Thứ Hai, 18 tháng 9, 2017

THÓI HỌC PHIỆT TRONG HỌC THUẬT NƯỚC TA TỪ ĐÂU RA?(*)


THÓI HỌC PHIỆT TRONG HỌC THUẬT NƯỚC TA TỪ ĐÂU RA?(*) 

Thái A 

Trước tiên xin giải thích qua về danh từ HỌC PHIỆT. Danh từ này là một từ Hán Việt, có lẽ do ta tự tạo ra vì trong từ điển Hán không thấy có. Trong Từ điển Hán chỉ có các từ: quân phiệt và tài phiệt. Người dùng từ HỌC PHIỆT đầu tiên tôi đọc thấy trong bài báo của cụ Phan Khôi từ những năm đầu thế kỷ 20. Vậy có thể do cụ đặt ra vì cụ là người tinh thông cả Hán học, Tây học và am hiểu sâu sắc tiếng Việt. Vậy nghĩa của HỌC PHIỆT là gì? Học thì ai cũng quen rồi. Chỉ còn PHIỆT nghĩa là gì? Từ điển Hán định nghĩa, dịch ra là: Chỉ một nhân vật hoặc tập đoàn có địa vị chi phối đặc biệt về một mặt nào đó trong xã hội. ( Cấu tạo chữ Hán theo kiểu ''hội ý'' gồm chữ MÔN (cửa) chùm lên chữ PHẠT(chặt, đốn). Chắc ngụ ý ai vào cửa, ta cũng hạ gục ngay?)


Vậy HỌC PHIỆT là một người hoặc nhóm người cậy có quyền thế, địa vị, bằng cấp, học vấn hơn người, tự coi ý kiến nhận định của mình về một vấn đề cụ thể nào đó trong học thuật, trong khoa học là chân lý, phủ nhận những ý kiến của người khác đã vạch ra chỗ sai sót trong nhận định đó. Ngôn ngữ dân gian gọi là "cả vú lấp miệng em'', nói theo ''chữ'' là ''mục hạ vô nhân''! 

Vậy thói xấu gọi là HỌC PHIỆT khá phổ biến trong không khí phản biện học thuật ở nước ta do đâu mà có?

Theo suy nghĩ của tôi nó bắt nguồn từ lối sống theo trật tự tôn ty, trên dưới, được quy định cụ thể ở hệ thống danh từ nhân xưng của tiếng Việt là: ông, bà, chú bác, cô dì, anh em...trong dòng tộc, nhằm để xác định cụ thể,vị trí, và mối quan hệ thân thích của từng cá nhân trong hệ thống gia tộc. Điều này đã trở thành phong tục, lễ nghĩa của nước ta từ xưa. Hệ thống danh từ xác định quan hệ thân sơ trong gia tộc này phát huy ảnh hưởng ra quan hệ xã hội rộng lớn, khi tổ chức nhà nước Phong kiến ra đời theo từng dòng họ thống trị xã hội. Ảnh hưởng sâu đậm đến mức, mọi người mang cách xưng hô trong gia tộc ra cả quan hệ không hề thân thuộc ngoài xã hội(!) Những danh từ như cụ, ông bà, chú bác, cô cậu, anh em được mang ra xưng hô trong quan hệ xã hội, làm luôn chức năng của đại từ nhân xưng gồm 3 ngôi ( thứ nhất - thứ hai- thứ ba ). Dùng quen thuộc đến mức nếu không được học hành đến nơi đến chốn để hiểu về ngôn ngữ nói chung hay tiếng việt nói riêng, chính tôi cũng như hầu hết người dân không phân biệt được hệ thống từ xưng hô trong tiếng Việt lúc nào đóng vai là danh từ, lúc nào là đại từ nhân xưng! Trong gia tộc, thì từ lúc tập nói, đứa trẻ đã được ông bà cha mẹ dạy cho cách xưng hô theo vai vế như vậy trong gia tộc cho đứa trẻ. Cách xưng hô này là cố định không thể thay đổi với từng cá thể trong gia tộc. Nhưng ngoài xã hội thì không định trước như vậy. Tiếng nước ngoài đều phải có đại từ nhân xưng cho các "ngôi". Ở tiếng Việt dùng luôn những danh từ xưng hô có sẵn trong hệ thống gia tộc làm chức năng này. Vì vậy người trẻ thì tự mình nhìn người đứng trước mặt mình (tức ngôi thứ 2) khi gặp, hoặc quan hệ, áng xem tùy theo tuổi tác già hơn mình hay trẻ hơn, là nam hay nữ, mà tự chọn cho mình từ xưng hô theo ngôi thứ trên dưới cho hợp lý.(Chẳng là theo lễ nghĩa của ta, người trẻ phải chào hỏi trước người hơn tuổi mình ) Người già cũng tự làm như vậy.

Kể ra cách xưng hô theo lối mượn các danh từ chỉ ngôi thứ trong gia tộc làm luôn chức năng đại từ nhân xưng ngoài xã hội vô tình làm xóa nhòa gianh giới họ hàng gia tộc với người xa lạ, tạo ra không khí, tình cảm thân thuộc gần gũi trong cơ quan hoặc môi trường giao tiếp giữa mọi người với nhau ngoài xh. Mặt khác nó cũng tạo ra tâm lý mặc cảm trên dưới thiếu bình đẳng trong gia tộc vào không khí làm việc tập thể ở cơ quan nhà nước hoặc các đơn vị kinh doanh sx, ngoài XH. Người lãnh đạo trong cơ quan mang tâm lý và thái độ gia trưởng trong gia tộc để đối xử với cấp dưới và nhân viên của mình. Trong SX kinh doanh cũng vậy. Thủ trưởng hay người có tuổi tác, có địa vị, có bằng cấp, tự cho mình là người tài giỏi hơn người về các mặt khó mà thừa nhận tiếng nói của kẻ dưới, khi người đó không có địa vị , quyền thế, bằng cấp, hoặc nổi tiếng như mình. Họ tự coi ý kiến hoặc quan điểm của mình là CHÂN LÝ. Đó chính là "phép" ĐỘC QUYỀN CHÂN LÝ. Thậm chí còn lên mặt tỏ ra coi thường mọi người, coi thường quần chúng. Thói sống gia trưởng từ trong gia tộc đã trở thành nếp sống ở cơ quan công quyền, và ở cả các đoàn thể và mọi tổ chức XH, ở mọi nơi mọi lúc. Thái độ sống đó trong học thuật gọi đó là HỌC PHIỆT. Lớp người trẻ tuổi do sống trong không khí xưng hô theo trật tự tôn ti trên dưới như vậy, dần cũng quen với tâm lí phục tùng, trở thành nô lệ, thậm chí trở nên tự ti, thiếu tự tin và tự trọng, còn sùng bái cả những điều không đáng sùng bái, đến mức coi là thần tượng, mong mình dựa ''bóng'' để được ăn theo... Đây chính là mặt tiêu cực làm cho người VN quen với không khí bất bình đẳng, thiếu dân chủ, chịu nhẫn nhục khi kẻ có thế lực áp chế. Quan hệ XH MẤT DÂN CHỦ và BÌNH ĐẲNG cũng làm mất luôn TỰ DO, không thể phát huy được sức sáng tạo của mọi người để xuất hiện những TÀI NĂNG! Vì thế nó kìm hãm sự phát triển mọi mặt của XH. Đất nước ta tiến ỳ ạch mãi vẫn lạc hậu, không theo kịp với thế giới, phải châng cũng bởi do toàn xã hội còn mang nặng thứ tôn ti vớ vẩn theo kiểu đại gia tộc này chăng? Gọi cả Chủ tịch nước là BÁC là một sự lạ! Thế giới chắc không tài nào hiểu nổi! Nhà thơ Tố Hữu từng có câu thơ: " Người là CHA là BÁC là ANH'' kia mà...

Để loại dần thói HỌC PHIỆT trong học thuật và nói rộng ra là thói ĐỘC QUYỀN CHÂN LÝ trong các lĩnh vực khác ở xã hội ta, đương nhiên là phải xây dựng và tổ chức một XH thật sự DÂN CHỦ TỰ DO và BÌNH ĐẲNG. Nhưng trước tiên cần làm ngay một việc tưởng là nhỏ, nhưng theo tôi cần làm và cũng dễ dàng là: Nhà nước nên quy định ngay cách xưng hô về đại từ nhân xưng ở các cơ quan nhà nước đầu tiên, để tạo dần thói quen ngoài xã hội, gây tâm lý bình đẳng cho mọi người nhất là cho tuổi trẻ là lớp người còn có cơ hội cống hiến sức lực và tài năng cho đất nước lâu dài. Để họ thấy rõ vị trí của họ là bình đẳng, không mặc cảm lép vế tuổi tác, tự tin phát huy óc sáng tạo, tìm ra những sáng kiến phát mính mới, cống hiến cho đất nước . Cụ thể hiện nay, có thể vẫn giữ ngôi 2 (người trực tiếp đối diện với mình) xưng hô theo tuổi tác.( Cụ, ông, bà, bác, anh, chị..) Người đứng đầu cơ quan gọi là Thủ trưởng như vẫn quen gọi . Riêng ngôi thứ nhất chỉ dùng một từ TÔI cho cá nhân và CHÚNG TÔI cho tập thể, để thể hiện sự bình đẳng.
15 - 9 - 2017
T. A
_____________
* Bài này tôi viết ra do nhân chuyện 2 tuần nay trên mạng có nhiều bài viết của các vị GS, TS chẳng biết có phải chuyên ngành ngôn ngữ tiếng Việt hay không, nhưng đã lớn tiếng bênh che những thiếu sót rõ ràng, trong cuốn Từ điển tiếng Việt của Nhà giáo nhân dân Nguyễn Lân; đã từng có người chỉ ra trên báo chí trước đây còn bị cụ NL mắng là ''vô văn hóa''(!) Các GS và TS trên cũng không quên chê bai cuốn sách khảo cứu khá công phu của tác giả Hoàng Tuấn Công, thuộc lớp hậu sinh đã vạch ra những thiếu sót đó.

Tranh chế Hoàng Tuấn Công của Trương Tuần

5 nhận xét :

  1. Học phiệt có trong "Hán ngữ từ điển"

    漢語詞典
    學閥 (học phiệt)
    指憑借勢力把持教育界或學術界的人: Chỉ việc dựa vào thế lực (nào đó) kiểm soát những hoạt động của ngành giáo dục hoặc khoa học, kỹ thuật...
    Đường dẫn đến trang "Hán ngữ từ điển online: https://tw.ichacha.net/hy/%E5%AD%B8%E9%96%A5.html
    ĐVS

    Trả lờiXóa
  2. Chung quy cũng tại tính háo danh mà ra.

    Trả lờiXóa
  3. 'Mục hạ vô nhân' có thể hiểu là người mù được không thưa ông T.A. Người mù thì không nhìn thấy ai, không nhìn thấy gì. Tôi xin lỗi các vị không may kiếm thị.

    Trả lờiXóa
  4. Quy kết nguyên nhân của thói học phiệt cho tập quán xưng hô của người Việt là hoàn toàn phiến diện do đó là sai lầm, tôi nghĩ vậy. Thể chế phong kiến cai trị nước Việt trong nhiều thế kỷ, do đó việc xưng hô theo những quy tắc khắt khe, hạn chế sự tự do, tự tin của con người, nhất là lớp nười trẻ hẳn là nặng nề hơn hiện tại. Nhưng ta chưa thấy sử sách ghi lại câu chuyện nào thể hiện thói HỌC PHIỆT (như cách tg bài này nói)như thờ hiện tại mà biểu hiện sinh động là câu chuyện về Từ điển Mguyễn Lân. Thể chế phong kiến thực chất cũng là một thể chế 'chuyên chế'- Quân chủ chuyên chế- như vậy cũng có thể nói sự chuyên chế cũng không chắc chắn dẫn đến thói 'Học phiệt'. Chỉ có thể nói thể chế chuyên chế cùng với lối xưng hô theo thứ bậc làm trầm trọng thêm sự thiếu tự tin của tầng lớp dưới và người trẻ tuổi, thói a dua bầy đàn của số đông, sự ngạo mạn của kẻ bề trên hay người lớn tuổi vv...

    Theo tôi, hiện tượng học phiệt chỉ xuất hiện ở nước Việt thời hiện đại, đặc biệt gắn liền với thời kỳ đổi mới về kinh tế dẫn đến việc tăng trưởng quá nhanh những "đại gia", ' giáo sư", "nhà nghiên cứu", "tiến sỹ", "thạc sỹ", "học sinh giỏi toàn diện" vân vân và vv...

    Trong đời sống kinh tế, khi nhìn những "đại gia" giàu có nhanh chóng và bất thường người ta dễ dàng quy cho họ là "giàu xổi" khi xem xét thực tài cũng như nguồn nào giúp họ giàu lớn rất bất thường. Tương tự, tôi nghĩ, tâm lý muốn đạt tới "tài năng xổi", 'hiểu biểt xổi", rồi "uyên bác xổi", vv... sẽ hình thành một khát khao "sáng chế" hay tạo ra một "cơ chế" của HỌC PHIỆT.

    Tôi nghĩ yếu tố tâm lý đặc thù dẫn tơi hiện tượng học phiệt thời nay là khá dễ dàng để nhận thấy. Câu hỏi còn cần phải trả lời để khẳng định cho tính chất "đương đại" của hiện tượng này là : tại sao ở các thể chế Quân chủ chuyên chế hiện tượng học phiệt không nảy sinh và phát triển ở nước Việt?


    Trả lờiXóa
  5. Học phiệt có nhiều loại, loại có học thì đã rõ như bài viết, nhưng cũng có loại học phiệt xuất phát từ vô học nhưng do có quyền lực nên cũng "học phiệt" không kém người có học. Loại "học phiệt" này dân gian gọi là "nói ngang ba làng không cãi lại" không chấp nhận tranh luận, đối thoại, chỉ bắt mọi người quán triệt và chấp hành vô điều kiện. Loại này đã, đang và sẽ còn thao túng dài dài.

    Trả lờiXóa