Hiển thị các bài đăng có nhãn Triết học. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Triết học. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 18 tháng 7, 2023

Nguyễn Xuân Diện: KHUÊ VĂN CÁC - TRIẾT HỌC TRONG KIẾN TRÚC


KHUÊ VĂN CÁC - TRIẾT HỌC TRONG KIẾN TRÚC 
 
Kiến trúc Khuê Văn Các là quà tặng của Hoàng đế Gia Long dành cho giới sĩ phu Bắc Hà nói riêng và giới Nho sĩ nói chung của miền Bắc. 
 
Năm 1805, sau khi thống nhất đất nước, hoàng đế Gia Long đặt kinh đô tại Phú Xuân (Huế). Thăng Long mất vị trí là kinh đô, vua đổi tên chữ Hán của Thăng Long 昇龍, với nghĩa là "rồng bay lên" thành ra từ đồng âm Thăng Long 昇隆, nhưng mang nghĩa là "thịnh vượng".
 
Sau cơn binh lửa, thành quách cung điện tan tành và hoang phế, nhà vua biết rõ tâm lý hoài Lê (thương nhớ quyến luyến triều Lê) của giới nho sĩ ngoài Bắc nên ông cho xây Khuê Văn các để an lòng họ. Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành (1758-1817) được giao việc xây dựng Khuê Văn các vào mùa thu năm 1805.

Thứ Năm, 24 tháng 9, 2020

TƯ LIỆU: HÀNH TRÌNH CUỐI ĐỜI CỦA GS. TRẦN ĐỨC THẢO


HÀNH TRÌNH CUỐI ĐỜI CỦA TRẦN ĐỨC THẢO:
TỪ CĂN NHÀ NÁT PHỐ ĐỀ THÁM (SÀI GÒN) ĐẾN NGHĨA TRANG VĂN ĐIỂN (HÀ NỘI)

Nguyễn Trung Kiên

Tôi rất xúc động khi được đọc Status của TS.Nguyễn Xuân Diện về việc sửa sang phần mộ của Triết gia Trần Đức Thảo tại Khu A, Nghĩa trang Văn Điển (Hà Nội).

Là người gần 20 năm lần theo hành trình của triết gia Trần Đức Thảo, được gia đình ủy quyền công bố Di cảo của Giáo sư, tôi xin được công bố một số tư liệu (trong đó có một số tư liệu được công bố lần đầu) về hành trình cuối đời của Giáo sư Trần Đức Thảo, như sau:

1. Ngày 28/1/1991, ông Hồng Hà, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, gửi thư cho Giáo sư Trần Đức Thảo, thông báo quyết định của Ban Bí thư Trung ương Đảng đồng ý cho Giáo sư đi công tác tại Pháp 1 tháng, ngân sách do Đảng cấp [Ảnh 1]

Thứ Ba, 7 tháng 7, 2015

LỜI CẢNH TỈNH CỦA KIM ĐỊNH "ĐẠO MẤT TRƯỚC, NƯỚC MẤT SAU"

Lương Kim ĐỊnh và lỜi cẢnh tỈnh 
“ĐẠo mẤt trưỚc, nưỚc mẤt sau” 

Ngô Sỹ Thuyết

TMT: Sinh thời Triết gia Lương Kim Định đã không ít lần cảnh báo rằng “Đạo mất trước, Nước mất sau”. Tưởng  niệm 100 năm ngày sinh của Kim Định, chúng ta không khỏi rùng mình khi nghĩ về điều này!. Theo ông, Đạo ở đây là Việt Đạo, tức nền đạo lý mà tổ tiên ta đã sáng nghĩ ra và duy trì qua nhiều ngàn năm để kiến quốc và bảo quốc. Đạo đó đã được kết tinh trong nhiều điển chương văn hóa, mà nổi vượt hơn hết là Trống Đồng Đông Sơn. Đó là một lâu đài văn hóa hàm tàng tất cả đạo lý tiên tổ. Muốn cứu Nước, phải cứu Đạo. 

Lương Kim Định, người làm những công việc của bậc thánh 

Sách Trung dung viết: ”Duy thiên hạ chí thành, vi năng kinh luân thiên hạ chi đại kinh, lập thiên hạ chi đại bản. Tri thiên địa chi hóa dục, phù yên hữu sở ỷ?. Chuân chuân kỳ nhân; uyên uyên kỳ uyên; hạo hạo kỳ thiên. Cẩu bất cố thông minh thánh trí, đạt thiên đức giả, kỳ thục năng tri chi?”. (Chương 32, Trung dung Tân khảo).

Nghĩa là: Chỉ những đấng chí thánh trong thiên hạ mới có thể vì đời mà sang sửa đại kinh; mới có thể xây căn bản cho xã hội quần sinh; mới thấu rõ luật đất trời sinh hóa; những bậc ấy hết cần nương tựa. Đức nhân ngài tuyệt thế. Trí tuệ ngài thâm uyên. Tâm hồn ngài mang nhiên. Nên trừ phi là bậc thông minh thánh trí, trừ những ai đạt mức trời tuyệt mỹ mới có thể là người rõ được khúc nhôi, mới hiểu được thánh nhân – bậc đại trí và hoàn hảo.

Hà Văn Thùy: TRIẾT GIA KIM ĐỊNH VỚI MINH TRIẾT VIỆT

TRIẾT GIA KIM ĐỊNH VỚI MINH TRIẾT VIỆT 

Hà Văn Thùy 

KIM ĐỊNH (1915 - 1997)
Từ xa xưa, trong quan niệm phương Đông, Minh triết là những lời khải thị của thánh nhân. Mặt khác, đó cũng là những điều khôn sáng xuất hiện trong dân gian qua những phong dao, tục ngữ… Minh triết cơ hồ được coi như sự linh thiêng, thuộc về thần thánh. Vì vậy học thuật phương Đông chưa hề có việc khảo cứu về Minh triết. Phần nhiều, người ta chỉ đưa ra những lời nói Minh triết rồi từ đó bình, tán. Và không chỉ phương Đông, phương Tây cũng chưa có một khoa học về Minh triết thực thụ. Một định nghĩa thỏa đáng về Minh triết chưa hề có. 

Đơn thương độc mã và chịu nhiều sự đả kích, trong 50 năm qua, triết gia Kim Định đã có những khám phá độc đáo về Minh triết Việt. Tiểu luận này bước đầu trình bày những cống hiến của ông. 

I. Kim Định, người tách nước sông khỏi nước biển 

Trong những chuyện về triết gia Hy Lạp cổ Aesop, có câu chuyện kể rằng, ông thách thức đối thủ của mình tách nước sông khỏi nước biển. Đám quý tộc thành Samos thua cuộc. Tuy nhiên, tách nước sông khỏi nước biển trở thành lời thách đố mọi thời đại.

TƯỞNG NHỚ TRIẾT GIA KIM ĐỊNH NHÂN KỶ NIỆM 100 NĂM NGÀY SINH

 Quang cảnh hội thảo tưởng niệm. Ảnh: Trần Tố Loan

TƯỞNG NIỆM 100 NĂM NGÀY SINH 
CỐ TRIẾT GIA LƯƠNG KIM ĐỊNH (15.06.1915- 15.06.2015)

Ngày 6 tháng 7 vừa qua, Trung tâm Nghiên cứu văn hóa Minh Triết tổ chức hội thảo tưởng niệm nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của học giả Lương Kim Định
(15.06.1915- 15.06.2015). Đông đảo các nhà khoa học, các nhân sĩ trí thức đã tới dự và phát biểu. 

Thứ Bảy, 18 tháng 4, 2015

Cà phê Thứ Bảy: "DIỆN MẠO TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY HIỆN ĐẠI"

 
SALON VĂN HÓA CÀ PHÊ THỨ BẢY

THƯ MỜI

Các anh chị và các bạn thân mến.

Vào 14h30 chiều thứ bảy ngày 18/04/2015,,
tại quán CÀ PHÊ THỨ BẢY, số 3A Ngô Quyền, Hoàn Kiếm, Hà Nội

sẽ diễn ra buổi “cà phê” với PGS,TS ĐỖ MINH HỢP về cuốn sách
“DIỆN MẠO TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY HIỆN ĐẠI”
 
Chủ trì: TS Ngô Hương Giang

Rất mong anh chị và các bạn đến tham dự.

Hân hạnh được đón tiếp.
Giám đốc Cafe Thứ Bảy: Dương Thụ 
___________
.

Chủ Nhật, 20 tháng 4, 2014

Nguyễn Trung Thuần: VÀI NÉT VỀ NGUỒN GỐC CỦA KINH DỊCH

VÀI NÉT VỀ KINH DỊCH
Nguyễn Trung Thuần
Lời dẫn của tác giả Nguyễn Trung Thuần: Các tài liệu tìm hiểu nguồn gốc Bát quái của Trung Quốc nói rằng “Bát quái mới đầu hẳn được bắt nguồn từ Việt ngữ 粤语” , là từ dùng để chỉ một thái độ sống rạch ròi đâu ra đấy, gặp việc gì cũng bói quẻ, cho nên Bát quái có tên gọi đầy đủ trong Việt ngữ là “chư sự Bát quái” . 

Việt ngữ còn được gọi là tiếng Quảng Đông. Theo nghiên cứu của Trung Quốc, “越” và “粤” thời cổ là thông giả tự, có nghĩa là những chữ có thể thay thế cho nhau, chỉ vùng Bách Việt Hoa Nam. Từ thời cận cổ Minh, Thanh đến nay, hàm nghĩa của hai chữ mới đầu có chút khác biệt, “越” được dùng nhiều trong vùng Ngô ngữ Chiết Giang, “粤” được dùng nhiều trong vùng Lưỡng Quảng Lĩnh Nam, suốt một thời kì dài được gọi chung cho cả vùng Lĩnh Nam. 

Trong lịch sử, Lưỡng Quảng có tên gọi khác là Lưỡng Việt , Quảng Đông là Việt Đông, Quảng Tây là Việt Tây. Mãi đến thời kì Dân Quốc, “粤” mới dần thu hẹp nghĩa và được dùng làm tên gọi tắt của tỉnh Quảng Đông. Vì thế, trong các thời kì lịch sử khác nhau, “粤” được phân thành nghĩa rộng (chỉ Lĩnh Nam) và nghĩa hẹp (chỉ chỉ tỉnh Quảng Đông). Phạm vi Việt Đông và Việt Tây trong các thời kì lịch sử khác nhau dĩ nhiên cũng không giống nhau. Niên đại khởi nguồn và phát triển thành thục của Việt ngữ còn vượt xa cái thời phân chia Lưỡng Việt (Lưỡng Quảng). Cho nên, xét về bình diện văn hóa lịch sử, Việt ngữ thực sự chính là tiếng Lĩnh Nam (ngôn ngữ vùng Lĩnh Nam) theo nghĩa rộng, chứ không phải chỉ chỉ riêng tiếng Quảng Đông. Chỉ vì tiếng Anh dịch Việt ngữ thành Cantonese mà đâm ra người ta thường gọi là tiếng Quảng Đông. 

Cũng theo nghiên cứu của Trung Quốc, Lĩnh Nam theo nghĩa rộng chỉ vùng nằm ở phía nam Ngũ Lĩnh, nam Trung Quốc, và vùng Bắc Việt Nam, tương đương với Quảng Đông, Quảng Tây và toàn bộ Hải Nam, cùng một phần khu vực thuộc các tỉnh Hồ Nam và Giang Tây…, cùng vùng nằm về phía bắc Đồng bằng Sông Hồng Việt Nam. Còn theo nghĩa hẹp là chỉ chỉ mỗi vùng phần phía nam núi Ngũ Lĩnh ở Nam Trung Quốc, do từ sau đời Tống mới bắt đầu chia thành Quảng Nam Đông Lộ và Quảng Nam Tây lộ, nên Việt Nam mới tách ra, kể từ đó không còn bao gồm vùng Miền Bắc Việt Nam nữa . 

Thiển nghĩ, mặc dù còn phải đợi kiểm chứng thêm, đây sẽ là manh mối hết sức quí giá cho chúng ta trong bước đường đi tìm nguồn gốc của bộ Kinh Dịch.