Thứ Ba, 31 tháng 1, 2012

VỤ VIỆC Ở TIÊN LÃNG: BÁO ĐỐI NGOẠI VEN ĐÃ "VÀO CUỘC" TỪ NĂM 2008

Vụ việc ở Tiên Lãng (Hải Phòng): Báo Đối ngoại VEN đã “vào cuộc” từ năm 2008

Posted by basamnews on 31/01/2012

Đôi lời của Ba Sàm: Một bất ngờ khi độc giả phát hiện và cho biết loạt phóng sự từ năm 2008. Không cầm được nước mắt khi thấy tấm hình Đoàn Văn Vươn áo quần xốc xếch đứng bên khu đầm nuôi tôm từ dạo đó.

Nhiều dấu hỏi muốn gửi tới những người cầm quyền từng hoàn toàn dựa vào nông dân để cướp được chính quyền.

Nhưng bữa nay chỉ xin hỏi 3 cơ quan quản lý báo chí (Ban Tuyên giáo, Bộ 4T, Bộ Công an), các vị thường soi xét những bài viết, tờ báo đưa tin “không lợi” cho đảng, nhà nước, cả cá nhân người lãnh đạo, rồi đưa ra hình thức kỷ luật, phạt, bỏ tù.  Thế nhưng có (dám/muốn) phạt những tờ báo to quyền, lắm tiền nhưng chỉ lớn giọng lúc đầu khi người dân phạm luật, còn tới lúc vỡ chuyện hé lộ tội trạng của người trong chính quyền thì im re, thậm chí còn lờ đi cả văn bản chỉ đạo của Thủ tướng? Đó là các báo Nhân dân, Công an nhân dân, Công an TP Hồ Chí Minh, v.v..? Và đặc biệt là  có khen thưởng những nhà báo, tờ báo đã dũng cảm, công phu cảnh báo sớm và vạch trần tội trạng người trong chính quyền từ nhiều năm trước, trong một vụ việc “nhạy cảm” hiếm có kiểu này?

Giá như từ ngày đó các vị được đọc bài này, hoặc đọc mà không bỏ qua, thì (biết đâu) đâu có tấn thảm kịch cho đại gia đình Đoàn Văn Vươn và cả 6 chiến sĩ bộ đội, công an, đâu có cái hậu quả rất có thể mang tới nguy cơ khó tưởng tượng cho chế độ như ngày hôm nay.
Vietnam Economic News (VEN)
__________________________________________

Vụ việc ở Tiên Lãng (Hải Phòng): 

Báo Đối ngoại VEN đã “vào cuộc” từ năm 2008

Cập nhật lúc:  10:10 17/01/2012

(VEN) – Những ngày gần đây, dư luận đặc biệt quan tâm đến vụ việc diễn ra ở huyện Tiên Lãng (Hải Phòng) ngày 5/1/2012. Vụ việc chống lại người thi hành công vụ lực lượng cưỡng chế thuộc khu vực Cống Rộc, xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng diễn ra làm 6 cán bộ, chiến sĩ công an, bộ đội bị thương. 

Đã có nhiều luồng thông tin khác nhau về sự việc nhưng chủ yếu là những thông tin diễn ra sau ngày 5/1 hoặc một số vấn đề ngay trước đó mà chưa có dịp tiếp cận với những gì đã có từ nhiều năm trước – khi Cống Rộc còn là “nỗi kinh hoàng” của người dân Tiên Lãng.
Dẫu vậy, bằng nhiều nguồn khác nhau, bản chất của sự việc dần được nêu ra tường tận.
.
Báo đối ngoại Vietnam Economic News (VEN) (Bộ Công Thương) ngay từ năm 2008, báo đã có loạt bài phóng sự “Cống Rộc – Thách thức không đến từ biển”. Trên cơ sở đơn thư khiếu nại khẩn thiết của người dân, Tòa soạn đã cử phóng viên về “ba chung” tại Cống Rộc và nghiêm túc nghiên cứu hồ sơ, thực hiện chặt chẽ các quy trình trước khi cho đăng trên ấn phẩm Kinh tế Việt Nam, sau đó đăng lại trên trang điện tử http://www.ven.vn – thuộc Báo Đối ngoại Vietnam Economic News.
.
Tổng Biên tập Báo Đối ngoại VEN – cho biết: “Dù đã gần 4 năm, nhưng vẫn nhớ rất rõ vì đã phải xem xét kỹ càng hồ sơ vụ việc tới từng chi tiết trước khi duyệt đăng những bài này”.
.
Đúng ra, loạt phóng sự này ban đầu gồm 6 kỳ. Tuy nhiên, do là tuần báo và theo đề nghị của Ban biên tập nên sau đó tác giả loạt phóng sự này đã rút thành 3 kỳ.
.
Để có tài liệu và hình ảnh cho loạt phóng sự, phóng viên đã phải nhiều lần tới Vinh Quang cùng sống, ăn, ngủ những người dân giữa đầm nuôi tôm (khu vực mới bị cưỡng chế). Trong lần nghỉ lại giữa đầm tôm này, phóng viên đã có lúc phải cùng người dân thức trắng đêm do muỗi và mưa to bất ngờ ập đến. Cũng trong các chuyến công tác, phóng viên không ít lần phải giấu đi những giọt nước mắt khi nghe câu chuyện về quá trình lấn biển của ông Vươn cũng như chứng kiến tận mắt nỗi vất vả, khó khăn của những người dân nơi đây.
.
Thể theo nguyện vọng của đông đảo bạn đọc và nhằm cung cấp thêm thông tin liên quan đến “sự kiện 5/1/2012” ở Hải Phòng, Tòa soạn xin đăng tải lại 3 kỳ “Cống Rộc – Thách thức không đến từ biển” đã xuất bản trên ấn phẩm Kinh tế Việt Nam số 30 (ra ngày 22/7/2008), số 31 (ra ngày 29/7/2008), số 32 (ra ngày 5/8/2008) trên trang tin điện tử http://www.ven.vn./. 
.
Ngày 5/1/2012, khi hơn 100 cảnh sát, bộ đội cưỡng chế, thu hồi đất của gia đình ông Đoàn Văn Vươn, một số người đã gài mìn tự chế trong vườn, cầm súng hoa cải chống lại. Bốn cảnh sát và hai cán bộ huyện đội bị thương. Ngày 10/1, 4 bị can gồm: Đoàn Văn Quý (46 tuổi), Đoàn Văn Vươn (49 tuổi), Đoàn Văn Sịnh (55 tuổi) và Đoàn Văn Vệ (38 tuổi) bị khởi tố, bắt tạm giam về tội giết người. Phạm Thị Báu (tức Hiền, vợ ông Quý) và Nguyễn Thị Thương (vợ ông Vươn) bị khởi tố về tội chống người thi hành công vụ, song được tại ngoại và cho áp dụng biện pháp ngăn chặn là cấm đi khỏi nơi cư trú.
.
Chí Trung
——————–

Cống Rộc – Thách thức không đến từ biển

Cập nhật lúc:  09:40 22/07/2008
(VEN) – Ôm theo gần 2kg đơn thư, tài liệu cầu cứu của những người dân ven biển huyện Tiên Lãng, chúng tôi đến Hải Phòng đúng ngày trời đổ mưa lớn đầu mùa. Vượt qua những quãng đường đất đá dưới cơn mưa tầm tã, cuối cùng chúng tôi cũng đã đến và biết được câu chuyện cảm động của những người “mở đất” và việc một số cá nhân ở huyện Tiên Lãng đang bất chấp quy định của pháp luật và đạo lý, muốn biến hàng trăm ha đất cùng hàng chục tỷ đồng của những người dân nơi đây thành việc của… “biển”.

Kỳ I: Người mang tên Vươn và hàng trăm ha đất ở Tiên Lãng đã “vươn” ra biển như thế nào?
.
Theo tài liệu của UBND huyện Tiên Lãng, thì hơn 100ha đất bồi thuộc khu vực bãi triều ven biển (ngoài đê) thuộc khu vực cống Rộc (xã Vinh Quang, Tiên Lãng) trước đây là nơi “đầu sóng ngọn gió”, mênh mông nước biển, thường xuyên đe dọa đến sự an nguy của những người dân địa phương. Mặc dù ở đây có một con đê chắn sóng quốc gia, nhưng do phía ngoài đê trống trải nên mỗi lần gió Nam mạnh cũng làm đê sạt lở, chưa nói khi mùa bão lũ đến. Người dân nơi này không ít lần chứng kiến cảnh vỡ đê và thường đi sơ tán mỗi khi nghe tin bão về.
.
Ông Mai Công Chính – 82 tuổi, nguyên cán bộ Sở Thuỷ sản Hải Phòng – kể: “Đã bao nhiêu năm gia đình tôi ở đây nên biết rất rõ nỗi cơ cực do sóng biển đe dọa. Trước đây phía Nam cống Rộc này rất đáng sợ. Chỗ nhà tôi từng bị nước biển tràn vào và chịu cảnh ngập lụt không biết bao nhiêu lần”. Còn ông Phạm Văn Danh – 79 tuổi, nguyên Bí thư Đảng uỷ xã Vinh Quang, nguyên Thường vụ huyện uỷ Tiên Lãng – thì cho biết: “Cống Rộc khi trước kinh hãi lắm, nước biển mênh mông. Không ai dám nghĩ có ngày ở đó được yên ổn chứ nói gì đến việc bỏ công sức ra đầu tư để sản xuất đâu”. Ông Danh còn kể: Khi nghe tin anh Vươn tuyên bố nhận làm ở khu cống Rộc, ông Đinh Quang Hiên – người nhiều năm đầu tư khai thác vùng ven biển ở Tiền Hải (Thái Bình) và phía Bắc xã Vinh Quang – thách đố: “Nếu thằng Vươn làm thành công tôi sẽ mất với nó một chiếc xe máy đẹp”. Đó là câu chuyện diễn ra cách nay đã hơn 15 năm.
.
Còn ngày nay, đứng trên đê quốc gia nhìn ra biển, bất cứ ai cũng có thể nhận ra những đầm nuôi trồng thuỷ sản đã được hình thành vững chắc, ổn định với diện tích rộng hàng trăm ha. Ông Chính bảo: “Nhờ có việc đầu tư công sức và hàng chục tỷ đồng của anh Vươn và những hộ dân nên tuyến đê biển này đã thực sự an toàn, người dân trong vùng được yên tâm sinh sống”. Còn để chỉnh trị vùng ven biển này, ông Chính khẳng định: “Quá trình anh Vươn làm ở đây, những con đê bảo vệ cũng vỡ nhiều lần. Có khi đắp sáng, chiều vỡ, đắp tối thì sáng hôm sau vỡ. Việc làm bấy giờ của anh ấy ví như con dã tràng xe cát. Bây giờ không thể nào nói hết công lao của anh ấy”. Ông Danh tiếp lời: “Nhiều người gàn lắm. Tôi cũng ngăn cản. Không ai ngờ là anh ấy làm được đâu. Anh Vươn như đi cải tạo 6-7 năm trời. Cả gia đình anh ấy cũng lao đao, khổ theo. Ngay đứa con gái đầu lòng của anh ấy cũng chết ở ngoài đó”… Những người dân ở Tiên Lãng vẫn kể cho nhau nghe câu chuyện này mỗi khi nhớ về quá trình lấn biển ở vùng cống Rộc. Còn với “người trong cuộc” Đoàn Văn Vươn thì sao?
.
Sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng ở xã Bắc Hưng (Tiên Lãng), định mệnh đã gắn cuộc đời của ông với biển khơi, như chính cái tên “Vươn” cùng bao khát vọng chinh phục biển – điều mà cha ông – một cán bộ đảng lâu năm – mong muốn. Sau khi rời quân ngũ năm 1986, chàng thanh niên Đoàn Văn Vươn trở về địa phương với quyết tâm tìm cách chế ngự thiên nhiên, biến nỗi kinh hoàng của biển khơi thành tiềm năng phục vụ con người.
.
 
Ông Đoàn Văn Vươn bên đầm nuôi trồng thuỷ sản ở Vinh Quang (Tiên Lãng)

Đã không ít người hồ nghi và coi việc làm của Vươn khi ấy chỉ là sự ngông cuồng của tuổi trẻ. Ông Vươn kể: “Sau khi nghiên cứu địa hình, tôi cho rằng nếu làm được, thì khu vực ấy (cống Rộc) không những sẽ mang lại hiệu quả kinh tế mà còn có ý nghĩa xã hội lớn. Do đó, tôi đã lập luận chứng kinh tế kỹ thuật và huy động mọi nguồn lực để tiến hành cắt dòng chảy, từng bước khoanh vùng đắp đập ngăn nước”.
.
Hơn nửa năm trời, người ta chứng kiến hơn 750 nhân công cùng 13 tàu, xe cơ giới ngày đêm vật lộn với sóng biển ở cống Rộc. Ước tính đã có trên 23.000m3 đất đá được chuyển từ Thuỷ Nguyên (Hải Phòng) và trong vùng đổ xuống biển. Từ năm 1994-1998 hàng ngàn cây giống đã được ông bỏ công sức chuyển từ đất liền ra trồng, nhưng tất cả đều bị sóng biển cuốn trôi. Không nản chí, ông tiếp tục nghiên cứu và từng bước kiên trì để tạo nên hàng rào chắn sóng bằng hàng chục tấn đất đá, cùng khoảng 140 tấn xi măng để xây kè và hàng nghìn cây bần, vẹt. Để rồi, máu cùng nước mắt có ngày được đền công: dòng chảy phía ngoài cống Rộc chuyển hướng, chân đê từ chỗ sâu 1,65m (cốt âm) được nâng lên cốt dương và hàng chục ha đất bồi cùng 60ha rừng vẹt ngăn sóng hình thành. Thành công từ việc trồng rừng chắn sóng của ông Vươn còn được các chuyên gia Nhật Bản đến tìm hiểu, nghiên cứu.
.
Nam cống Rộc được chế ngự đã giúp cho hàng trăm ha đất ven biển ở Tiên Lãng được bồi đắp mạnh hơn, tuyến đê biển được đẩy lùi vào hàng chục nghìn mét và trở nên vững chãi. Cảm khái trước tâm huyết và công sức của con người dũng cảm dám đối đầu với thiên nhiên, tết năm 1994, người con cao tuổi nhất bấy giờ của làng Chùa (Vinh Quang) đã đem pháo ra cống Rộc đốt và nói: “Việc làm của anh Vươn đã làm thay đổi cuộc sống của người dân Vinh Quang. Con cháu chúng tôi sẽ phải ghi nhớ công ơn này. Và nếu được, tôi đề nghị phải đắp tượng anh Vươn”.
.
Tuy nhiên, để biến ước mơ thành hiện thực, ông Vươn đã phải chấp nhận chuyển cả gia đình đến sống chung với bão lũ; và để có vốn, ông đã phải bán những tài sản có giá trị của gia đình, vay lãi ngân hàng, huy động người thân vào công việc lấn biển và việc ông mất đi cô con gái đầu lòng cho biển cống Rộc.
Sự nỗ lực góp phần chỉnh trị dòng chảy, giữ an toàn cho tuyến đê biển và tạo nên những đầm nuôi trồng thuỷ sản như hiện nay của ông Vươn là cả một quãng thời gian dài với bao công sức, tiền của. Những ngày đầu năm 2008, ông vẫn tiếp tục đầu tư hơn 100 triệu đồng để kè đá cho đầm tôm. Cùng với ông Vươn, ở Tiên Lãng hiện còn nhiều hộ gia đình đang sử dụng đất bồi ven biển để nuôi trồng thuỷ sản, trong đó có không ít những người như ông Vươn. Điều muốn nói ở đây là họ đã và đang đối mặt với những thách thức mới, không những từ biển mà còn từ những việc làm không tuân thủ pháp luật, thiếu tình người của một số người có trách nhiệm ở Tiên Lãng./.
.
Đón đọc kỳ II: Những việc làm ngẫu hứng khiến lòng người nổi sóng
.
Chí Trung
——————- 
Cống Rộc đang “độc” vì ai?
Cập nhật lúc:  09:46 29/07/2008
VEN) – Là người có công trong việc mở mang diện tích đất bồi ven biển và có luận chứng kinh tế, hồ sơ về thuỷ lợi, nên ngày 4/10/1993, UBND huyện Tiên Lãng đã có Quyết định số 447/QĐ-UB giao 21ha bãi bồi ven biển thuộc xã Vinh Quang (cống Rộc) cho ông Đoàn Văn Vươn sử dụng vào mục đích nuôi trồng và khai thác thuỷ sản.
Kỳ II: Cống Rộc – Thách thức không đến từ biển.
.
Ngày 1/12/2007, ông Vươn nhận được Thông báo số 225/TB-UBND của UBND huyện Tiên Lãng về việc dừng đầu tư vùng nuôi trồng thuỷ sản với lý do thời hạn giao đất ghi 14 năm đã hết. Tiếp đó, ngày 23/4/2008 UBND huyện Tiên Lãng lại có Quyết định số 460/QĐ-UB về việc thu hồi và yêu cầu phải bàn giao lại toàn bộ 21ha đất đang sử dụng cùng các công trình có trên đất cho xã Vinh Quang quản lý trong thời gian… 15 ngày.
.
Điều đáng nói là, theo đề án và luận chứng kinh tế kỹ thuật mà ông Vươn cung cấp thì thời gian ông đăng ký nhận đầu tư 21ha đất bồi là 30 năm. Đặc biệt, theo quy định của pháp luật thì, đối với loại đất bãi triều ven biển và đất mặt nước ven biển (ngoài đê) là đối tượng được khuyến khích đầu tư sử dụng và được Nhà nước hỗ trợ. Nội dung này được thể hiện khá rõ trong Luật Đất đai, Quyết định số 327-CT, ngày 15/9/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ), Nghị định 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ, Thông tư số 01/2005/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường và tại Quyết định số 567/QĐ-UB, ngày 22/4/1992 của UBND TP. Hải Phòng. Cụ thể, tại khoản 1, Điều 67 Luật Đất đai năm 2003 ghi “Thời hạn giao đất, cho thuê đất được tính từ ngày giao đất, cho thuê đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; trường hợp đất được Nhà nước giao, cho thuê trước ngày 15/10/1993 thì thời hạn giao đất, cho thuê đất được tính từ ngày 15/10/1993”. Tại điểm 3, mục I, Thông tư số 01/2005/TT-BTNMT, ngày 13/4/2005 của Bộ Tài nguyên – Môi trường cũng đã hướng dẫn cụ thể về điều này.
.
Chưa cần dẫn chiếu các văn bản khác cũng có thể thấy Quyết định 460/QĐ-UB, ngày 23/4/2008 của UBND huyện Tiên Lãng là trái với tinh thần của pháp luật hiện hành về thời hạn giao đất. Chưa hết, tại Điều II quyết định này, UBND huyện Tiên Lãng còn giao Phòng Tài nguyên và Môi trường và UBND xã Vinh Quang làm thủ tục thu hồi đất cùng toàn bộ công trình có trên đất, mà không bồi thường gì (!). Điều này là không đúng với quy định. Bởi, tại Điều 9 Quyết định số 327-CT ghi “Đối với các dự án sử dụng bãi bồi, đất trống ven biển, mặt nước nuôi trồng thuỷ sản có quy mô khoảng 700ha, ngang mức dân một xã, mỗi hộ gia đình được giao một số đất để nuôi tôm, cua, rau câu và 700m2 đất để làm vườn. Nhà nước đầu tư hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng theo nguyên tắc hoàn vốn bằng khấu hao. Việc xây dựng công trình nội đồng, nuôi trồng thuỷ sản do hộ gia đình đầu tư bằng vốn tự có hoặc vay vốn ngân hàng. Các bãi bồi, mặt nước nhỏ dưới 700ha do địa phương đầu tư hoặc giao cho các hộ tự làm”. Căn cứ vào nội dung của quyết định này thì gia đình ông Vươn thuộc diện được ưu tiên, tạo điều kiện để quản lý, sử dụng và còn được Nhà nước hỗ trợ trong quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng đối với diện tích đất trên.

Đơn thư, tài liệu do người dân cung cấp
.
Trong khi “Nhà nước khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp, công ty cổ phần, công ty và các hộ tư nhân, kể cả liên doanh giữa công ty hoặc tư nhân với nước ngoài đầu tư vào việc trồng trọt, chăn nuôi ở vùng đất mới” (Điều 11, Mục B Quyết định 327-CT) và tại khoản 3, Điều 67 Luật Đất đai quy định “Khi hết thời hạn, người sử dụng đất được Nhà nước xem xét gia hạn sử dụng đất nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng…”, nhưng UBND huyện Tiên Lãng lại không xem xét tới những điều này của Luật Đất đai và Quyết định 327-CT. Qua tìm hiểu, được biết, kể từ khi được giao đất vào năm 1993 đến nay, gia đình ông Vươn luôn chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về quản lý và sử dụng đất. Thậm chí, ông còn bỏ khá nhiều công sức, tiền của để củng cố đê kè, góp phần tích cực cải tạo vùng đất bồi hiệu quả và giữ yên cho cả vùng. Mặt khác, ông Vươn còn được tín nhiệm bầu làm Chủ tịch Liên chi hội Nuôi trồng thuỷ sản nước lợ huyện Tiên Lãng từ năm 1993 đến nay và ông đã có nhiều đơn xin được tiếp tục giao 21ha trên để sản xuất, nhưng không được giải quyết. Vậy nguyên nhân và động cơ nào khiến UBND huyện Tiên Lãng ban hành Quyết định 460/QĐ-UB?
.
Trước quyết định “ngẫu hứng” này, ông Vươn tiếp tục khiếu nại, nhưng tất cả vẫn bị rơi vào quên lãng. Ông Vươn phẫn uất: “Tôi đã bỏ bao tâm huyết, tiền bạc vào đây, chấp nhận để cả gia đình cơ cực để lo làm ăn, góp phần giữ đất, giữ quê. Thậm chí, con gái tôi cũng chết vì khu cống Rộc này, vậy mà… Nhưng ở đây còn nhiều người khác cũng đang khổ sở, như ông Luân, ông Trong, ông Tin, ông Đọc, ông Tiêu….”. Còn những người dân ở Vinh Quang thì lại bất bình và bức xúc cho ông. Đối với nguyên Uỷ viên thường vụ Huyện uỷ Tiên Lãng Phạm Văn Danh thì: “Khi anh Vươn trình dự án lên UBND huyện năm 1993, huyện cho rằng hão huyền. Vậy mà làm được, góp phần làm bồi nhanh cho cả khu vực”. Ông Danh bức xúc tuyên bố: “Nếu theo quyết định của Chủ tịch huyện (Quyết định 460/QĐ-UB) là cướp trắng của người ta”.
.
Sự phẫn nộ về những quyết định và việc làm kỳ quặc được phát ra từ UBND huyện Tiên Lãng sẽ còn được đề cập trong bài viết tiếp sau. Ở đây chỉ nói lên một thực tế là niềm tin của người dân nơi đây đối với chính quyền địa phương đang bị phai nhạt dần vì một số vụ việc va chạm giữa dân và các cơ quan chính quyền địa phương đã diễn ra từ nhiều năm nay. Trong thời gian có mặt ở Hải Phòng, chúng tôi đã tận mắt chứng kiến nỗi bức xúc và tiếp nhận một khối lượng lớn đơn thư, tài liệu do người dân cung cấp xung quanh những quyết định liên quan đến vấn đề đất đai do UBND huyện Tiên Lãng ban hành./.
.
Kỳ cuối: Hàng trăm hécta đất cùng nhiều tỷ đồng của dân có phải là việc của… biển?
.
Liêu Chí Trung

———- 
Cống Rộc – Thách thức không đến từ biển
Cập nhật lúc:  10:00 05/08/2008
(VEN) – Như đã đề cập, cùng với gia đình ông Vươn, chúng tôi còn nhận được đơn thư và phán ánh của hơn 20 hộ gia đình nuôi trồng thủy sản ở huyện Tiên Lãng.

Kỳ cuối: Hàng trăm hécta đất cùng nhiều tỷ đồng của dân có phải là việc của… biển? 

 
Lá đơn tập thể của hơn 20 hộ gia đình ở xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng.


Trong lá đơn dài 11 trang của ông Vũ Văn Luân (xóm 9, xã Hùng Thắng, Tiên Lãng) gửi các cơ quan chức năng, có đoạn viết: “Căn cứ vào Quyết định số 471 ngày 2/8/1999 và căn cứ vào Quyết định giao đất số 415 ngày 10/3/2000, chúng tôi khẳng định UBND huyện Tiên Lãng giao đất trái pháp luật”. Cùng với việc phân tích về những việc làm “chẳng giống ai” của chính quyền địa phương, ông Luân cho biết, gia đình ông đã làm nhiều đơn thư và được các cơ quan có trách nhiệm ở trung ương yêu cầu UBND huyện Tiên Lãng giải quyết dứt điểm vụ việc theo đúng pháp luật, nhưng đã hơn 2 năm vẫn không có hồi âm. Chung cảnh ngộ với hộ ông Vươn, ông Luân, còn có gia đình các ông Lương Văn Trong, Hoàng Văn Tin, Nguyễn Văn Tiêu, Nguyễn Thế Đọc… cũng đang chịu nỗi cơ cực vì “bão tố” không đến từ biển. Xin lưu ý, từ tháng 1/1992 đến trước ngày 15/10/1993 – trước khi Luật Đất đai năm 1993 có hiệu lực – UBND huyện Tiên Lãng đã làm thủ tục giao đất nuôi trồng thủy sản cho 18 hộ với tổng diện tích trên 370ha.
.
Ngày 2/6/2008, chúng tôi tìm đến UBND huyện Tiên Lãng để tìm câu trả lời của những người có trách nhiệm. Trước những bức xúc của các hộ gia đình đang nuôi trồng thủy sản ở xã Vinh Quang, ông Ngô Văn Khánh – Chánh văn phòng UBND huyện Tiên Lãng – khẳng định “Những đầm đến bây giờ hết hạn, chúng tôi sẽ thu hồi để giao cho địa phương, cho xã quản lý, để đỡ gây nên phức tạp. Hơn nữa, quản lý của huyện thực tế cũng không thường xuyên, trực tiếp”. Giải thích về việc tại sao huyện lại không giao cho hộ ông Vươn và những hộ khác thời gian 20 năm như quy định của pháp luật mà chỉ là 12 đến 15 năm, ông Khánh trả lời bằng cách… chuyển đề tài, rồi lấy lý do bận việc và giới thiệu chúng tôi đến gặp lãnh đạo Phòng Tài nguyên và Môi trường, vì “đó là nơi trực tiếp quản lý tài liệu, giấy tờ”.
.
Vẫn với những thắc mắc trên, chúng tôi nhận được giải thích từ Phó phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Tiên Lãng – Phạm Văn Trống: “Trong quyết định có ghi thời hạn giao đất, nên khi hết thời hạn thì Nhà nước thu hồi theo Điều 38, Điều 45 của Luật Đất đai”. Nhưng khi đối chiếu với Luật Đất đai và các văn bản pháp luật khác, chúng tôi không tìm thấy quy định nào phù hợp hoặc liên quan đối với trường hợp này. Khi được hỏi: “Vì sao các hộ gia đình ông Vươn, ông Trong, ông Tin…, dù chấp hành tốt các quy định, được giao đất trước ngày 15/10/1993 và đã có đơn xin tiếp tục được giao đất nhiều lần lại không được chấp nhận. Trong khi, tại Báo cáo số 68/BC-UBND ngày 25/12/2006 (sau khi có Kế hoạch 58/KH-UB) lại có 18 hộ ở Vinh Quang được huyện giao mới 67,45ha đất với thời hạn… 20 năm?”. Ông Trống “giải thích” rằng: “Đối với 18 hộ ở Vinh Quang, anh em tôi có ra quyết định giao, cho thuê đất. Đến thời điểm này quyết định vẫn chưa thực hiện và anh em tôi cũng đang báo cáo để xem xét lại việc giao đất năm 2005”.
.
Xin nói thêm, một trong những “căn cứ” để thu hồi đất của các hộ nói trên là Kế hoạch số 58/KH-UB, được UBND huyện này ban hành vào ngày 1/12/2004. Chưa nhắc tới nội dung, ngay từ khi ra đời văn bản này đã có vấn đề. Theo quy định tại khoản 3, Điều 26 Luật Đất đai năm 2003 thì “UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của đơn vị hành chính cấp dưới trực tiếp”. Tuy nhiên, Kế hoạch 58/KH-UB của UBND huyện Tiên Lãng lại không được gửi cho UBND TP. Hải Phòng, nhưng vẫn được dùng làm cơ sở để ban hành hàng loạt các quyết định quy hoạch, giao và thu hồi đất (!). Chưa hết, trong phần thu hồi đất, Kế hoạch 58 ghi “Không được đền bù tiền đất và công trình xây dựng đã đầu tư trên diện tích thu hồi”. Điều này có nghĩa, những hộ gia đình được giao đất trước ngày 15/10/1993 ở Vinh Quang sẽ bị thu hồi mà không được bồi thường. Như vậy là trái với quy định của Điều 41, Điều 42 Luật Đất đai.
.
Về quyết định thu hồi đối với diện tích đất giao cho các hộ (từ 12 đến 15 năm) trước ngày 15/10/1993, trái với quy định tại Điều 67, Luật Đất đai và các văn bản pháp luật, ông Trống cho rằng “tùy từng địa phương, người ta giao cho bao nhiêu, quyết định thời hạn là bao nhiêu, mà không cứ phải 20 năm”.
.
Chưa kể, theo “quan điểm” mà “Kế hoạch 58” đưa ra thì huyện Tiên Lãng chủ trương sẽ xé nhỏ hàng trăm ha đất mà các hộ gia đình đang được giao sử dụng ổn định để cho đấu thầu theo các lô, có diện tích từ 1-5ha/lô. Nghe qua, tưởng hay, nhưng điều này là vô cùng nguy hiểm. Bởi, diện tích đất trên không giống như nền trụ sở UBND huyện Tiên Lãng, mà là đất bồi ven biển – mới được hình thành hơn 10 năm gần đây, nền đất còn nhiều biến động. Càng phi thực tế hơn khi những nền đất này để hình thành nên những đầm nuôi trồng thủy sản ven biển – vốn cần quy hoạch chắc chắn, có thời gian đầu tư lâu dài ổn định. Điều này còn mâu thuẫn với mong muốn “hình thành một vùng nuôi trồng thủy sản bền vững, hiệu quả theo hướng công nghiệp” như các văn bản mà chính quyền huyện Tiên Lãng dùng để báo cáo với cấp trên và làm cơ sở để quy hoạch phát triển.
.
Cũng cần nói thêm, thời gian qua UBND huyện Tiên Lãng đã giao hàng trăm ha đất cho Công ty Việt Mỹ và hàng chục ha cho Tổng đội thanh niên xung phong với thời hạn từ 27 đến 40 năm, cùng với mục đích nuôi trồng thủy sản, nhưng vẫn chưa sử dụng có hiệu quả. Trong khi đó, các hộ gia đình như ông Vươn, ông Luân, ông Tin, ông Đọc… không những đã có công trong việc đầu tư, khai khẩn, đang làm ăn ổn định và mong muốn được tiếp tục nhận giao đất để sản xuất theo đúng quy định của pháp luật thì lại bị từ chối theo cái “lý” của UBND huyện Tiên Lãng (?!)
.
Xin chuyển những vấn đề này tới các cơ quan có thẩm quyền với mong muốn những băn khoăn của người dân sẽ sớm được làm rõ./.
.
Chí Trung
.
Nguồn: Ba Sàm.

HOÀNG XUÂN PHÚ: NHÂN VỤ TIÊN LÃNG, BÀN VỀ CÔNG VỤ

Nhân vụ Tiên Lãng bàn về công vụ
Hoàng Xuân Phú

Tiếng nổ ở Tiên Lãng ngày 5/1/2012 đã làm chấn động bốn phương, quá đủ để thức tỉnh những ai còn có thể thức tỉnh. Nó buộc những người có lương tri phải suy nghĩ, để trả lời câu hỏi: Vì sao lại có kết cục bi thảm như vậy? Sẽ còn bi thảm hơn nếu những người cầm quyền không rút ra bài học hợp lý để xử lý đúng vụ này.

Một số người đòi nghiêm khắc xử lý ông Đoàn Văn Vươn và những người liên quan về tội chống người thi hành công vụ. Nhiều người tin rằng gia đình ông Vươn là nạn nhân của cường hào ác bá thời nay, nhưng cũng nghĩ là họ không thể tránh khỏi bị trừng phạt vì đã chống người thi hành công vụ. Ngày 10/1/2012 Viện Kiểm sát Nhân dân Thành phố Hải Phòng đã phê chuẩn quyết định của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hải Phòng, khởi tố bị can đối với ông Đoàn Văn Vươn và 3 người thân về tội giết người, đồng thời khởi tố vợ và em dâu ông Vươn về tội chống người thi hành công vụ

Hai tiếng "công vụ" cứ lặp lại, vang lên như tiếng chuông dồn dập trong buổi chiều tà, khi cái ác hoành hành, nhân danh công vụ để ức hiếp dân lành, khiến tâm hồn bất an, lương tri bứt rứt. Vì vậy tôi phải gạt bao việc cần kíp sang một bên để viết bài này.

Công vụ hay mạo danh công vụ?
Công vụ là gì? Bách khoa toàn thư mở Wikipedia viết rằng:
"Công vụ là một hoạt động do công chức nhân danh nhà nước thực hiện theo quy định của pháp luật và được pháp luật bảo vệ nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân và xã hội." 

Nội dung này cũng phù hợp với cách giải nghĩa trong Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam.
Rõ ràng, công vụ phải là việc công, do công chức nhân danh nhà nước thực hiện. Nếu lợi dụng chức quyền để triển khai những việc nhằm trục lợi cho bản thân, không nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân và xã hội, thì không thể ngụy biện là công vụ. Những kẻ nhân danh chính quyền để chiếm đất của dân rồi giao cho người khác để kiếm chác những khoản tiền tham nhũng, thì không còn đủ tư cách xưng danh công chức để ra lệnh hay thi hành công vụ.

Công vụ phải có lý do rõ ràng và minh bạch. Lấy đất của dân, lúc thì bảo là do hết hạn thuê, lúc thì viện cớ xây dựng sân bay, lúc lại ngụy biện là để đảm bảo công bằng. Mỗi lúc tung ra một lý do khác nhau, để che dấu cái mục đích xấu xa, thì chỉ thể hiện thói dối trá đã ăn sâu vào xương tủy, đã di căn từ đầu đến chân, chứ không thể biện hộ được lý do công vụ.

Công vụ thì phải chính danh, phải có những người đủ thẩm quyền ra lệnh, thi hành và chịu trách nhiệm. Phá nhà của dân, rồi trơ trẽn vu khống cho nhân dân bức xúc nên phá, thì không thể gọi là chính danh. Việc cho công chức giả danh dân thường hoặc huy động thành phần bất hảo để giải tán biểu tình, ngăn cản khiếu kiện hay đàn áp ai đó là không chính danh. Việc dùng một thông báo không ai dám ký làm bình phong để đàn áp người biểu tình yêu nước là không chính danh. Công an mặc thường phục để rình bắt những người vi phạm quy tắc giao thông cũng không chính danh. Đang lái xe trên đường, thấy người mặc thường phục rượt đuổi, thì lấy gì để đảm bảo rằng đấy không phải là cướp? Ngay cả trong trang phục công an còn khó phân biệt được kẻ xấu, người ngay, huống chi là mặc thường phục. Vậy mà lại bắn vào đùi người đi đường chỉ vì không chịu dừng xe (theo đòi hỏi của công an giả dân), thật là ngang ngược hết mức. 

Thi hành công vụ thì phải thực hiện đúng mục tiêu. Quyết định thu hồi đất một nơi, lực lượng cưỡng chế lại tiến vào hành sự trên một mảnh đất khác, hoàn toàn không nằm trong khu vực bị thu hồi, và đập phá nhà dân trên diện tích ấy. Đó là xâm phạm và phá hoại tài sản hợp pháp của công dân. Không chỉ phá hoại, một khi người tham gia cưỡng chế đã vơ vét đồ đạc, Xã đội phó cuỗm cả cái ổn áp, thì phải gọi là cướp bóc. Chẳng nhẽ công vụ là vậy sao? Nếu người nhà ông Vươn đuổi theo vị Xã đội phó và giật lại cái ổn áp, thì sẽ bị buộc cho tội chống người thi hành công vụ chăng?

Điều tiên quyết là công vụ chỉ được thực hiện theo quy định của pháp luật. Về vụ Tiên Lãng, đã có rất nhiều bài viết chỉ ra việc chính quyền địa phương quyết định thu hồi đất và tiến hành cưỡng chế đối với gia đình ông  Đoàn Văn Vươn trái pháp luật. Đặc biệt, Nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã đánh giá: 

"Tôi đang theo dõi sát vụ việc này nên có thể khẳng định chính quyền sai từ xã đến huyện. Điểm sai đầu tiên là để sự việc kéo dài quá nhiều năm mà không xử lý đến nơi đến chốn và thấu tình đạt lý. Người làm được, làm tốt đáng lẽ phải động viên, tạo điều kiện nhưng lại cố thu hồi của người ta, đó là cái sai thứ hai. Việc thu hồi còn trái pháp luật là cái sai thứ ba. Cái sai thứ tư là chính quyền cố tình vi phạm luật pháp, dồn người dân vào chân tường, làm họ uất ức đến mức phải chống lại."

Thiết tưởng không cần phải bổ sung thêm gì nữa. Một hoạt động, cho dù của ai, cho dù ở cấp nào, mà vi phạm pháp luật, thì tự nó đã tước bỏ chính danh của công vụ.

Vụ cưỡng chế ở Tiên Lãng vi phạm tất cả những tiêu chí kể trên, nên không thể xem là một công vụ theo nghĩa tử tế. Nó đẩy chính quyền đứng trước hai lựa chọn. Nếu coi nó là một công vụ thì sẽ phải trả lời cho nhân dân câu hỏi: Tại sao chính quyền này lại có loại công vụ tệ hại, ức hiếp người dân như vậy? Nếu không coi nó là một công vụ thì cũng không thể buộc cho ông Đoàn Văn Vươn và người thân vào tội chống người thi hành công vụ, mà phải nghiêm trị những kẻ mạo danh công vụ để trục lợi, hại dân và bôi nhọ công vụ.

Thi hành công vụ hay tòng phạm việc xấu?
Bình thường, đã là công chức thì phải thực hiện nhiệm vụ được lãnh đạo phân công. Là công an, bộ đội thì lại càng phải tuân theo mệnh lệnh của chỉ huy. Kỷ luật ấy là điều kiện cần thiết để một chính quyền có thể vận hành trôi chảy. 

Nếu có thể yên tâm rằng mọi nhiệm vụ đều hợp lý, mọi mệnh lệnh đều đúng đắn, thì người thi hành chỉ còn phải lo hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhưng lấy đâu ra cái yên tâm ấy giữa thời buổi tham nhũng tràn lan, trở thành quốc nạn, việc lớn việc nhỏ bị chi phối bởi các nhóm lợi ích? Khi môi trường bị ô nhiễm trầm trọng thì không thể ngây ngô tin rằng mọi giọt nước từ trên trời rơi xuống đều trong sạch; ngược lại, phải ý thức rằng nước trời có thể chứa đầy độc tố. Khi trên đầu có cả "một bầy sâu" (theo cách nói của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang) thì công chức có thể phải tiếp nhận cả những nhiệm vụ xấu xa, những mệnh lệnh sai trái.

Với những người a dua, mong được theo đóm ăn tàn, hay những kẻ chờ dịp để thỏa máu côn đồ, vốn dĩ bị kìm nén bởi địa vị công tác, như kẻ đã đạp vào mặt người biểu tình yêu nước, thì chẳng có gì khiến họ phải lăn tăn. Nhưng với những công chức mẫn cán, những sĩ quan và chiến sĩ một mực trung thành, thì hoàn cảnh trớ trêu ấy đẩy họ rơi vào tình thế khó xử. Không tuân lệnh thì vi phạm kỷ luật và băn khoăn về trách nhiệm. Mà tuân lệnh thì lại bứt rứt lương tâm, nhất là khi phải tham gia làm hại người lành. Cuối cùng thì quyền lợi bản thân thường là trọng lượng quyết định làm lệch cán cân do dự. Liều thuốc an thần hay được dùng để tự an ủi là mình chỉ làm theo phận sự, buộc phải tuân lệnh, và nếu sai thì người ra lệnh phải chịu trách nhiệm chứ không phải người thi hành… 

Tiếc rằng liều thuốc ấy không đủ để gột bỏ trách nhiệm của những người tham gia vào những việc sai trái. Khi người ta sai anh làm một việc xấu xa, ví dụ như việc dùng vòi cứu hỏa phun nước thải vào người dân để giải tỏa chợ, mà anh vẫn làm, thì anh sẽ bị nhân dân nguyền rủa và gia đình anh sẽ không biết trốn đi đâu để thoát khỏi nỗi nhục nhã.

Trong hoàn cảnh ô nhiễm, cần tỉnh táo suy xét, xem cái việc mình phải thực hiện có thể coi là công vụ chân chính hay không? Việc đó xuất phát từ lý do gì? Phục vụ ai và có hại cho ai? Điều đó có chính đáng hay không? Người thi hành công vụ trước hết phải là Người, tức là phải biết tư duy, biết phân biệt phải trái... Không thể hành động một cách mù quáng, với tư duy nô lệ, theo kiểu lính đánh thuê, rằng ai trả tiền cho tôi thì tôi tuân lệnh người đó. Nếu biết rõ là việc xấu mà vẫn làm thì là tòng phạm, không thể ngụy biện là thi hành công vụ.

Điều quan trọng là phải xét xem nhiệm vụ được giao có hợp pháp hay không. Khi phát hiện ra nhiệm vụ phải thực hiện hay mệnh lệnh phải tuân theo vi phạm Hiến pháp, pháp luật, thì mọi công dân có quyền không chấp hành và có trách nhiệm đấu tranh chống lại vi phạm ấy, theo đúng quy định trong Điều 12 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992:
"Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật."

Rõ ràng, nếu có quy định buộc một loại công dân nào đó (kể cả công chức, sĩ quan và chiến sĩ trong lực lượng công an hay quân đội) phải chấp hành cả những mệnh lệnh tiến hành công vụ vi phạm Hiến pháp, pháp luật, thì quy định ấy vi phạm Điều 12 của Hiến pháp hiện hành, và hiển nhiên nó phải bị hủy bỏ.

Tiếc rằng, có cả cán bộ, chiến sĩ quân đội tham gia cưỡng chế gia đình ông Đoàn Văn Vươn, trong khi Hiến pháp năm 1992 xác định nhiệm vụ của quân đội là bảo vệ Tổ quốc, chống ngoại xâm (Điều 46) và nhiệm vụ của công an mới là bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội… (Điều 47). Tức là các cán bộ, chiến sĩ ấy đã vượt khỏi khuôn khổ hoạt động của quân đội được quy định trong Hiến pháp hiện hành. Đây là một vi phạm Hiến pháp nghiêm trọng, mang tính nguyên tắc. Không thể biện hộ là do thiếu hiểu biết, vì đó là kiến thức pháp luật tối thiểu và Luật số 16/1999/QH10 về sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam đã quy định là sĩ quan phải có trình độ về pháp luật (Điều 12). Một khi tham gia vào chuyện không được Hiến pháp cho phép thì không thể quan niệm là các sĩ quan và chiến sĩ quân đội đã thi hành công vụ, và nếu quả thật cuộc cưỡng chế gia đình ông Vươn là sai trái thì họ đã trở thành tòng phạm trong một vụ việc xấu. Khi đó, nếu có bị thương thì cũng nên ráng chịu, thay vì oán trách những người bị dồn vào bước đường cùng. 

Kể cả trong trường hợp có vẻ như không vi phạm pháp luật hiện hành thì người công chức cũng nên thận trọng xem xét khía cạnh đạo lý của nhiệm vụ được giao. Đừng ỷ vào hai chữ "công vụ" và vị thế "thi hành mệnh lệnh" mà cho rằng chúng đủ để bảo vệ mình vĩnh viễn. Biết bao sĩ quan và binh sĩ của chế độ cũ đã bị giam vào trại cải tạo nhiều năm, mặc dù họ có thể biện minh rằng họ chỉ thi hành mệnh lệnh theo đúng nghĩa vụ của người lính và hành động của họ phù hợp với pháp luật của chế độ cũ.

Càng trung thành với chế độ thì càng phải ý thức rằng: Trong số những mệnh lệnh, nhiệm vụ mà mình tiếp nhận, có thể có những cái mà hệ quả của chúng là bôi nhọ và phá chế độ. Vụ cưỡng chế gia đình ông Đoàn Văn Vươn là một trong rất nhiều trường hợp như vậy. Trung tướng Nguyễn Quốc Thước nhận định rằng:
"… rõ ràng vụ việc Tiên Lãng là một tổn thất chính trị lớn cho uy tín của các cấp ủy và chính quyền Hải Phòng và ảnh hưởng xấu đến cả nước."

Cho nên, nếu cứ mù quáng chấp hành mọi mệnh lệnh sai trái thì sẽ có tội với chính chế độ mà mình đang phụng sự.

Phán xét cuối cùng không phải lời vàng ý ngọc của lãnh đạo, cũng không phải là phán xử của tòa án, mà thuộc về nhân dân, thuộc về lịch sử. Nếu tham gia vào chuyện bất nghĩa, thất đức, thì vỏ bọc công vụ sẽ không đủ để che chở trước sự lên án của nhân dân và sự phán xét của lịch sử.

Tội chống người thi hành công vụ
Chế độ nào cũng có trách nhiệm bảo vệ người thi hành công vụ. Chế độ này cũng rất tích cực trong việc ấy, thậm chí là trên cả mức hợp lý. Khi có va chạm, xung đột, thì tội của những người thuộc bộ máy chính quyền hay được nương nhẹ, thậm chí được bao che, còn tội của dân thường thì bị nghiêm trị, nhiều khi nghiêm hơn cả mức cần thiết. Kiểu cư xử không công bằng, quá nuông chiều người của chính quyền, đồng thời coi nhẹ dân thường, khiến nhiều công chức, công an ngày càng trở nên quá trớn, hay lợi dụng lý do công vụ để làm chuyện bất minh. Bức xúc dồn nén, dẫn đến hành động chống người thi hành công vụ ngày càng gia tăng, đó cũng là quy luật.

Khi công vụ được thi hành một cách đúng đắn thì người chống lại cần bị trừng phạt. Nhưng khi công vụ được thực hiện không đúng với quy định của pháp luật thì không thể đòi hỏi người dân phải im lặng chấp thuận, và không thể đơn giản kết tội chống đối nếu người dân có phản ứng tự vệ.

Bộ luật hình sự của nước Đức được ban hành vào năm 1871, với tội chống người thi hành công vụ được quy định ở Điều 113, trong đó viết rõ điều kiện áp dụng là công vụ được thực hiện đúng pháp luật (rechtmäßige Ausübung). Tức là không thể mặc nhiên kết tội này cho người chống lại nếu công vụ được thực hiện sai pháp luật. Điều kiện "thực hiện đúng pháp luật" được duy trì trong Điều 113 suốt 98 năm, "sống sót" qua 4 lần chỉnh sửa Bộ luật hình sự, kể cả lần chỉnh sửa vào năm 1943 dưới thời phát xít. Đó là một yếu tố pháp lý quan trọng để bảo vệ người dân trước khả năng lạm dụng quyền lực của bộ máy công quyền. Chưa yên tâm với điều kiện đó, năm 1970 các nhà lập pháp Cộng hòa Liên bang Đức đã thay nó bằng một điều khoản rõ ràng hơn, có tác dụng bảo vệ người dân triệt để hơn, đó là:
"Hành động (chống người thi hành công vụ) không thể bị xử phạt theo quy định này (tức là quy định trong Điều 113) nếu việc thực hiện công vụ không đúng pháp luật."
Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua năm 1985 (trong đó tội chống người thi hành công vụ được quy định ở Điều 205) và được sửa đổi, bổ sung 4 lần trong các năm 1989, 1991, 19921997. Năm 1999 Quốc hội thông qua Bộ luật hình sự mới (trong đó tội chống người thi hành công vụ được quy định ở Điều 257) và nó đã được sửa đổi, bổ sung vào năm 2009. Trong cả hai lần ban hành và qua 5 lần chỉnh sửa Bộ luật hình sự, điều về tội chống người thi hành công vụ chỉ quy định một chiều về việc xử phạt đối với những người chống người thi hành công vụ, mà không nhắc đến điều kiện công vụ phải được "thực hiện đúng pháp luật", lại càng không có khoản nào để bảo vệ dân oan, buộc phải tự vệ trước hành động vi phạm pháp luật của người mang danh thi hành công vụ. Xét về phương diện này thì B lut hình s hin hành ca Vit Nam không bằng B lut hình s ca Đc ra đi cách đây 141 năm, chỉ 4 tháng sau khi Đế chế Đc (Deutsches Kaiserreich, 1871-1918) được thành lập.

Khiếm khuyết này của Bộ luật hình sự khiến các "con trời" càng dễ ngộ nhận và tùy tiện chụp lên đầu người dân tội chống người thi hành công vụ. Bị công an đánh mà giơ tay che chắn theo phản xạ tự nhiên cũng có thể bị ghép cho tội ấy. Một số công an không mặc quân phục, không xuất trình giấy tờ chứng minh tư cách công an, nhưng nếu người dân nghi ngờ và không tuân theo đòi hỏi của họ, thì họ cũng có thể nổi nóng, vu cho người dân tội chống đối. Trong vụ Tiên Lãng, khi xảy ra đụng độ, bà Nguyễn Thị Thương (vợ ông Vươn) và bà Phạm Thị Báu (tức Hiền, vợ ông Quý) đứng trên đê, từ xa nhìn lại. Vậy mà hai người phụ nữ yếu ớt ấy lại bị khởi tố về tội chống người thi hành công vụ

Dù xã hội văn minh đến đâu thì cũng vẫn xảy ra việc người thi hành công vụ vô tình hay cố ý vi phạm pháp luật, khiến người dân phải tự vệ một cách chính đáng. Cho nên, những quy định pháp lý như trong Bộ luật hình sự của Đức để bảo vệ người dân trước khả năng công quyền bị lạm dụng là thực sự cần thiết. Ở Việt Nam, khi mà sự tha hóa và tham nhũng đã làm ô nhiễm bộ máy công quyền, công chức quá thiếu hiểu biết về pháp luật, tòa án hay xét xử tùy tiện, thì những quy định để bảo vệ dân oan lại càng bức thiết. Rõ ràng, các nhà lập pháp đang nợ nhân dân việc sửa đổi Điều 257 (về tội chống người thi hành công vụ) của Bộ luật hình sự hiện hành, để đáp ứng đòi hỏi cấp bách của cuộc sống.

Ngay cả với quy định hiện nay của Bộ luật hình sự thì cũng không thể đơn giản buộc cho những người trong gia đình họ Đoàn tội chống người thi hành công vụ, nếu không chứng minh được rằng việc cưỡng chế là một công vụ đúng đắn, được thi hành theo đúng quy định của pháp luật, và mọi người được huy động đều có đủ tư cách pháp lý để tham gia. Khi quyết định thu hồi đất là sai thì việc cưỡng chế cũng sai. Cho dù coi quyết định thu hồi đất của gia đình ông Đoàn Văn Vươn là đúng, thì việc lực lượng cưỡng chế có trang bị vũ khí hiện đại tự tiện tiến vào khu đất không thuộc diện thu hồi và phá hủy ngôi nhà của ông Đoàn Văn Quý nằm trên mảnh đất đó là hoàn toàn sai. 

Theo Quyết định thu hồi số 461/QĐ-UBNDQuyết đnh cưng chế s 3307/QĐ-UBND của UBND huyện Tiên Lãng thì phạm vi cưỡng chế chỉ là 19,3 ha đã được giao cho gia đình ông Vươn theo Quyết định số 220/QĐ-UBND. Những người họ Đoàn không hề có mặt trên diện tích 19,3 ha ấy, không cản đường vào khu vực ấy, nên không thể nói là họ chống lại lực lượng cưỡng chế, nếu lực lượng này chỉ tiến hành cưỡng chế theo đúng Quyết định số 3307/QĐ-UBND. Anh em họ Đoàn chỉ ở trong nhà của mình, trên mảnh đất hợp pháp của mình, vì vậy họ có quyền tự vệ nếu có người tấn công họ. 

Mục tiêu thực sự của cuộc cưỡng chế ở Tiên Lãng ngày 5/1/2012 là gì? Hãy xem An ninh Thủ đô 5/1/2012 tường thuật:
"Trước đó vào lúc 7 giờ 30, đoàn công tác của UBND huyện Tiên Lãng gồm hơn 100 CBCS Công an, quân đội và Bộ đội Biên phòng và đại diện các ban ngành chức năng tổ chức cưỡng chế diện tích đất hơn 50 ha đầm nuôi trồng thủy sản, trồng cây ăn quả tại vùng bãi bồi ven của Đoàn Văn Vươn (SN 1960) đã đấu thầu nhiều năm nhưng đến nay đã hết hạn không chịu đóng thuế trong thời gian dài."
"Để đảm bảo an toàn cho đoàn công tác cưỡng chế, một tổ công tác bí mật tiếp cận ngôi nhà của Vươn xây dựng trên diện tích đất này thì bất ngờ một quả mìn tự chế phát nổ hất văng 2 CBSC công an huyện Tiên Lãng làm bất tỉnh tại chỗ nhưng rất may là không gây thương vong."
"... khi tổ công tác vừa áp sát ngôi nhà thì bất ngờ từ trong nhà Vươn cùng người nhà chĩa súng bắn đạn hoa cải liên tiếp nhả đạn vào lực lượng chức năng, làm 4 Cán bộ chiến sỹ Công an và một số cán bộ chiến sỹ quân đội bị thương."

Như vậy, ngay từ đầu người ta đã định cưỡng đoạt toàn bộ diện tích đất mà gia đình ông Đoàn Văn Vươn đang sử dụng (tức bao gồm cả 21 ha không có quyết định thu hồi). Điều này cũng được Chủ tịch UBND huyện Tiên Lãng Lê Văn Hiền đề cập trong cuộc họp báo chiều ngày 5/1/2012. Hơn nữa, lực lượng vũ trang đã chủ động tiếp cận ngôi nhà của ông Đoàn Văn Quý (mà An ninh Thủ đô gọi là "ngôi nhà của Vươn"), nằm trên diện tích 21 ha không thuộc diện thu hồi. Có nghĩa là ngôi nhà vô can và hợp pháp ấy đã bị xác định là mục tiêu tấn công, trước khi người nhà họ Đoàn có bất cứ biểu hiện chống đối nào. Chỉ khi lực lượng vũ trang tiếp cận ngôi nhà của ông Quý thì quả mìn mới phát nổ và sau đó, khi lực lượng ấy lại áp sát ngôi nhà thì đạn hoa cải mới bắn ra.

Làm sao có thể biện minh được việc huy động lực lượng công an và quân đội để tấn công vào nhà đất hợp pháp của công dân như vậy? Chuyện "không chịu đóng thuế trong thời gian dài" được đưa ra không chỉ để bổ sung thêm tội, mà có lẽ để biện hộ cho việc chiếm cả diện tích 21 ha chưa hết hạn cho thuê. Cái mẹo không chịu nhận tiền thuế của dân để sau này dễ bề "gây sự" đã trở thành kinh điển từ lâu. Có điều, dân đóng thuế thì không chịu nhận, rồi lại vu cho dân không chịu đóng thuế, thì quá vô liêm xỉ.

Nếu lực lượng cưỡng chế chỉ tới diện tích 19,3 ha ghi trong Quyết định thu hồi số 461/QĐ-UBND và Quyết định cưỡng chế số 3307/QĐ-UBND, không tùy tiện tiến vào khu vực 21 ha mà quyền quản lý và sử dụng hợp pháp hoàn toàn thuộc về anh em họ Đoàn, không tiếp cận ngôi nhà của ông Quý, thì mìn đã không nổ, súng đã không bắn và do đó không có ai bị thương cả. Vậy thì, nói cho cùng, ai mới là người phải chịu trách nhiệm về việc 4 cán bộ, chiến sĩ công an và 2 cán bộ quân đội bị thương? Nếu có tội giết người trong vụ này, thì ai mới là người phải chịu tội ấy?

Giả sử công vụ không vi phạm pháp luật hiện hành, thì khi phán xét về tội chống người thi hành công vụ cũng không thể bỏ qua khía cạnh đạo lý. Vâng, có một thứ cao hơn cả pháp luật, bền hơn cả chế độ, đó là đạo lý. Đất đã giao cho dân sử dụng bao nhiêu năm nay, dân đã đổ biết bao công sức và tiền của để cải tạo và gây dựng, bây giờ chính quyền thu hồi mà không bồi thường, rồi giao cho cá nhân khác, thì chẳng đạo lý nào chấp nhận được.

Trước khi lên án một hành động chống người thi hành công vụ thì nên lưu ý là tội này không phải là một phạm trù tuyệt đối, không phải là vĩnh cửu. Trên cương vị cầm quyền thì thấy hành động chống người thi hành công vụ rõ ràng là một tội cần bị trừng trị nghiêm khắc, không thể bàn cãi. Nhưng nếu chịu khó lục lại trí nhớ, quay về thuở còn đang tìm cách giành chính quyền bằng bạo lực, sẽ thấy thời ấy quân ta cũng đã từng chống người thi hành công vụgiết người thi hành công vụ của chế độ cũ. 

Những tiếng nổ tuyệt vọng làm cộng đồng tỉnh giấc, nhưng cũng làm tan nát một đại gia đình. Giá mà mấy anh em họ Đoàn kiềm chế hơn… Nhưng liệu họ còn có cách hành động nào khác, để cứu thành quả lao động vất vả mấy chục năm và bao tỷ đồng còn vay nợ, hay không? Khiếu nại với chính quyền, với tòa án địa phương ư? Thì họ đã làm rồi. Không thu được kết quả cần thiết, mà lại còn bị lừa. Khiếu nại với chính quyền trung ương và tòa án cấp cao hơn ư? Bao dân oan kéo về thủ đô đã bị trả về địa phương với lý do không được khiếu kiện vượt cấp. Hơn nữa, kết quả của một số vụ xét xử gần đây cho người dân cảm giác rằng cấp nào xử cũng vậy. Gửi kiến nghị cho X, Y, Z ư? Ngay cả các bậc đại công thần gửi tâm thư cũng không nhận được hồi đáp, các trí thức có tên tuổi kiến nghị hay khởi kiện cũng không được trả lời tử tế, vậy thì những người như ông Vươn (đến cả cấp xã cũng coi là dân ngụ cư nên không cần quan tâm) có thể hy vọng gì? Có lẽ gia đình họ Đoàn cảm thấy mọi nẻo đường hợp pháp đều đã bị chặn đứng, nên đành liều tự xử. Trách nhiệm gây ra cảnh bất công cho gia đình ông Đoàn Văn Vươn có thể thuộc về một số người trong bộ máy chính quyền ở Hải Phòng. Nhưng để cho người dân mất hết niềm tin, manh động trong tuyệt vọng, thì trách nhiệm chắc chắn không chỉ nằm ở cấp Hải Phòng.

Giá mà gia đình họ Đoàn kiên trì hơn, như bao người theo đòi công lý suốt hàng chục năm không nản… Nhưng cũng nên thông cảm với sự sốt ruột của những người chăn nuôi hải sản, không thể bỏ rơi đàn tôm cá hàng năm trời. Vả lại, khi trời chưa kịp yên, sóng chưa kịp lặng, mà những người mới tiếp quản đã vơ vét hàng chục tấn hải sản, thì làm sao có thể đòi hỏi những người chủ thực sự của khối tài sản ấy điềm tĩnh được. Hoàn cảnh của họ cũng giống như người mẹ nghe tiếng con trẻ khóc thét trong căn phòng kẹt khóa bị hỏa hoạn, hiển nhiên là cuống cuồng tìm mọi cách để phá cửa ngay lập tức.

Giá mà người nhà họ Đoàn không bắn vào lực lượng tham gia cưỡng chế, vì họ chỉ là những người thừa hành… Tiếc thay, không mấy khi kẻ cầm đầu ra trận. Cũng như trong các cuộc chiến tranh, cho dù mệnh lệnh sai trái được phát ra từ bộ máy đầu não xa xôi, thì đạn cũng chỉ nhằm vào những người lính đối phương đang lăn lộn trên chiến trường. Không nhằm vào đó thì biết nhằm vào đâu nữa?
*
*   *
Trên đây tôi chỉ trao đổi một số khía cạnh liên quan đến khái niệm "công vụ", "thi hành công vụ" "tội chống người thi hành công vụ". Hy vọng chúng sẽ có ích, không chỉ cho việc xem xét vụ Tiên Lãng.

Tiếng nổ đã phát ra, không thu lại được nữa. Vấn đề còn lại chỉ là đánh giá và xử lý như thế nào? Nếu cương quyết trừng trị bọn lộng hành, tham nhũng và trả lại công bằng cho người dân, thì mới hy vọng khôi phục được niềm tin của nhân dân và sự bình yên của xã hội. Nếu tiếp tục lấp liếm, xử lý một cách thiên vị cho phía công quyền và dồn tội lên đầu nạn nhân, thì sẽ góp phần đẩy đất nước vào một chu kỳ loạn lạc. Bức xúc dồn nén khắp nơi, có lẽ đã ở mức tới hạn của phản ứng dây chuyền.

Tiếng nổ ở Tiên Lãng ngày 5/1/2012 chỉ dừng lại ở vai trò cảnh tỉnh để phục hồi công bằng và luân lý, hay sẽ trở thành tiếng nổ khởi đầu cho loạt nổ lan rộng tiếp theo, điều đó phụ thuộc vào cách xử lý của những người cầm quyền đối với vụ Tiên Lãng.

Hà Nội, ngày 28/1/2012
__________________________________

Nguyễn Xuân Diện xin phép giới thiệu đôi dòng về tác giả Hoàng Xuân Phú:

Giáo sư Tiến sỹ khoa học HOÀNG XUÂN PHÚ (ảnh: Nguyễn Xuân Diện) công tác tại Viện Toán học, thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Ông là Viện sĩ thông tấn của hai Viện Hàn Lâm khoa học:

- Viện sỹ thông tấn Viện Hàn lâm Khoa học Heidelberg 

- Viện sỹ thông  tấn Viện Hàn lâm Khoa học Bavaria

*
Ông cũng đã từng vài lần tham gia biểu tình phản đối Trung Quốc tại Hà Nội, và có một bộ ảnh rất đẹp gửi tặng Nguyễn Xuân Diện - Blog, tại đây: 

Lắng nghe đồng bào tôi nói: Chùm 1- Chùm 2 - Chùm 3

**Ông là tác giả của loạt bài về Điện Hạt nhân (trong mục Bài quan trọng của Blog này). Loạt bài này đã được gửi tới 63 đoàn Đại biểu Quốc hội Khóa XIII: 

Bài 1: Mạn đàm về an toàn điện hạt nhân

Ông còn là tác giả của bài viết: Quyền Biểu tình của công dân, đăng trên NXD-Blog.

Thứ Hai, 30 tháng 1, 2012

VƯƠN DÀI LỘC BIẾC CHỒI XUÂN


Thưa chư vị,

Sáng nay, có rất nhiều người nhân ngày làm việc đầu năm, đã bớt chút thời gian đến Viện Hán Nôm để chuyển trực tiếp tiền giúp đỡ gia đình anh Đoàn Văn Vươn.

PGS. TS Hoàng Thị Thanh Nhàn, Viện Kinh tế và chính trị thế giới và Thượng tá Nguyễn Ánh Phương, Học viện Kỹ thuật Quân sự đã đến chuyển quà của các vị:

- Nguyễn Ánh Phương, Cựu chiến binh
- Hoàng Thị Thanh Nhàn, PGS.TS
- Trần Văn Hiếu, Tp Hồ Chí Minh
- Nguyễn Bảo Ngọc, doanh nhân, HN
- Cháu Nguyễn Tuyết Anh, học sinh Hà Nội
- Nguyễn Tố Châu, doanh nhân HN
số tiền: 2.100.000 đ giúp gia đình anh Đoàn Văn Vươn

đồng thời hai chị cũng gửi riêng 400.000 đ góp vào việc thăm nuôi chị Bùi Thị Minh Hằng, một người mà các chị ngưỡng mộ, với lời cầu chúc Chị Bùi Hằng sức khỏe, chân cứng đá mềm.

Chị Nguyễn Thị Vân Hà mang tới 500.000 đ gửi tới gia đình Anh Đoàn Văn Vươn.

Một cháu, qua chị Tô Lan, gửi 50.000 đ gửi tới gia đình Bác Đoàn Văn Vươn.

Nhóm Cựu chiến binh của Đại học Thủy Lợi và Đại học Bách Khoa Hà Nội cũng đã tới thăm Nguyễn Xuân Diện và cũng có mong muốn sẽ tìm một cách thích hợp để giúp các cháu con anh Vươn, anh Quý được học hành tốt nhất.

Hai khoản tiền mới gửi vào tài khoản của NXD:

30/01/2012D294 - 0000039+500,000.00 DAO MINH CHAU CHUYEN TIEN GIUP GIA DINH A.VUON GD TIEN MAT
30/01/2012J633 - 0006017+500,000.00 Sender:01202009.DD:300112.SHGD:10000006.BO: LE THI HONG HANH.CT PGD SO 4 NH NGOAI THUONG H A NOI LE THI HONG HANH UNG HO GIA DINH ANH DOAN VAN VUON TIEN LANG HAI PHONG

Lộc xuân đã dâng lên chồi biếc vươn dài trong những ngày đầu xuân. Chuyến ghé thăm của các vị nhân ngày đầu xuân khiến Lâm Khang rất cảm động. Xin cầu chúc chư vị và quý quyến dồi dào phúc lộc, may mắn tốt lành! 

Nhân ngày đầu xuân, xin gửi tặng các chị: Hoàng Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Ánh Phương, Nguyễn Thị Vân Hà tạp văn Chồi Xuân của Nguyễn Xuân Diện.

Chồi Xuân
tạp văn của Nguyễn Xuân Diện
.
Ngày xưa tôi được bà tôi kể rằng Phật Bà Quan Âm là người có nhiều phép mầu nhiệm. Người có một cái bình đựng thứ nước quý, gọi là nước cam lộ và một cành dương liễu. Và Người thường nhúng cành cây đó vào bình nước rồi vảy vào chúng sinh, cứu họ thoát khỏi phiền muộn. Khắp nhân gian ai cũng chờ đợi sự tế độ của Người. 

Rồi tôi lại được nghe một chuyện nữa. Đó là chuyện thần Thái Bạch Kim Tinh có cây gậy mầu nhiệm; chỉ gậy vào cây đã héo, cây lại xanh tươi. Giờ tôi đã lớn, chẳng biết là có nên tin nữa hay không (trước kia thì tin lắm). 

Nhưng tôi biết có một điều tôi đã tin: sự hồi sinh của vạn vật khi mùa xuân đến - sự nhiệm màu của mùa xuân.

Mùa đông, cây trút lá. Ba tháng là 90 ngày cây khẳng khiu gầy guộc, chịu đựng gió sương, rét mướt. Để rồi một sớm, xuân về. Mưa xuân cũng theo về. Như đã hẹn lâu rồi.

Vào cữ tháng 2, cây bắt đầu hồi sinh. Từ trong lớp vỏ già nua, khô cứng ấy lớn dần lên một cái mấu nhỏ. Một mầm xinh nhú ra. Một sự sinh thành. Có sự sinh thành nào mà chẳng trải qua đau đớn, khó nhọc? Cây bàng góc phố kia mồ côi suốt mùa đông, cành gân guốc như bàn tay giơ ra giữa gió sương tê tái, bỗng hôm nay cựa quậy đâm chồi. Cả cây đa nghìn tuổi nữa, cũng vội vàng thay áo cho kịp sang hè xòe bóng mát, chep rợp nhân gian.

Những chồi xuân xinh xắn nhú ra, tràn đầy nhựa sống. Chồi xuân bắt đầu từ mưa xuân. ‘Mùa xuân xanh’ và ‘mùa xuân chín’ bắt đầu từ chồi xuân. Này em, hãy để tâm đến những cái mầm nhu nhú kia. Chồi xuân đấy. Nếu em không chịu nhìn thì chỉ mai thôi, em sẽ rất bất ngờ trước màu xanh mênh mông của muôn loài thảo mộc. Và em sẽ lại hỏi tôi rằng: Cây bắt đầu từ đâu? Xanh bắt đầu từ đâu? Em đã buồn vì mùa đông cây trút lá. Em đã buồn vì mùa đông nghiệt ngã âm u, vắng màu diệp lục. Vậy thì hôm nay, hãy để ý màu xanh ấy khi còn chưa là xanh. Và tôi tin em cũng sẽ vô tình hiểu thêm về loài thảo mộc, cũng mang nặng đẻ đau, quặn mình sinh nở, cũng bắt đầu bằng những gì nhỏ bé nhất.

Chồi xuân. Đấy là nơi hy vọng của cây, hy vọng của người. Tôi tin chắc rằng, ngày ấy, trong cái năm mà chàng Kim Trọng gặp Thúy Kiều nhân tiết Thanh Minh, cánh đồng cỏ non xanh dợn chân trời ấy phải xanh hơn những mùa xuân trước đó. 

Nhà tôi ở gần cánh đồng, cuối cánh đồng là dãy núi mờ xanh như sắp lẫn vào mây khói. Tôi vẫn thường đi chân trần trên cánh đồng quê hương. Tôi nghe thấy dưới chân mình những mầm non cựa quậy. Tôi nghe thấy dưới chân mình sự hồi sinh của muôn vàn tia cỏ vô danh, dù nhỏ nhoi vẫn cứ vươn mình, như thách thức, như khẳng định những điều bất diệt.

Mưa xuân màu nhiệm làm nên cuộc hồi sinh tuyệt vời của cỏ. Có phải mưa xuân là thứ nước cam lộ của Phật Bà trong tích truyện cổ mà bà tôi đã kể ngày xưa? Có phải mưa xuân là phép nhiệm màu của cây gậy thần hấp dẫn tôi suốt một thời thơ bé?

Hà Nội Mới chủ nhật, số 162 (19.4.1992)

MỪNG THỌ CỤ HOÀNG THỊ TÚ TÂM 100 TUỔI



Thưa chư vị,
Hôm nay, ngày Chủ nhật, mùng 7 Tết Nhâm Thìn, gia đình chúng tôi cùng họp mặt để mừng Thọ Cụ chúng tôi tròn Một Trăm Tuổi. Cụ là Hoàng Thị Tú Tâm, nữ sinh Trường Đồng Khánh, Huế - bà quả phụ Cụ Trần Đình Bảo (nguyên Vụ trưởng Vụ Tổ chức, Bộ Nội Vụ) và là Mẹ của: - Bác cả chúng tôi là Trần Đình Sử (giáo sư tiến sĩ văn học), - Mẹ chúng tôi Trần Hoàng Thảo (một trong những người vận động ra tờ báo Pháp Luật của Bộ Tư Pháp), - Cậu Trần Đình Khảng (kỹ sư), - Dì Trần Thị Nghĩa (nguyên Chánh án Tòa Dân sự, Tòa án Hà Nội). Cụ Hoàng Thị Tú Tâm là một trong những thư ký/ trợ lý nhiều năm của cố Giáo sư Tôn Thất Tùng. 

Trong ngày vui này, Bác Trần Đình Sử đã phát biểu trước các anh chị em, con cháu, dâu rể trong nhà về cuộc đời giản dị, nghị lực phi thường và công lao trời biển mà Cụ bà Hoàng Thị Tú Tâm dành cho con cháu và gia đình. Dì Trần Thị Nghĩa đọc một bài thơ mới viết  tặng Mẹ, trong xúc động nghẹn ngào....

Trang Thanh Hiền & Nguyễn Xuân Diện

Được phép của Bác Trần Đình Sử, chúng tôi xin trân trọng 
giới thiệu và chia sẻ bài nói của Bác Trần Đình Sử:
Mừng cụ Hoàng Thị Tú Tâm một trăm tuổi
Thưa Má,
Thưa bác Khánh, bác Nguyệt,
Cùng các em, các cháu, chắt thân quý,

Năm nay, 2012 má, bà và cụ Hoàng Thị Tú Tâm của chúng ta vừa tròn 100 tuổi.

Tuy tuổi cao trí nhớ giảm sút nhưng má vẫn còn sống với các con, cháu, đó là một niềm vui, hạnh phúc lớn của cả gia đình. Đó cũng là lí do để chúng ta họp mặt hôm nay trong không khí ấm cúng thân mật của tình ruột thịt.

Nhân dịp này con xin nói về má để các em, các cháu, chắt được biết về má để thêm yêu quý má hơn.

Má Hoàng Thị Tú Tâm, theo gia phả họ Hoàng Bích Khê, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị ghi, sinh ngày 28 – 9 năm Quý Sửu, tức ngày 17 tháng 10 năm 1913 tại Quảng Trị. Lí lịch cán bộ ở bệnh viện Việt Đức Hà Nội thì ghi, sinh ngày 15 tháng 4 năm 1915. Theo gia phả năm nay Má vừa tròn 100 tuổi, cái tuổi xưa nay hiếm mà người đời con cháu vẫn ao ước cho cha mẹ mình. Trong họ hàng nhà ta cũng có nhiều người sống đến trăm tuổi, má của chúng ta cũng không thua kém gì. Má sống được thế, ngoài nhờ phúc ấm của Tổ tiên, ngoài sức sống tự nhiên của má, còn có công sức chăm sóc của các con cháu, mà trực tiếp bên mình ngày đêm là công lao của con gái Trần Thị Thảo, một đứa con cũng bé nhỏ, yếu đuối mà dẻo dai không kém má mà lại rất hiếu thảo.

Thuở nhỏ má có tên là Hàm, thời đi học và công tác lấy tên là Tú Tâm.

Má là cháu nội của ngài Hoàng Hữu Xứng, Hiệp biện đại học sĩ triều Nguyễn, người đã từng vẽ bản đồ đầy đủ của nước Đại Nam. Má là con gái thứ tư trong sáu chị em của cụ Hoàng Hữu Kiệt, cử nhân Hán học năm Duy Tân thứ 9, tức năm 1915, năm cụ 30 tuổi. Cụ Hoàng Hữu Kiệt từng được bổ nhiệm làm tri huyện tại Sông Cầu tỉnh Phú Yêu, tri huyện Hướng Hoá, Quảng Trị, chuyển vào tri huyện Hoà Vang, Quảng Nam, nhưng do làm quan thanh liêm, bênh vực dân chúng, việc quan bị coi là “bất hợp thức”, buộc phải về hưu non khi mới bốn mươi sáu tuổi. Cụ mua đất hoang ở Khe Bội xã Triệu An, huyện Triệu Phong, Quảng Trị, lập ấp, thuê người làm ruộng, lấy tên là thôn Phúc Khê để duy trì cuộc sống và mong có người hương khói sau này. Hiện nay toàn bộ làng Phúc Khê của ông ngoại đã chìm trong hồ nước mới xây của tỉnh bên sông Thạch Hãn. Do nhà nghèo, trong sáu chị em chỉ có hai bà được đi học, đó là bà Diệu Phương và bà má nhà ta. Má nhà ta vóc người nhỏ bé, xương cốt  mảnh khảnh, yếu đuối nên được ông bà ưu tiên cho đi học nhiều hơn. Thời ấy người ta đi học muộn. Má học trường nữ học Đồng Khánh Huế, một trường nổi tiếng. Má thông minh, học giỏi, nhưng năm 18 tuổi vừa có bằng Tiểu học Pháp Việt (Primaire) thì năm ấy (năm 1931) ông ngoại Hoàng Hữu Kiệt bị mất chức, phải về vườn, má không có điều kiện học lên nửa, mà phải xin đi làm việc để giúp gia đình. Lúc đầu má làm nhân viên bán sách cho hiệu sách cụ Bùi Huy Tín ở thành nội, sau chuyển sang đi dạy tiểu học ở trường Sa-l Marie An Cựu. Ít lâu sau, năm 1936 má có dịp vay 50 đồng, mua lại trường tiểu học Thanh Dương, nhờ anh rể Nguyễn Đăng Khoa, thân phụ của bác Nguyễn Đăng Khánh đứng tên làm hiệu trưởng, tự mình làm chủ. Trường hoạt động được mấy năm, do thiếu kinh nghiệm quản lí, đến năm 1939 đóng cửa. Cuối năm 1939 má thành hôn với Ba Trần Đình Bảo, từ đó mới có tất cả anh em cháu chắt chúng ta như hôm nay.  

Từ năm 1939 đến 1945 cuộc mưu sinh tạm thong dong nhưng vất vả làm mẹ. Đó là năm má sinh ra các con Trần Đình Sử (1940), Trần Thị Thảo (1941), Trần Đình Bổng (1943) và chuẩn bị sinh Trần Đình Khảng (1946). Sáu năm trời nuôi bốn con nhỏ thật là vất vả. Từ sau ngày mặt trận Huế vỡ, cả gia đình rời bỏ thành phố Huế để chuyển ra Quảng Trị bằng thuyền. Trên đường đi  qua huyện Hải Lăng, bất ngờ bị dân quan trên bờ nghi oan là Việt gian, tràn xuống bao vây, bắt Ba và cả nhà giam vào ngục huyện Hải Lăng. Áp giải lên Thị xã Quảng Trị gặp toàn bà con: ông Nguyễn Đăng Khoa, ông Trần Hữu Dực, bà Hoàng Thị Ái (sau này là Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam - NXD chú)...nên được thả ngay. Nhưng toàn bộ tài sản trên thuyền đều bị tịch thu hết, ra tới Quảng Trị gia đình hoàn toàn tay trắng.

Từ năm 1946 đến năm 1954, ba đi công tác ở Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh, bắt đầu làm văn phòng uỷ ban, rồi chánh văn phòng uỷ ban tỉnh, sau làm chủ tịch huyện Vĩnh Linh năm 1947, rồi phó chủ tịch tỉnh Quảng Trị, ủy viên uỷ ban khu 4, luôn luôn xa nhà. Ở nhà chỉ có một mình má với năm đứa con nhỏ. Từ năm 1951 có thêm em Trần Thị Nghĩa. Lúc đầu nhà làm tạm ở Khe Bội, ăn uống luôn đói kém, thường chỉ có khoai sắn, rau lang. Khổ nhất là khi Tây đi càn. Mỗi lần nghe mõ báo động, má phải chờ đủ mấy anh em về mới dắt díu nhau chạy trốn. Sau khi nhà bị Tây lùng đốt đi cả nhà chuyển lên chiến khu Ba Lòng ở thôn Lương Hạ, má phải tự mình, có chị Trần Thị Lễ giúp sức, tự mình trồng lúa, trồng sắn, trồng khoai, trồng bí, bầu, nuôi gà, heo để tự túc. Mấy năm đầu chưa biết làm ruộng má phải kết hợp cắt may áo thuê, nấu cơm tháng cho một số cán bộ để có thêm tiền nuôi các con. Ba đi làm hoàn toàn không có lương. Thỉnh thoảng về, mua cho các con mấy thước vải nâu may áo, thỉnh thoảng tự anh, cậu bé mười tuổi, lặn lội một mình sang cơ quan uỷ ban ở bên kia sông Thạch Hãn ở sâu trong rừng xin mấy cân gạo. Từ nhà ra sông Thạch Hãn lấy nước khoảng trên 500 mét, nhưng đường rất dốc. Có lần má đi gánh nước trượt chân, ngã gẫy xương quai xanh phải điều trị lâu ngày. Có lần Tây lùng (càn) chiến khu, cả nhà dắt díu nhau chạy vào rừng, đi men theo dòng suối. Bất ngờ má đạp phải lưỡi dao của ai bỏ quên dưới nước, đứt gan bàn chân, màu chảy lênh láng. Cả nhà lại phải tạm lánh bên suối. Năm 1950 - 51 bà có mang em Nghĩa, biết không có sức đi gánh nước, má chuẩn bị cho mình mấy cái bầu bằng quả bầu để mang nước. Vì thương má anh giành đi mang nước, nhưng sức yếu bị ngã, làm vỡ mấy cái bầu, làm má khóc thảm thiết, vì lo một thân một mình khi sinh nở.

Những năm ở chiến khu má cũng tham gia chấp hành phụ nữ xã, chi hội phụ nữ Hoàng Ngân; dạy trường tiểu học xã Triệu Nguyên. Sau năm 1954 tập kết ra Nghệ An. Ở Nghệ An má có hai nỗi đau lớn. Một là em Trần Đình Bổng, 12 tuổi, bị thương hàn, điều trị sai đã mất, thứ hai là má có thai em bé, nhưng do sức yếu không nuôi được. Sau hai cái đau đó má suy sụp hẳn, phải nằm viện dài ngày tại bệnh viện dã chiến Cửa Hội. Ra viện má đi học ý tá rồi nhiều lần chuyển cơ quan, cuối cùng về làm ở Bệnh viện Việt Đức, phòng y vụ tại Hà Nội. Ở phòng Y vụ má từng làm thư kí cho giáo sư Tôn Thất Tùng, giữ tủ sách, tủ thuốc của giáo sư. Lúc này các con lần lượt được đi học các trường học sinh Miền Nam nên má cũng bớt vất vả.

Tổng kết những năm tháng công tác má cũng được nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhất, huân chương kháng chiến chống Mĩ hạng hai.

Từ ngày về hưu bà lo việc chăm sóc sức khoẻ cho ông. Nhờ có bà mà ông được sống đến 90 tuổi. Bà về hưu đem tình thương yêu chăm sóc các cháu. Các cháu Trang Thanh Thuỷ, Trang Thanh Hiền, Nguyễn Hải Long, Nguyễn Hải Ngọc, Trần Trung Thành, Trần Thị Lan, Trần Đình Khải, Trần Đình Kiên ít nhiều đều được hưởng sự quan tâm chăm bẵm của bà.

Từ ngày về hưu má còn hăng hái tham gia sinh hoạt với các cụ hưu trí, cũng tham gia diễn kịch, làm thơ, viết bài, được tặng giải “Sợi tóc xanh” của Hội người cao tuổi Việt Nam. Bà vẫn đi lại vui chơi với các bạn học trường Đồng Khánh Huế năm xưa. Nhưng rồi các bạn bè của má cũng lần lượt qua đời, thưa vắng hết, má ít giao lưu, mắt mờ, trí nhớ sa sút, nhưng vẫn còn nhận biết con cháu.

Má là người phụ nữ nhỏ bé, yếu đuối mà đã dẻo dai chịu đựng không biết bao nhiều khó khăn, cực khổ, sinh hạ và nuối nấng chúng con nên người. Má kế thừa gia phong thật thà, liêm khiết của ông ngoại, giáo dục chúng con nên người. Nhà tuy nghèo nhưng sống trong sạch, lương tâm thanh thản. Chúng con biết ơn má, thương yêu má, phụng dưỡng má để má được như hôm nay chúng con cũng được an lòng. Mừng thọ má trăm tuổi, chúng con mong má còn ở với chúng con lâu hơn, để chúng con, cháu, chắt còn có dịp báo hiếu với má. Đó cũng là tâm nguyện của chúng con. Kính chúc Má sức khoẻ, an hưởng tuổi già.

Hà Nội, ngày 7 tháng giêng năm Nhâm Thìn (2012)
Thay mặt các con, cháu, chắt: Trưởng nam Trần Đình Sử