tiến độ chính xác như quy định đến từng ngày như trong thông tư thì sau 80 ngày danh sách mới về đến Bộ Tài chính và Bộ GDĐT. Còn bao giờ tiền về được tới trường thì lại phải phụ thuộc vào “tốc độ cải cách hành chính” của các bộ, các sở, các địa phương.

Chỉ biết là 8 tháng sau quyết định của Thủ tướng, ngay trước thềm năm học mới 2012-2013, ở hầu hết trong 9 điểm trường mà chúng tôi đặt chân tới của các tỉnh Yên Bái, Lai Châu, “độ trễ của chính sách” khiến cho những đồng tiền cơm lũ trẻ đáng được hưởng, thực ra vẫn bóng chim tăm cá. Câu hỏi “bao giờ” vẫn là niềm day dứt của những người làm giáo dục vùng cao. Và cái hậu của việc truy lĩnh, “dồn một cục”, là các trường sẽ phải trả những đồng tiền ăn của các cháu cho cha mẹ. Không ai có thể cam kết sau đó những đồng tiền cơm 2 năm học của một đứa trẻ không biến thành một bữa nhậu của người lớn.

Chúng tôi ngồi bên mái lá Huổi Chát trong sự ngưng đọng của cả không gian và thời gian. Một lát, cô giáo tiểu học Nguyễn Thị Hường đội nắng leo núi đi tới. Hường 24 tuổi, đã lên Mường Tè 5 năm. Lớp học của cô có 18 học sinh, học từ lớp 1 đến lớp 4. Nấu ăn cho lũ trẻ ư? Hường hỏi, trong mắt có chút ngơ ngác. Chúng tôi hiểu được sự ngỡ ngàng của cô ngay sau đó. Chợ Nậm Hàng thì cách Huổi Chát vài tiếng đi bộ. Và điều quan trọng nhất là chính cô cũng triền miên rau cháo qua ngày.

Cũng còn may cho lũ trẻ vùng cao là còn có những cô giáo cắm bản, như Vin, như Hường. Một người đã từ lâu coi Huổi Chát là nhà. Một người khác đang tính chuyện xây dựng gia đình trên chính mảnh đất nghèo khó này, với người chồng, cũng là một thầy giáo cắm bản, đang ở xã xa nhất Huổi Manh, cách cô chừng 6 giờ leo núi.

Theo Đào Tuấn
 Lao động
Nguồn: Dân Trí.

"KHAI TỬ" CẢM XÚC NGÀY KHAI TRƯỜNG

'Khai tử' cảm xúc ngày khai trường 


VNN - Có lẽ hơn mười năm trở lại đây, không học sinh nào là không biết tập dượt khai giảng. Hoạt động này thậm chí đã trở thành một bộ phận không thể tách rời trong các hoạt động giáo dục của nhà trường.

Niềm vui trong ngày khai giảng. (Ảnh có tính chất minh họa). Văn Chung

Ngày 8/8/2012, Sở GD-ĐT Hà Nội đã yêu cầu các đơn vị, trường học không được yêu cầu học sinh tập dượt khai giảng quá nhiều trước ngày khai giảng.

Thế nào là tập quá nhiều? Tập bao nhiêu thì đủ? Đủ so với cái gì?

Trả lời câu hỏi "Ai khai sinh ra nó và để nó tồn tại"? thì công văn gần như đã gián tiếp trả lời: Không phải Sở. Nhưng thấy các trường yêu cầu các học sinh tập dượt đến bở hơi tai, đến chán chường cái chuyện đứng ngay hàng, nghiêm nghỉ,…mới có cái công văn trên yêu cầu các trường bớt lại. Cũng không phải là cấm.

Vậy tập dượt để làm gì mà các ban giám hiệu ở các trường hăng hái đến vậy? Có lẽ vì thói quen trong nếp nghĩ muốn thấy một buổi lễ khai giảng chỉn chu, nghiêm túc, đàng hoàng. Nhất là trong buổi lễ quan chức cấp trên về dự nữa.

Cũng chẳng có gì đáng nói nếu muốn làm tốt một việc gì đó. Song với việc tổ chức tập dượt đã thành quen lệ nhiều năm, những người làm giáo dục có lẽ đã bỏ quên một phần quan trọng trong sự nghiệp giáo dục của nhà trường, đó là cảm xúc của học trò.

Cảm xúc gì ở đây, khi lễ khai giảng chỉ là buổi diễn lại? Đánh trống khai trường cái gì đây khi mà trường đã học hơn nửa tháng rồi?

Nói về cảm xúc ngày khai giảng, không ai là không nhớ tác phẩm: "Tôi đi học" của nhà thơ, nhà văn Thanh Tịnh. Những cảm xúc rưng rưng mà ai đã đọc một lần gần như không thể quên được trong cả cuộc đời.

“Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường.”

“Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học.”

Vẫn biết cái cảm xúc lần đầu tiên đi học, là một cảm xúc mãnh liệt, hơn hẳn cái cảm xúc lớp 5 lên lớp 6, lớp 9 lên 10, hay là cảm xúc 10 lên 11 chẳng hạn. Song cảm xúc là cảm xúc, làm sao con người không có được. Nghe lời bài hát “Nỗi buồn hoa phượng” của nhạc sỹ Thanh Sơn, ai bảo rẳng 3 tháng hè chẳng có gì để nói?

“Mỗi năm đến hè lòng man mác buồn,
Chín mươi ngày qua chứa chan tình thương
Ngày mai xa cách hai đứa hai nơi,
Phút gần gủi nhau mất rồi
Tạ từ là hết người ơi!”
“Giã biệt bạn lòng ơi! Thôi nay xa cách rồi
Kỷ niệm mình xin nhớ mãi,
Buồn riêng một mình ai
Chờ mong từng đêm gối chiếc
Mối u hoài này ai có hay”

Cứ cho đây là cái cảm xúc của trai gái chớm yêu nhau. Nhưng hoạt động tình cảm, tâm lý của học sinh trong 3 tháng hè đâu phải có chừng đó là hết. Còn bạn bè, ông bà, quê hương…chỉ có điều chưa có ai nói giùm ra mà thôi.

Việc tập dượt khai giảng, quả thực đã giết chết những cảm xúc đầu đời đáng yêu này một cách... tưởng chừng như vô hại mà nguy hai. Chẳng có cảm xúc gì nữa. Khai giảng là trách nhiệm đúng giờ, đứng ngay hàng, im lặng… Mà đúng ra là trách nhiệm của người lớn, chứ chẳng phải của học trò.

Nếu Thanh Tịnh ngày xưa cũng tập dượt khai giảng như bây giờ, thì liệu ông có viết lên nổi áng văn bất hủ đó? Người ta muốn thấy một lứa học trò hàng lối xộc xệch, nhưng đầy cảm xúc đáng yêu, hay người ta muốn thấy một lớp học trò hàng lối ngay ngắn thẳng tắp, nhưng đầu óc không cằn như một con rô-bốt?

Liệu có nói quá không, khi cho rằng đây là một biểu hiện của bệnh thành tích? 

Đào Văn (Phú Yên)

Nguồn: VietNamnet.

TẤT CẢ LÀ TẠI TÔI ! KHÔNG LIÊN QUAN GÌ ĐẾN CÁC LÃNH ĐẠO

Vậy là vụ phá hoại chùa Trăm Gian đã đi đến hồi kết. Vụ nào cũng vậy, ở dưới gầm trời này, cứ đến hồi quy trách nhiệm là hồi kết của một vụ. Cuối cùng, vụ nào cũng vậy, cứ đến lúc quy trách nhiệm là phải có một con tốt được đưa ra để gánh hết mọi sự. Người ta đang sờ đến Ông Giám đốc Sở VH TT và Du Lịch Hà Nội thì ngay trong buổi họp báo, ông đã né được những đường đao sắc lẻm của cánh ký giả thiện nghệ. Lãnh đạo Sở, lãnh đạo Thành phố, Cục Di sản, Bộ Văn hóa...tất cả đều đã được che chắn bằng các tấm khiên vững chãi.

Chiêu cuối cùng, trong chương trình Thời Sự VTV1, ông Trần Lâm Biền được đưa ra để nói rằng: Mới chỉ động đến lớp kiến trúc thể kỷ 19 thôi, còn các kiến trúc trước đó vẫn còn nguyên. Vậy là xong! 

Tưởng diễn đến vậy là xong! Ai dè, sáng nay, chiêu nữa được đưa ra: Sư trụ trì chùa Trăm Gian đã nhận với làng hết mọi tội lỗi, mà không đổ cho vấy cho ông Hương, cụ Lý, ông Chánh, cụ Đồ: "Tại tôi tất! Không liên quan gì đến các lãnh đạo xã và huyện". Câu ấy có nghĩa là: "Tại tôi tất! Không liên quan gì đến các lãnh đạo xã và huyện, và thành phố, và Bộ". Phủi tay! Xong! 

Dẫu có bực lắm, vẫn phải lên tiếng khen thầy rằng: Lúc tự hào về di sản Chùa Trăm Gian (báu vật quốc gia) thì từ xã đến huyện, thành phố; từ Cục đến Bộ đều vơ cả vào. Đến khi chùa gặp cơn ba đào của dư luận, thì một mình Thầy đem thân ra để gánh.

Bạch thầy, biết tiếng thầy đã lâu, nhưng thấy thầy khóc, cũng thương thầy lắm lắm!
 
Bạch thầy! Thầy nhận hết về mình như thế cũng là phải! "Nắm thằng có tóc chứ ai nắm kẻ trọc đầu"! Đám có tóc chạy tháo thân cả rồi, chỉ còn mình thày chẳng bỏ chùa mà chạy được, đầu trọc lốc bình vôi đứng ngẩn giữa sân chùa thì ai nỡ lòng nào phạt vạ thầy nữa! Thầy ơi, cứ gắng chịu điều tiếng dăm bữa nửa tháng là êm chuyện thôi! 

"Của chùa mất một đền mười", thầy cứ yên tâm, thầy nhé, nhé!
Sư trụ trì chùa Trăm Gian: “Tại tôi tất”

Sư trụ trì chùa Trăm Gian Thích Đàm Khoa đã nhận tất cả trách nhiệm trong sự việc vi phạm vừa qua tại di tích lịch sử cấp quốc gia này trong cuộc họp tại địa phương chiều 4/9.


 >>  Phá chùa Trăm Gian: “Trách nhiệm có ở các nơi!”
 >>  Sở VH-TT&DL Hà Nội nói gì về vụ tháo dỡ chùa Trăm Gian?
 >>  Đề nghị đình chỉ thi công chùa Trăm Gian

Cuộc họp “Bàn thực hiện thông báo kết luận về tình hình chùa Trăm Gian của Chủ tịch UBND TP Hà Nội” do Huyện ủy, UBND huyện Chương Mỹ tổ chức. Cuộc họp có sự tham dự của Bí thư huyện ủy Chương Mỹ, Chủ tịch huyện Chương Mỹ, Trưởng ban Quản lý di tích chùa Trăm Gian và sư trụ trì chùa Trăm Gian.

Sư Thích Đàm Khoa đã khóc trong cuộc họp, thừa nhận những sai phạm trong việc tháo dỡ, hạ giải và xây mới hai hạng mục là gác khánh và nhà tổ trong thời gian qua.

.
Sư trụ trì chùa Trăm Gian: Tại tôi tất
"Vì lời kêu cứu của tôi suốt 4 năm trời không được đáp ứng nên tôi cũng đành liều" 
- Sư thầy giải thích.
.
Sư thầy khẳng định: “Tại tôi tất. Không liên quan gì đến các lãnh đạo xã và huyện. Vì lời kêu cứu của tôi suốt 4 năm trời không được đáp ứng nên tôi cũng đành liều. Nếu chờ thì không biết chờ đến bao giờ”.

RFI: DÂN OAN TRUNG QUỐC NỔ BOM TỰ SÁT TẠI CƠ QUAN CHÍNH QUYỀN

Dân làng Trung Quốc nổ bom tự sát tại cơ quan chính quyền

.

Nông dân Trung Quốc phản đối việc trưng thu nhà đất vào tháng 12/2011.
Nông dân Trung Quốc phản đối việc trưng thu nhà đất vào tháng 12/2011.
Reuters

Tú Anh
 
Hôm nay, 03/09/2012, đã xảy ra một vụ nổ bom tự sát tại trụ sở chính quyền Vinh Thành, tỉnh Sơn Đông. Theo Tân Hoa Xã , vụ nổ làm tác giả là một nông dân chết tại chổ và gây thương tích cho 6 người khác. Trên mạng internet, nhiều thông điệp chia buồn và vinh danh hành động tuyệt vọng của người nông dân bị áp bức này.

Theo Tân Hoa xã , do bất mãn, một người dân khiếu kiện đã dùng bom tự sát ngay trong tòa nhà chính quyền địa phương thành phố Đằng Gia, huyện Vinh Thành, tỉnh Sơn Đông vào ngày hôm nay. Người mang bom, một nông dân tên Khúc Hoa Cường, chết tại chổ, 6 người khác bị thương.

Hãng tin chính thức cùa Trung Quốc không cho biết chi tiết nguyên nhân nguồn cội của vụ việc oan ức này, cũng như không nói rõ những những người bị thương có phải là cán bộ chính quyền hay không.

AFP cho biết là hành động tuyệt vọng của nông dân này đã gây xúc động trong công luận . Nhiều blogger ca tụng hành động « can đảm » của nạn nhân và lên án việc thủ tục « kiến nghị » trong chế độ Trung Quốc không bao giờ được cấp trên xem xét giải quyết cho dân. Chính quyền cấp địa phương còn sử dụng các biện pháp « côn đồ » để ngăn chận dân chúng đưa đơn tố giác lên cấp cao hơn.Chính lý do này đã thúc đẩy nhiều người dân nổi loạn.

Một blogger tên Nizhigala vinh danh « một người bạn can đảm dám nổi dậy ». 

Tại Trung Quốc, chuyện dân chúng bất mãn chế độ là điều cấm kỵ. Trong bản tin thứ hai của Tân Hoa Xã về vụ nổ bom tự sát nói trên, từ « dân khiếu kiện bất mãn » đã bị xóa bỏ.

Nguồn: RFI Việt ngữ.

TIN NÓNG: ĐÃ BẮT ĐƯỢC DƯƠNG CHÍ DŨNG

Đã bắt được Dương Chí Dũng

TTO TIN NÓNG - Ngày 5-9, lãnh đạo Tổng cục Cảnh sát phòng chống tội phạm thuộc Bộ Công an cho biết đã bắt được bị can Dương Chí Dũng (55 tuổi, trú tại phường Thành Công, Hà Nội - nguyên cục trưởng Cục Hàng hải VN).

Được biết Dương Chí Dũng bị bắt tại 1 nước trong khối ASEAN và được Cảnh sát quốc tế Interpol di lý về Việt Nam. Trước đó ngày 19-5, Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an đã ra quyết định truy nã bị can Dương Chí Dũng.

Quyết định truy nã được thông báo đến cơ quan công an các địa phương, các đơn vị của bộ để bắt giữ khi phát hiện.

Trước đó, mở rộng điều tra vụ án tham nhũng xảy ra tại Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines), cơ quan điều tra đã khởi tố bị can, ra lệnh khám xét, bắt tạm giam đối với ông Dương Chí Dũng. Tuy nhiên, khi cơ quan điều tra tiến hành tống đạt quyết định khởi tố bị can và thực hiện lệnh khám xét, bắt tạm giam thì ông Dương Chí Dũng không có mặt tại nhà. 

Ngày 18-5, ông Dũng cũng không có mặt ở cơ quan để làm việc. Sau khi xác minh, cơ quan điều tra xác định bị can này đã bỏ trốn khỏi nơi cư trú nên ra quyết định truy nã, thông báo tới cơ quan công an các địa phương để truy bắt.

Cùng bị khởi tố với ông Dương Chí Dũng còn có hai bị can bị bắt tạm giam gồm ông Mai Văn Phúc (54 tuổi, trú ở Thụy Khuê, quận Tây Hồ, Hà Nội - phó vụ trưởng Vụ Vận tải, Bộ GTVT, nguyên tổng giám đốc Vinalines) và Trần Hữu Chiều (60 tuổi, trú ở Thái Thịnh, quận Đống Đa - phó tổng giám đốc, phó bí thư Đảng ủy Vinalines). 

Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bắt tạm giam một loạt cán bộ thuộc Vinalines về hành vi “tham ô tài sản” gồm các ông Trần Hải Sơn (52 tuổi, trú tại TP.HCM - tổng giám đốc Công ty TNHH sửa chữa tàu biển Vinalines), Trần Văn Quang (37 tuổi, trú tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu - trưởng phòng kế hoạch Công ty TNHH sửa chữa tàu biển Vinalines). Ngoài ra còn có hai bị can Trần Bá Hùng (33 tuổi, trú tại tỉnh Khánh Hòa - phó trưởng bộ phận vỏ của Công ty TNHH Hyundai Vinashin); Phạm Bá Giáp (40 tuổi, trú tại tỉnh Khánh Hòa - giám đốc Công ty TNHH Nguyên Ân) cũng bị bắt tạm giam về hành vi “tham ô tài sản”. 

Cơ quan điều tra xác định các bị can này đã tham ô trong quá trình sửa chữa ụ nổi No83M do Công ty TNHH sửa chữa tàu biển Việt Nam nhập về. Cụ thể, các bị can tại Công ty TNHH sửa chữa tàu biển Việt Nam đã gửi giá nguyên vật liệu sửa chữa nhằm chiếm đoạt tiền của Nhà nước. Theo đó, mỗi ký thép hàn, các bị can Sơn và Quang yêu cầu ông Trần Bá Hùng cộng thêm 10.000 đồng để lấy tiền. Ngoài ra, các bị can này còn nâng khống khối lượng sắt hàn trên hồ sơ quyết toán nhằm tham ô tài sản của Nhà nước. 

Để rút được tiền chuyển cho bị can Sơn và Quang, bị can Trần Bá Hùng đã thông qua Công ty TNHH Nguyên Ân do Phạm Bá Giáp làm giám đốc để làm hợp đồng, chứng từ thanh toán, quyết toán. Qua đó, bị can Trần Bá Hùng đã rút tiền và chuyển hơn 1,5 tỉ đồng cho bị can Trần Văn Quang, chi cho Phạm Bá Giáp 50 triệu đồng để thu lợi bất chính.
>> TTO tiếp tục cập nhật
MINH QUANG 

Nguồn: Tuổi Trẻ 
Luôn bấm F5 để xem bản cập nhật của báo Tuổi trẻ.

Thứ Ba, 4 tháng 9, 2012

NHÂN NGÀY KHAI TRƯỜNG, LẬT LẠI HỒ SƠ MỘT VỤ BUÔN NGƯỜI

Bi kịch từ một vụ buôn người

Thứ ba 28/08/2012 05:00 

15 năm về trước, một cô giáo dạy toán bị lừa bán sang Trung Quốc. Trốn thoát khỏi “địa ngục trần gian” chân ướt chân ráo về nước, chưa hoàn hồn thì đã bị cơ quan tố tụng dưới áp lực cần phải sớm tìm ra thủ phạm, làm hồ sơ qua quýt rồi vội vã kết án, tống người vô tội vào tù. 

Sự tắc trách của cơ quan tố tụng đã biến cả gia đình cô rơi vào thảm kịch mà đến nay, nỗi đau ấy đã trở thành gánh nặng, ám ảnh cả cư dân TP.Bắc Giang.

Chị Đỗ Thị Hằng. Ảnh: N.C.
Kỳ 1: Những mảnh đời vỡ vụn

Gần 20 năm làm báo, chứng kiến không biết bao nhiêu sự trớ trêu của phận người; ngồi hàng trăm phiên tòa, tham dự hầu hết các vụ trọng án của đất nước trong vòng 10 năm trở lại đây, nhưng khi đọc xong hồ sơ về vụ án Đỗ Thị Hằng (sinh năm 1953, trú tại số 21, tổ 12 phường Mỹ Độ, TP.Bắc Giang) tôi không thể có lời nào hơn để diễn tả về vụ án bằng 2 từ: Bi kịch! 

Nạn nhân hóa thành thủ phạm

Để tiện cho độc giả theo dõi sự việc, chúng tôi xin trích lại nội dung bản án số 72/HSST ngày 24.3.1998 của TAND tỉnh Bắc Giang do Thẩm phán Nguyễn Tư Khoa làm chủ tọa.

SÁNG 4.9.2012: BÀ CON VĂN GIANG ĐẾN CẢM ƠN MẶT TRẬN TỔ QUỐC VN

Sáng nay, 4-9-2012 hàng trăm bà con nông dân Văn Giang đến Văn phòng tiếp dân của Mặt Trận Tổ Quốc VN tại số 46 Tràng Thi để cám ơn MTTQ VN.

Trong thời gian qua MTTQ VN đã tiếp nhận đơn thư khiếu nại của bà con và đứng về phía lẽ phải để phản biện báo cáo của Thanh tra Chính phủ có nhiều điểm chưa hợp lý, bảo vệ cái sai trong các hoạt động của dự án Ecopark. Do bị nhiều ban ngành cũng đã không đồng tình với báo cáo của Thanh tra Chính phủ về dự án Ecopark tại Văn Giang nên Thanh tra Chính phủ phải làm lại báo cáo thanh tra trên.

Cũng trong sáng nay bà con ở Dương Nội, bị thu đất trong các dự án khu đô thị mới trên phường Dương Nội cũng đến 46 Tràng Thi tiếp tục gửi đơn thu khiêu nại, kêu cứu về các sai phạm của dự án trong quá trình cưỡng chế thu hồi đất.
.






Tin và Ảnh: M.X

Nguyễn Quang Thạch: XÃ HỘI DÂN SỰ, TỪ GÓC NHÌN MÔ HÌNH TỦ SÁCH


Những kết cấu dân sự khả dụng:
Góc nhìn từ hoạt động xây dựng các mô hình tủ sách
Nguyễn Quang Thạch
           
Mục đích của bài viết này là chia sẻ những kết quả thực nghiệm từ việc tìm kiếm kết cấu dân sự khả dụng góp phần giải quyết thực trạng thiếu sách ở nông thôn cũng như những mô hình tủ sách trình diễn đã được dân sự hóa thành dân tự xây dựng, tự sở hữu và tự phục vụ.

Qua đây tôi cũng mong  rằng ngày càng nhiều cá nhân và nhóm hành động thúc đẩy xã hội dân sự theo  hướng CHẠY NGƯỢC DÒNG  bằng cách xây dựng mô hình thực nghiệm điển hình và hữu dụng. Các mô hình điển hình sẽ được dùng làm công cụ vận động chính để nhà nước áp dụng và nhân rộng trên quy mô lớn hơn CHỨ KHÔNG CHỜ ĐỢI NHÀ NƯỚC TẠO DÒNG CHẢY  mời các công dân và các nhà xã hội dân sự học lên thuyền tiến về đích xã hội dân sự theo chuẩn mực của các nước văn minh như Thụy Điển, Nhật Bản hay Mỹ.  Bởi lẽ, bất cứ sự tiến bộ xã hội nào đều phải trải qua một quá trình  hành động của công dân nhằm vận động chính quyền thực thi những quyền mà nhu cầu tự thân của người dân cho đến khi nó trở thành thứ hiển nhiên trong đời sống xã hội.

SANG NĂM, MIẾN ĐIỆN CÓ THỂ CÓ BÁO CHÍ TƯ NHÂN

Miến Điện có thể cho phép ra báo tư nhân


Một sạp báo tại Rangoon. Ảnh chụp ngày 03/02/2011.REUTERS

Đức Tâm
 
Hôm nay, 02/09/2012, tân bộ trưởng Thông tin Miến Điện tuyên bố kể từ đầu năm tới, 2013, chính quyền có thể cấp giấy phép hoạt động cho các nhật báo tư nhân. Bộ trưởng Aung Kyi khẳng định luật báo chí năm 1962 sẽ bị xóa bỏ. Các nhà báo nước ngoài có thể được cấp visa và đến làm việc tự do tại Miến Điện.

Trả lời phỏng vấn tuần báo Myanmar Times, ông Aung Kyi, bộ trưởng Thông tin Miến Điện nói : « Tôi thành thật nghĩ rằng các nhật báo tư nhân có vai trò chủ chốt trong một đất nước dân chủ ». Ông Aung Kyi vừa được chỉ định làm bộ trưởng Thông tin thay cho ông Kyaw Hsan, một nhân vật được coi là cực kỳ bảo thủ.

Theo tân bộ trưởng Thông tin Miến Điện, việc mở của thị trường thông tin đòi hỏi phải có một khuôn khổ pháp lý và một bộ luật ứng xử. Sự xuất hiện báo chí tư nhân còn tùy thuộc vào thời điểm Miến Điện có được những văn bản pháp lý nói trên. Cuối tháng Tám vừa qua, Miến Điện đã chính thức hủy bỏ chế độ kiểm duyệt đối với các báo thuộc lĩnh vực chính trị và tôn giáo.

Một dự luật về báo chí đang được soạn thảo. Bộ trưởng Thông tin Miến Điện nói rằng, dự thảo này cần phải được đưa ra tham khảo ý kiến các cơ quan báo chí trước khi hoàn chỉnh và trình lên Nghị viện. Ông nhấn mạnh : « Tôi thành thực quyết tâm có được một đạo luật về các phương tiện truyền thông, đáp ứng các chuẩn mực quốc tế ».

Cho đến nay, tổ chức Phóng viên Không biên giới vẫn xếp Miến Điện ở hạng 169 trong tổng số 179 quốc gia, trong bảng xếp hạng về tự do báo chí. Tuy nhiên, kể từ khi chính phủ dân sự được thành lập vào tháng Ba năm ngoái, Miến Điện đang thực hiện nhiều cải cách dân chủ, trả tự do cho nhiều nhà báo và các tù chính trị.

Bộ trưởng Aung Kyi khẳng định là luật báo chí năm 1962 sẽ bị xóa. Sự tồn tại của văn bản này gây nghi ngờ về thực tâm của chính quyền trong việc thúc đẩy quyền tự do báo chí. Liên quan đến hoạt động của các nhà báo nước ngoài, ông Aung Kyi cho rằng họ có thể được cấp visa và đến làm việc tự do tại Miến Điện.

Trong tuần, chính quyền Nayipydaw đã xóa tên nhiều người Miến Điện lưu vong, trong đó có các nhà báo, trong danh sách đen.

HIẾN PHÁP KHÔNG PHẢI ĐỂ BAN ƠN CHO NHÂN DÂN!

“Hiến pháp không phải để ban ơn cho nhân dân”

Cần phải nhận thức đúng về Hiến pháp theo nghĩa Hiến pháp không phải là thứ ban ơn của Nhà nước dành cho công dân, không phải Nhà nước cho thế nào được thế nấy.

Trong quá trình sửa đổi Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001) hiện nay, người ta nhắc rất nhiều đến Hiến pháp 1946 và tư duy xây dựng luật của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cách thức thiết kế, thể hiện các quyền con người, quyền công dân trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta đã chứa đựng những tư tưởng tiến bộ mà cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Pháp Luật TP.HCM đã trao đổi với PGS-TS Nguyễn Như Phát, Viện trưởng Viện Nhà nước và Pháp luật (Viện Khoa học xã hội Việt Nam), xung quanh vấn đề này.

. Phóng viên: Những giá trị tiến bộ của Hiến pháp 1946 về quyền công dân là gì, thưa ông?

+ PGS-TS Nguyễn Như Phát (ảnh): Dưới thời Chủ tịch Hồ Chí Minh, do bối cảnh chính trị xã hội lúc bấy giờ, những người soạn thảo Hiến pháp 1946 là những người có tài, thức thời và không bị chi phối bởi tư tưởng giai cấp hoặc chính trị quá nhiều. Do đó, bản Hiến pháp đầu tiên này có những giá trị rất cấp tiến, tư duy mạch lạc, thể hiện tư tưởng tiến bộ của chủ nghĩa lập hiến hiện đại. Theo đó, Hiến pháp là “văn bản ủy quyền” của nhân dân cho Nhà nước, trao cho Nhà nước hệ thống quyền lực cụ thể của nhân dân, ấn định việc phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực và các nguyên tắc, phương pháp thực thi quyền lực Nhà nước cũng như ghi nhận và xác lập trách nhiệm của Nhà nước trong việc đảm bảo thực thi các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. 

Tinh thần của Hiến pháp 1946 như vậy nên ngay cả việc sắp xếp các chương thì quyền con người, quyền công dân cũng nằm ở chương hai trong khi trong Hiến pháp hiện hành là chương năm. Sắp tới, bản Hiến pháp sửa đổi chắc sẽ có sự thay đổi và quay về cách sắp xếp của bản Hiến pháp ban đầu. 

Mặt khác, Hiến pháp vẫn là văn bản quy phạm pháp luật và phải có giá trị thi hành. Điều đó có nghĩa là quyền của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp có giá trị áp dụng trực tiếp, không có nhu cầu cần phải cụ thể hóa. Những quyền của công dân trong Hiến pháp 1946 thể hiện rõ nhất điều đó chứ không kèm thêm câu “theo quy định của pháp luật” như từ Hiến pháp 1980 trở đi.

Trên thực tế thì quyền và nghĩa vụ công dân trong Hiến pháp thường cần đến luật quy định cụ thể. Muốn điều chỉnh những quyền này của công dân thì Nhà nước phải có luật nhưng không phải là cắt xén tinh thần của Hiến pháp. Luật đó chỉ mang tính chất trình tự thủ tục và dĩ nhiên, ở một xã hội văn minh thì quyền đó phải được thực hiện trong một khuôn khổ và trình tự nhất định. Tuy vậy, việc hạn chế quyền của công dân có thể được thể hiện theo quy định của luật (chứ không phải của mọi pháp luật) và phù hợp với Hiến pháp chứ không phải hạn chế vì lợi ích Nhà nước.

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, Chủ tịch Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, phát biểu trong phiên họp lần thứ tư năm 2012. Ảnh: TTXVN

Giữ gìn sự thiêng liêng của Hiến pháp

. Vậy quyền của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp 1946 có gì khác so với hiện nay?

+ Trước giờ chúng ta vẫn quen đánh đồng lợi ích công cộng với lợi ích Nhà nước là một nhưng hoàn toàn không phải như thế. Nhà nước chỉ là một chủ thể trong xã hội và có lợi ích riêng của mình còn xã hội có rất nhiều chủ thể có lợi ích riêng. Những quy định hạn chế một phần, hạn chế quyền của công dân để đảm bảo lợi ích công cộng đều phải được cân đong đo đếm để phù hợp với tinh thần của Hiến pháp. 

Theo tôi, cần phải nhận thức đúng về Hiến pháp theo nghĩa Hiến pháp không phải là thứ ban ơn của Nhà nước dành cho công dân, không phải Nhà nước cho thế nào được thế nấy. Đây là sự khác biệt rất lớn về tư tưởng lập hiến từ Hiến pháp năm 1980 trở đi so với Hiến pháp 1946. 

Từ Hiến pháp 1980, triết lý lập hiến của ta là mọi quyền cơ bản của công dân đều phải được thực hiện trong khuôn khổ của pháp luật nhưng cách ban hành pháp luật của chúng ta lại có vấn đề. Nếu hiểu theo cách đó thì theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, những ông nghị làng nghị xóm cũng có thể xóa đi một điều trong Hiến pháp. Đơn giản là do các ông ấy có thể ra nghị quyết (được coi là pháp luật) mà nghị quyết này trên thực tế lại không bị kiểm soát. Hơn nữa, trên thực tế, rất ít thấy việc văn bản pháp luật của cấp dưới bị hủy bỏ bởi cấp trên. Như vậy, sự thiêng liêng của Hiến pháp đã bị ảnh hưởng.

Pháp luật không phải để cai trị 

. Từ triết lý lập hiến như vậy, ông có suy nghĩ gì về cơ chế ban hành pháp luật hiện nay?

+ Cách thức, tư duy làm luật cũng không khác gì so với việc ban hành Hiến pháp. Lâu nay người ta vẫn nghĩ pháp luật là của Nhà nước, là công cụ mà Nhà nước dùng để cai trị và quản lý xã hội. Vì thế, hiểu theo nghĩa thô thiển, cơ quan ban hành pháp luật dễ “tự do” ấn định ý chí của mình vào văn bản pháp luật để cho dân thực hiện. Đặc biệt, cách tư duy như vậy sinh ra tư tưởng làm luật ban ơn, Nhà nước ban phát đến đâu, dân hưởng đến đó. 

Cạnh đó, mọi người vẫn nghe khẩu hiệu đưa pháp luật vào cuộc sống song chưa ai đặt ra vấn đề đưa cuộc sống vào pháp luật. Nếu không đưa cuộc sống vào pháp luật thì pháp luật đang tồn tại có được coi là pháp luật hay không? Đó là chưa bàn tới câu chuyện nó có khả năng thực thi hay không. Luật không phản ánh nhu cầu thật của xã hội thì làm sao xã hội có thể thực hiện nó, ấn nó vào xã hội làm sao được? Đây là vấn đề về tính chính đáng của pháp luật.

. Ông có thể đưa ra những ví dụ cụ thể?

+ Thí dụ việc giao cho Bộ Công an chủ trì soạn thảo Luật Biểu tình thì đương nhiên Bộ Công an phải nghĩ làm sao cho hoạt động an ninh được đảm bảo. Và người ta sẽ có những quy định về biểu tình để đảm bảo an ninh theo nghĩa của những người làm an ninh chứ chưa chắc đã phải là của nhân dân.

Một thí dụ khác là trong ngành tài chính của ta, từ cơ quan nhỏ đến cơ quan to cứ chăm chăm làm sao thu được nhiều thuế của dân. Nhưng kinh tế học chứng minh đó là tư duy sai lầm, kể cả khi việc đó phục vụ cho mục tiêu làm giàu ngân sách quốc gia. Anh thu nhiều thuế, thu thuế cao thì người ta không đóng và sinh ra đủ kiểu trốn thuế. Không có nhà nước nào khôn hơn dân và không có nhà nước nào mạnh hơn dân cả! 

Cân đối lợi ích trong ban hành pháp luật 

. Thế tại sao tư duy làm luật này vẫn còn tồn tại, thưa ông?

+ Theo tôi, hệ thống thực thi pháp luật, trình tự thủ tục hành chính, tư tưởng đạo đức của con người trong bộ máy nhà nước đang làm cho vấn đề này càng trầm trọng thêm. Thêm vào đó là vấn đề quan trí. Báo chí cũng đã từng lên án về tệ chạy chức chạy quyền. Có mua ắt có bán. Đây là thị trường béo bở mà nhà đầu tư kém cỏi nhất cũng nghĩ đến chuyện hoàn vốn. Trong đó thời gian hoàn vốn chính là nhiệm kỳ, đó là một trong những vấn đề sinh ra tư duy nhiệm kỳ. Tư duy chính trị, truyền thống lập pháp, thực trạng của hệ thống quản lý trên đều là những yếu tố có thể giải thích nguyên nhân tại sao luật pháp lại hay vơ vào cho Nhà nước như vậy. 

Bên cạnh đó, tham nhũng chính sách là thứ vô cùng nguy hiểm. Loại tham nhũng này được dựa trên những cơ sở của pháp luật, xuất phát từ vai trò chủ trì soạn thảo pháp luật. Loại tham nhũng này dựa trên cơ sở hợp pháp nên có hậu quả khôn lường. 

Lợi ích và cục bộ ngành cũng là vấn đề làm suy yếu Nhà nước. Các bộ, ngành, các địa phương đều cùng ngồi trong một con thuyền là Nhà nước. Nếu họ không cùng phối hợp nhịp nhàng và trên tinh thần phục vụ nhân dân toàn quốc vì sự phát triển chung và đồng đều của đất nước thì sẽ không là những vector cùng chiều để tạo thành sức mạnh chung cho Chính phủ. 

Trên thực tế, có những vấn đề vượt phạm vi của một ngành, một bộ, buộc họ phải ngồi lại cùng nhau để ban hành chính sách hay pháp luật (thí dụ như thông tư liên bộ). Những vấn đề lớn hơn sẽ phải do tập thể Chính phủ bàn bạc và quyết định (dưới dạng nghị định). Những vấn đề quan trọng của đất nước phải do Quốc hội quyết định. Trong quá trình đó, nếu không “cân đối” được lợi ích ngành, địa phương với lợi ích quốc gia thì quản lý đất nước sẽ không minh bạch, không thông suốt và tạo kẽ hở cho tiêu cực trong hệ thống và lãng phí xã hội, tạo cơ chế xin - cho. 

Những hiện tượng như các địa phương, các ngành tìm cách để xin cơ chế riêng, thậm chí cả các đoàn đại biểu Quốc hội có thể tạm quên đi lợi ích quốc gia mà phấn đấu cho lợi ích địa phương mình… đều là những biểu hiện của chủ nghĩa cục bộ. Những “phi vụ” đó thành công thì cơ chế và chính sách sẽ được hợp pháp hóa. Nếu không đổi những tư duy này từ gốc thì pháp luật của chúng ta không thể làm bà đỡ cho xã hội phát triển.

. Xin cảm ơn ông.
THANH LƯU thực hiện