Hiển thị các bài đăng có nhãn Lý Xuân Chung. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lý Xuân Chung. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 3 tháng 11, 2015

CUỘC XƯỚNG HỌA GIỮA HAI ĐOÀN NGOẠI GIAO VIỆT - HÀN NĂM 1718

Về văn bản thơ xướng họa giữa Nguyễn Công Hãng (Việt Nam) với Du Tập Nhất, Lý Thế Cẩn (Hàn Quốc) trong chuyến đi sứ Trung Quốc năm 1718

Lý Xuân Chung
Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á
Lời dẫn của Lâm Khang chủ nhân: Năm 1718, sứ thần Việt Nam là Nguyễn Công Hãng, Trưởng đoàn ngoại giao (Chánh sứ) Việt Nam đi sứ Yên Kinh (TQ). Tại Yên Kinh, đoàn ngoại giao Việt Nam và Triều Tiên (do Du Tập Nhất làm Trưởng đoàn) đã được nước chủ nhà bố trí ăn nghỉ tại Nhà khách Ngọc Hà (lúc đó gọi là Ngọc Hà quán). Hai đoàn ngoại giao VN và Triều Tiên đã ở cùng với nhau hơn 01 tháng tại Ngọc Hà quán và đã xướng họa thơ văn với nhau. Bài viết dưới đây của TS. Lý Xuân Chung (Viện KHXH Việt Nam) sẽ cho chúng ta biết về cuộc xướng họa của sứ thần Việt Nam và Triều Tiên trong thời gian này. Xin cảm ơn TS Lý Xuân Chung!
Một trang thơ đi sứ của sứ thần Việt Nam
Nguyễn Công Hãng (1680 - 1732) tự Thái Thanh, hiệu Tĩnh Am, người làng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn (nay thuộc Tiên Sơn, Bắc Ninh). Năm 1700, ông thi đỗ Tiến sĩ, làm quan tới các chức Hữu Thị lang, Tả Thị lang Bộ Binh rồi Thượng thư, Tham tụng trong phủ chúa. Ông được chúa Trịnh Cương tin dùng, ban chức trọng yếu, giữ chức Tể tướng suốt 13 năm. Trịnh Giang sau khi lên ngôi chúa còn tin dùng ông một thời gian, sau nghe lời gièm, giáng xuống làm Thừa chính xứ Tuyên Quang rồi bức tử vào năm 1732. 

Trong thời gian giữ trọng trách trong phủ Chúa, năm 1718, ông được cử đi sứ Trung Quốc.

Về thơ văn, các sách như Tìm hiểu kho sách Hán Nôm của Trần Văn Giáp; Từ điển văn học của Lại Nguyên Ân chủ biên; Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam của Đinh Xuân Lâm - Trương Hữu Quýnh chủ biên; Thơ đi sứcủa Phạm Thiều - Đào Phương Bình chủ biên... đều thống nhất ghi rằng, ông có Tinh sà thi tập một quyển, làm trong chuyến đi sứ Trung Quốc.

Lần tìm trong Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu - cũng như Thư mục ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, chúng tôi không tìm thấy cuốn sách có đầu đề như vậy. Có điều là, chúng tôi tìm thấy một cuốn có ghi chép thơ văn của Nguyễn Công Hãng được làm trong chuyến đi sứ Trung Quốc năm 1718, tức năm Vĩnh Thịnh thứ 14. Đó là cuốn Bắc sứ thi tập, ký hiệu VHv.2166, bản viết tay, chữ tốt, dễ đọc, 72 trang, khổ 26 x15cm, gồm 2 tập thơ đi sứ của Đào Công Chính và Nguyễn Công Hãng. Thơ văn của Nguyễn Công Hãng duy nhất có cuốn này, tuy mới có thêm bản chụp mang ký hiệu VHc.304 thì cũng là photocopy từ bản này, trong đó, từ tờ 31b đến tờ 34a có phần thơ xướng họa giữa Nguyễn Công Hãng với Du Tập Nhất và Lý Thế Cẩn, tổng cộng 12 bài, gồm 4 bài xướng của Nguyễn Công Hãng, 4 bài họa của Du Tập Nhất và 4 bài hoạ của Lý Thế Cẩn.

Thứ Hai, 2 tháng 11, 2015

TƯ LIỆU HÁN NÔM VỀ BANG GIAO VIỆT - HÀN TRONG LỊCH SỬ

BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU QUAN HỆ BANG GIAO VIỆT - HÀN TRONG LỊCH SỬ QUA CÁC THƯ TỊCH HÁN VĂN
 

Lý Xuân Chung*
Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Cao Ly - Triều Tiên - Hàn Quốc là những tên gọi của một xứ sở mà phong tục, tập quán, ngôn ngữ, văn hóa và lịch sử có nhiều nét tương đồng với Việt Nam chúng ta. Song, sự hiểu biết và nghiên cứu của chúng ta về đất nước và con người ở bán đảo này còn rất đại lược.

.
Một trang trong tập thơ đi sứ
Điều đó có nguyên nhân địa lý, lịch sử sâu xa: quan hệ trực tiếp Việt Nam - Hàn Quốc trong lịch sử ở các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa dường như không lưu lại dấu ấn gì. Những năm gần đây, khi Hàn Quốc hóa rồng, trở thành một trong bốn con rồng ở châu Á và thiếp lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam thì sự tìm hiểu, nghiên cứu về xử sở này mới thực sự bắt đầu.

Để tìm hiểu đất nước, con người của mỗi quốc gia, ngôn ngữ luôn là chiếc cầu nối, là phương tiện cần thiết cho các nhà nghiên cứu đi sâu khảo cứu. Dẫu rằng hiện nay, Việt Nam và Hàn Quốc đều có chữ riêng, nhưng trong lịch sử, họ cùng chung một thứ chữ, đó là chữ Hán. Qua chữ Hán, họ hiểu biết lẫn nhau, trân trọng lẫn nhau. Những thư tịch bằng chữ Hán còn lưu lại ở hai nước đã nêu lên điều đó và là những tư liệu đáng quý để tìm hiểu mối quan hệ Việt - Hàn trong lịch sử.

Ngay trong thời phong kiến, nước Việt ta đã có quan hệ bang giao với nhiều nước láng giềng, song, chủ yếu vẫn là Trung Quốc rộng lớn và hùng mạnh. Các đoàn sứ giả ta theo định kì tuế cống hoặc những dịp đại hiếu, đại hỉ lại lên đường sang Yên Kinh (tức Bắc Kinh ngày nay) để làm một trọng trách mà triều đình cũng như dân tộc giao phó là giao hảo, hòa hiếu với Trung Quốc. Cũng vào những dịp đó, không chỉ Việt Nam ta mà sứ giả những nước nhỏ xung quanh Trung Quốc cũng đều có mặt. Đó cũng là dịp sứ thần các nước gặp gỡ, làm thơ xướng họa, tặng đáp và hiểu biết nhau hơn. Sứ thần thời xưa, ở Việt Nam ta cũng như các nước chắc đều thế, thường là những người tài cao học rộng, làu thông kinh sử, uyên thâm Hán học, ứng đối linh hoạt và đặc biệt là những nhân sĩ giàu lòng yêu nước, có dũng khí, nêu cao tinh thần tự cường dân tộc và có tài tứ ngoại giao uyển chuyển hài hòa.