Hiển thị các bài đăng có nhãn Lê Thiết Cương. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lê Thiết Cương. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 2 tháng 5, 2018

THƯ MỜI XEM TRIỂN LÃM VÀ GIAO LƯU VỚI HS LÊ THIẾT CƯƠNG


THƯ MỜI XEM TRIỂN LÃM VÀ DỰ CUỘC GIAO LƯU
VỚI HỌA SĨ LÊ THIẾT CƯƠNG 

(Cùng khách mời: PGS Nguyễn Thị Minh Thái, Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều)

Tại tầng hầm B1 Royal City đang diễn ra cuộc triển lãm hội họa 
mang tên "Hình và Bóng" của họa sĩ Lê Thiết Cương.

Trong khuôn khổ triển lãm, cuộc gặp gỡ giao lưu với họa sĩ Lê Thiết Cương 
và hai vị khách mời sẽ diễn ra vào hồi 10.30 -12.00 ngày thứ Bẩy, 5/5/2018.

Đây là một hoạt động bổ ích cho những ai yêu/ muốn tìm hiểu
về mỹ thuật đương đại hiện nay.

Hiện nay, tại đây vẫn đang trưng bày phòng tranh 
của họa sĩ Phạm Lực mang tên "Bút Lực" do họa sĩ Lê Thiết Cương làm giám tuyển.

Người xem sẽ được thưởng lãm tranh của hai họa sĩ cùng lúc.
Cửa vào tự do.
 

Thứ Tư, 29 tháng 1, 2014

ĐÂY ! HÀ NỘI NGÀN NĂM VĂN HIẾN ĐÓN XUÂN


Chỉ có những kẻ ngu dốt mới "áp bức" di tích LS đã xếp hạng bằng hàng đống những thứ xanh đỏ rất mất trật tự và phản văn minh thế này. 
Chụp Ô quan chưởng , HN , sáng 28 Tết.
Ảnh và lời bình của Họa sĩ Lê Thiết Cương

Trang trí hai bên tượng đài Lý Thái Tổ chỉ là hai cái MẶT NGỰA. 
Giá mà thêm hai cái ĐẦU TRÂU nữa thì mới trọn bộ, các ông văn hóa Hà Nội ơi

Đỏ choét đèn lồng Tàu trên lối vào Chùa Trấn Quốc.

 Lê Khánh Thiện, quận Hoàng Mai, Hà Nội

Thứ Tư, 29 tháng 8, 2012

Vụ phá chùa Trăm Gian: KHÔNG THỂ SÁM HỐI

Không thể sám hối

SGTT.VN - Câu chuyện chùa Trăm gian bị phá để xây mới làm bàng hoàng không chỉ giới mỹ thuật mà còn cả rất nhiều tầng lớp dân chúng. Có rất nhiều tiếng nói đã cất lên với đủ tâm trạng, cảm xúc khác nhau. Sài Gòn Tiếp Thị xin được chia sẻ cùng bạn đọc ý kiến của hai nhà văn hoá quan tâm đến lĩnh vực bảo tồn di sản dân tộc, đặc biệt là di sản mỹ thuật cổ.

Chùa Trăm gian tên chữ là Quảng Nghiêm tự, nằm trên một quả đồi cao khoảng 50m, ở thôn Tiên Lữ, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, Hà Nội. Chùa được lập từ đời Lý Cao Tông, năm 1185. Đây là một công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật cao, được xếp hạng di tích quốc gia từ hơn 40 năm qua. Ảnh: TL 

Nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng: 
Không được sửa chữa di tích mỹ thuật cổ

Hiện nay đang tồn tại hiện tượng hầu hết các di sản văn hoá nghệ thuật trong lĩnh vực đền chùa, về mặt quản lý thì của chính quyền, nhưng ăn ở, gìn giữ và tổ chức các nghi lễ tôn giáo lại là các giáo sĩ.

Trước kia, thời phong kiến, cũng có hiện tượng này. Tuy nhiên nhà vua ra sắc lệnh rất rõ ràng: những di tích tôn giáo có tính mỹ thuật cổ đều phải do triều đình giao trách nhiệm quan lại địa phương chăm sóc và tu bổ khi có hư hại. Các nhà sư chỉ được ở nhờ và có nhiệm vụ chăm sóc, giữ gìn cho tốt chứ không được phép tu sửa bất cứ thứ gì. 

Thực ra đây cũng từng là vấn đề của các nước chứ không chỉ Việt Nam. Nhưng ở những nước khác, các nhà tu hành chỉ được phép hoạt động tôn giáo ở những ngôi chùa mà chính quyền cho phép. Còn với một số di tích chỉ có thể gìn giữ ở dạng bảo tàng chứ không thể sử dụng, họ sẽ xây một công trình bên cạnh cho các nhà sư ở và tiếp tục hoạt động tôn giáo trong cùng một không gian, nhưng không xâm hại di tích.

Theo tôi, để tình trạng hiện nay của nước ta được giải quyết, chúng ta cần có cam kết với các hoạt động tôn giáo: đã là di sản lịch sử thì dứt khoát không được sơn phết hay thay đổi bất kỳ một dấu vết gì, dù là nhỏ nhất. Mặt khác, chúng ta cần có những hoạ sĩ mỹ thuật cùng tham gia bảo tồn những di tích có tuổi đời cao để bảo đảm cho những công trình mỹ thuật cổ được tồn tại.

Ngoài ra, đây là lúc cần có một cuộc nói chuyện giữa những nhà hoạt động tôn giáo và chính quyền để thống nhất với nhau phương pháp quản lý.

Có lẽ tôi cần phải nhắc thêm một vấn đề nữa: chính mặt trái của việc xã hội hoá trùng tu cũng là nguyên nhân của sự xuống cấp các di sản, khi mà có quá nhiều đơn vị tham gia vào quá trình tu sửa này mà không thể thống nhất với nhau.

Hoạ sĩ Lê Thiết Cương: 
Nhân danh trùng tu để phá hoại di sản 

Nguyên nhân cốt lõi của vấn đề nhân danh trùng tu để phá hoại di sản là vô trách nhiệm và thiếu ý thức. 

Thứ nhất là sự vô trách nhiệm của tất cả các cơ quan chức năng từ cấp cơ sở, xã huyện có di sản đến cấp trung ương.

Nguyên nhân thứ hai là kém hiểu biết. Chùa Trăm gian là di tích cấp quốc gia, có nghĩa rằng những người trụ trì thay mặt mấy chục triệu dân Việt trông coi ngôi chùa chứ không phải là chủ. Ngoài ra, các vị trụ trì có thể tinh thông Phật pháp nhưng điều đó không có nghĩa họ có đủ kiến thức về lịch sử, mỹ thuật, tri thức khoa học vể bảo tồn, phục chế di tích. Họ không nên nhập nhằng giữa quyền lực của giáo hội Phật giáo với những quy định của luật pháp hiện hành, cụ thể là luật Di sản. Thay một viên đá của bậc thang dẫn lên chùa nếu không được phép của cơ quan chức năng đã là phạm pháp. Thật là ấu trĩ khi cho rằng, vì không dùng ngân sách nhà nước để trùng tu chùa mà hoàn toàn là tiền cúng dường của phật tử nên không cần xin phép Nhà nước.

Chính vì không hiểu biết về mỹ thuật cổ, mỹ thuật Phật giáo, mỹ thuật đời Lý, tức là không thể thấy được vẻ đẹp của di tích chùa Trăm gian nên họ mới phá đi để làm lại. Họ mù quáng khi cho rằng cổ, cũ là xấu, chỉ có hiện đại với các lớp màu mè trát son mới là đẹp. 

Đình chùa đền miếu là nơi tích tụ những giá trị văn minh cả vật chất lẫn tinh thần của người Việt. Lịch sử ở đó, truyền thống ở đó. Những người được Nhà nước giao trọng trách bảo vệ di sản thì vô trách nhiệm, và điều này cũng góp phần phá hoại di sản văn hoá nước nhà một cách trầm trọng hơn, thậm chí là bài bản hơn.

Mất của cải thì vẫn có thể làm lại của cải. Nhưng mất một ngôi chùa thì vĩnh viễn mất đi một di sản văn hoá, không thể sám hối.

Đã đến lúc phải mượn chuông, mã, khánh của chính nhà chùa để gióng lên hiệu lệnh báo động rằng lương tri của toàn xã hội đang bị thách thức. 

N. H (ghi)
Nguồn: SGTT.

Thứ Tư, 25 tháng 1, 2012

Lê Thiết Cương: RỒNG TRONG MỸ THUẬT CỔ

 
Kho Rồng
 
Thật là lạ trong thập nhị địa chi tương ứng vơi 12 con vật biểu tượng thì có mỗi rồng là không có ngoài đời thực. Thế nhưng rồng lại xuất hiện nhiều nhất trong lịch sử mỹ thuật Việt suốt từ thế kỷ thứ 10 đến cuối thế kỷ 19.

Giai đoạn 1000 năm Bắc thuộc và trước nữa là thời Đông Sơn thì không có hoặc tới nay vẫn chưa tìm thấy một hiện vật nào hình rồng. Na ná rồng như giun, cá sấu… thì có. Nhưng gần mười thế kỷ sau đó, cùng với sự lên ngôi của Lý‎ Công Uẩn, hình tượng rồng lại trở nên quen thuộc. Có phải là các thế hệ nghệ sĩ cha ông ta thích đề tài rồng, thích vẽ, nặn, khắc con vật này hơn 11 con khác trong 12 con giáp và những con khác hay không? Hay vì rồng là một con vật đặc biệt?
 
Hình r
Hình rồng mây lửa khắc gỗ, điêu khắc đình thế kỷ 17

Trọng trách của rồng


Điều đặc biệt trước tiên như đã nói, rồng là con vật của tưởng tượng. Quan trọng hơn, rồng là con vật cùng một lúc mang (bị mang) hai biểu tượng rất “nghiêm trọng”: biểu tượng quyền lực, từ Lý‎ đến Nguyễn đời nào cũng vậy. Không thấy một ông vua nào khi lên ngôi nghĩ hẳn ra một con vật hoàn toàn khác làm biểu tượng, cũng không thấy ông vua nào chọn một con vật có sẵn khác như trâu hay hươu nai làm biểu tượng. Biểu tượng thứ hai mà rồng phải mang vác là biểu tượng của tín ngưỡng vì rồng nằm trong bộ tứ long, ly, quy, phượng. Sự chọn lựa này chắc cũng ngẫu nhiên thôi bởi vì chẳng ai giải thích được thấu đáo và hợp lý  lý do của sự chọn lựa bốn con vật này tại sao lại linh hơn những con vật khác.


Ấy là còn chưa kể rồng còn phải mang biểu tượng của một trong 12 con giáp (tương đương dân chủ và bình đẳng với lợn gà dê bò…), biểu tượng này của rồng khá “dễ thở”, là tháng thổ đầu tiên trong năm đóng vai trò chuyển êm từ xuân sang hè.


Rồng một lúc phải đóng nhiều vai cho nên rồng xuất hiện nhiều, có thể nói là nhiều nhất so với các con vật khác cũng là dễ hiểu. Ngai vàng, quần áo, mũ mãng, dao kiếm của vua phải có hình rồng, cánh cửa chùa (chùa Phổ Minh), bệ đá chùa (chùa Bối Khê) cũng rồng, cho đến trán bia ở đình đền miếu (ví dụ bia Văn Miếu) cũng vẫn rồng.
 
Rnfg chầu
Rồng chầu mặt nguyệt, sơn son thiếp vàng thế kỷ 1

Nhưng trong đời sống làm gì có con rồng. Cái ga khởi hành trong hiện thực không có sẵn. Các nghệ sĩ cha ông chúng ta đã “làm thay công việc của Chúa”. Đó là sáng tạo ra hiện thực. Trên cơ sở những con vật như giun, rắn, cá sấu, giao long, chim muông, thú, cua cá, họ nhào nặn, cộng trừ nhân chia them bớt… tạo ra một con vật và gọi nó là con rồng rồi áp đặt cho nó vài ba đức tính nọ kia. Đó là công cuộc sáng tạo thứ nhất. Khó khăn, quan trọng nhưng chưa đủ. Cuộc sáng tạo lần hai hay hơn, tức là đưa cái hiện thực không có thực đó, cái hiện thực mình vừa tạo ra đó thành tác phẩm.

Có một kho rồng


1000 năm trải qua các thời kỳ (từ Lý, Trần, Hồ, Lê Sơ, Mạc, Lê Trung Hưng, Lê Mạt, Nguyễn) hình tượng Rồng đã có nhiều thay đổi từ tạo hình, bố cục, chất liệu. Dễ nhận thấy những nét chính như sau: rồng Lý mượt mà, tinh tế, uốn lượn mềm mại. Rồng Trần nhìn bề mặt giống Lý nhưng tinh thần thì khác, thô và khỏe hơn. Rồng Mạc bỏ hẳn lối uốn khúc hình sin của Lý Trần, tuy ít uốn lượn nhưng vẫn mềm mại gây cảm giác mộc mạc, giản dị. Rồng Lê Trung Hưng và Lê Mạt có hai đột phá là phần thân ở đoạn giữa có thêm một nhịp võng xuống tạo thành hình yên ngựa và thứ hai là hình mây lửa ở đuôi, bờm hoặc kết hợp rồng và những đám mây lửa hòa cùng nhau. Rồng Nguyễn là vẻ đẹp của cầu kỳ, kỹ lưỡng, trau chuốt.
 
Hạ tết
Họa tiết rồng yên ngựa, phần dưới của chân đèn gốm thế kỷ 17

Cách thức thể hiện rồng qua các thời kỳ từ đục đẽo, chạm khắc cho đến đúc, gò, đắp nổi và chủ yếu ở dạng phù điêu. Rồng có mặt trên tất cả các chất liệu: đá, đất nung, gỗ, gốm, đồng, sơn mài. Rồng có ở nhiều dạng bố cục: chữ nhật, tròn, lá đề, bán nguyệt.

Phương pháp tạo hình rồng kết hợp với những đề tài khác làm hình tượng rồng càng trở nên phong phú.


Ví dụ: cá hóa rồng (tháp Đăng Minh đời Trần, đình Lỗ Hạnh đời Mạc).


Rồng hóa mây (lan can đá ở cổng vào Văn Miếu).


Tiên nữ cưỡi rồng (đình Lỗ Hạnh thời Mạc và ở chùa Keo thời Lê Trung Hưng)


Rồng ôm chữ phúc (chùa Bối Khê, thời Lê Trung Hưng)


Rồng ngậm chữ thọ (đền Phú Đa, thời Lê Mạt)


Rồng chầu chữ Phật (chùa Kim Liên, Tây Hồ thời Lê Sơ)


Trong giai đoạn hiện đại, rồng rất hiếm khi xuất hiện vì chức năng thể hiện thần quyền và pháp quyền của nó không còn nữa, chỉ là một đề tài như muôn đề tài khác. Đó là nguyên nhân chính dẫn đến sự vắng bóng rồng trong hội họa và điêu khắc hiện đại.


Trong nghệ thuật trang trí và kiến truc hiện đại cũng vậy, rất ít đất cho rồng. Đình chùa miếu mạo đều có tu sửa cũng chỉ là bồi, đắp, tô, trát lại. Nếu xây mới thì cũng chép lại theo mẫu rồng cũ, không sáng tạo thêm được gì. Giả sử nếu muốn sáng tạo thì rất khó có thể vượt được cha ông – những người đã khai thác rất kĩ hình tượng rồng từ chất liệu, đề tài, bố cục, cách tạo hình để góp vào mĩ thuật truyền thống Việt Nam cả một… kho rồng qu‎ý báu.


Trong nghệ thuật có hai phần nội dung và hình thức. Đề tài thuộc nội dung là phạm trù ít thay đổi hơn so với hình thức. Những đề tài nào mất đi tức là nhu cầu cuộc sống không cần đến  nữa, đó là quy luật. Rồng là đề tài như vậy. Nhưng xem rồng, nghiên cứu học hỏi, thưởng thức rồng thì không thể có gì thay được vì đó đã là một tác phẩm tiêu biểu trong kho tàng nghệ thuật của dân tộc.


Theo
Lê Thiết Cương (Tuổi Trẻ số Xuân)