Hiển thị các bài đăng có nhãn Kinh Dịch. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Kinh Dịch. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 17 tháng 11, 2017

TỌA ĐÀM VỀ BIỂU TƯỢNG HỒ GƯƠM VÀ TRỐNG ĐỒNG NGỌC LŨ


TRUNG TÂM MINH TRIÊT

THƯ MỜI
Hà Nội 1-11-2017,

Kính Mời: Các nhà nghiên cứu và các bạn có quan tâm.

Dự Tọa Đàm Văn hóa Khoa học 


Đề tài: BIỂU TƯỢNG HỒ GƯƠM VÀ TRỐNG ĐỒNG NGỌC LŨ

Diễn Giả: Viên Như
Tác giả cuốn sách "Người Việt Chủ nhân của Dịch học và Chữ Vuông".

Tại: 53 Nguyễn Du Hà nội (Hội trường tầng 4).
Vào hồi 8 giờ 30 ngày 18 tháng 11 năm 2017 (Thứ Bảy).

Trân trọng,
Giám đốc TT Minh Triết
Nguyễn Khắc Mai
________________

Chương Trình:
- 8h30 Khai mạc. Lời mở đầu và giới thiệu đại biểu.
- 8h45- 10h45: Thuyết trình của Diển giả.
- 10h 45-11 giờ: Thư giãn.
- 11h00 – 11h45: Trao đổi, giao lưu với tác giả.Kết thúc.

Thứ Bảy, 8 tháng 7, 2017

HOÀN KIẾM CÀN KHÔN THẾ SỰ - Tạp văn Phạm Lưu Vũ


HOÀN KIẾM CÀN KHÔN THẾ SỰ
 
Tạp văn Phạm Lưu Vũ
Tháng 10 - 2015
 
Hồ Hoàn Kiếm như một chiếc gương soi giữa lòng Hà nội. Đã là người Việt Nam thì ai chẳng muốn tới đó để soi mình. Cái hồ trứ danh ấy là kết quả của sự giao nhau giữa Đất và Trời. Một nét của quẻ Khôn (Đất) lần lượt chu du vào quẻ Càn (Trời). Đầu tiên còn nằm dưới tận cùng làm thành quẻ Tốn (Gió), tiếp theo, chui vào đến ruột Càn mà làm ra quẻ Ly (Lửa). Cuối cùng, leo lên tới đỉnh biến ra Đoài (Đầm). Hồ Hoàn Kiếm ứng vào quẻ Đoài theo cái qui trình biến hóa Càn Khôn như thế. Vậy là hoàn tất một công đoạn mà Càn (Trời), dẫu mạnh cũng xin mời nằm hết xuống dưới, Khôn (Đất), dẫu yếu cũng nổi hẳn lên trên.

Chủ Nhật, 20 tháng 4, 2014

Nguyễn Trung Thuần: VÀI NÉT VỀ NGUỒN GỐC CỦA KINH DỊCH

VÀI NÉT VỀ KINH DỊCH
Nguyễn Trung Thuần
Lời dẫn của tác giả Nguyễn Trung Thuần: Các tài liệu tìm hiểu nguồn gốc Bát quái của Trung Quốc nói rằng “Bát quái mới đầu hẳn được bắt nguồn từ Việt ngữ 粤语” , là từ dùng để chỉ một thái độ sống rạch ròi đâu ra đấy, gặp việc gì cũng bói quẻ, cho nên Bát quái có tên gọi đầy đủ trong Việt ngữ là “chư sự Bát quái” . 

Việt ngữ còn được gọi là tiếng Quảng Đông. Theo nghiên cứu của Trung Quốc, “越” và “粤” thời cổ là thông giả tự, có nghĩa là những chữ có thể thay thế cho nhau, chỉ vùng Bách Việt Hoa Nam. Từ thời cận cổ Minh, Thanh đến nay, hàm nghĩa của hai chữ mới đầu có chút khác biệt, “越” được dùng nhiều trong vùng Ngô ngữ Chiết Giang, “粤” được dùng nhiều trong vùng Lưỡng Quảng Lĩnh Nam, suốt một thời kì dài được gọi chung cho cả vùng Lĩnh Nam. 

Trong lịch sử, Lưỡng Quảng có tên gọi khác là Lưỡng Việt , Quảng Đông là Việt Đông, Quảng Tây là Việt Tây. Mãi đến thời kì Dân Quốc, “粤” mới dần thu hẹp nghĩa và được dùng làm tên gọi tắt của tỉnh Quảng Đông. Vì thế, trong các thời kì lịch sử khác nhau, “粤” được phân thành nghĩa rộng (chỉ Lĩnh Nam) và nghĩa hẹp (chỉ chỉ tỉnh Quảng Đông). Phạm vi Việt Đông và Việt Tây trong các thời kì lịch sử khác nhau dĩ nhiên cũng không giống nhau. Niên đại khởi nguồn và phát triển thành thục của Việt ngữ còn vượt xa cái thời phân chia Lưỡng Việt (Lưỡng Quảng). Cho nên, xét về bình diện văn hóa lịch sử, Việt ngữ thực sự chính là tiếng Lĩnh Nam (ngôn ngữ vùng Lĩnh Nam) theo nghĩa rộng, chứ không phải chỉ chỉ riêng tiếng Quảng Đông. Chỉ vì tiếng Anh dịch Việt ngữ thành Cantonese mà đâm ra người ta thường gọi là tiếng Quảng Đông. 

Cũng theo nghiên cứu của Trung Quốc, Lĩnh Nam theo nghĩa rộng chỉ vùng nằm ở phía nam Ngũ Lĩnh, nam Trung Quốc, và vùng Bắc Việt Nam, tương đương với Quảng Đông, Quảng Tây và toàn bộ Hải Nam, cùng một phần khu vực thuộc các tỉnh Hồ Nam và Giang Tây…, cùng vùng nằm về phía bắc Đồng bằng Sông Hồng Việt Nam. Còn theo nghĩa hẹp là chỉ chỉ mỗi vùng phần phía nam núi Ngũ Lĩnh ở Nam Trung Quốc, do từ sau đời Tống mới bắt đầu chia thành Quảng Nam Đông Lộ và Quảng Nam Tây lộ, nên Việt Nam mới tách ra, kể từ đó không còn bao gồm vùng Miền Bắc Việt Nam nữa . 

Thiển nghĩ, mặc dù còn phải đợi kiểm chứng thêm, đây sẽ là manh mối hết sức quí giá cho chúng ta trong bước đường đi tìm nguồn gốc của bộ Kinh Dịch.