Thứ Tư, 5 tháng 9, 2012

"KHAI TỬ" CẢM XÚC NGÀY KHAI TRƯỜNG

'Khai tử' cảm xúc ngày khai trường 


VNN - Có lẽ hơn mười năm trở lại đây, không học sinh nào là không biết tập dượt khai giảng. Hoạt động này thậm chí đã trở thành một bộ phận không thể tách rời trong các hoạt động giáo dục của nhà trường.

Niềm vui trong ngày khai giảng. (Ảnh có tính chất minh họa). Văn Chung

Ngày 8/8/2012, Sở GD-ĐT Hà Nội đã yêu cầu các đơn vị, trường học không được yêu cầu học sinh tập dượt khai giảng quá nhiều trước ngày khai giảng.

Thế nào là tập quá nhiều? Tập bao nhiêu thì đủ? Đủ so với cái gì?

Trả lời câu hỏi "Ai khai sinh ra nó và để nó tồn tại"? thì công văn gần như đã gián tiếp trả lời: Không phải Sở. Nhưng thấy các trường yêu cầu các học sinh tập dượt đến bở hơi tai, đến chán chường cái chuyện đứng ngay hàng, nghiêm nghỉ,…mới có cái công văn trên yêu cầu các trường bớt lại. Cũng không phải là cấm.

Vậy tập dượt để làm gì mà các ban giám hiệu ở các trường hăng hái đến vậy? Có lẽ vì thói quen trong nếp nghĩ muốn thấy một buổi lễ khai giảng chỉn chu, nghiêm túc, đàng hoàng. Nhất là trong buổi lễ quan chức cấp trên về dự nữa.

Cũng chẳng có gì đáng nói nếu muốn làm tốt một việc gì đó. Song với việc tổ chức tập dượt đã thành quen lệ nhiều năm, những người làm giáo dục có lẽ đã bỏ quên một phần quan trọng trong sự nghiệp giáo dục của nhà trường, đó là cảm xúc của học trò.

Cảm xúc gì ở đây, khi lễ khai giảng chỉ là buổi diễn lại? Đánh trống khai trường cái gì đây khi mà trường đã học hơn nửa tháng rồi?

Nói về cảm xúc ngày khai giảng, không ai là không nhớ tác phẩm: "Tôi đi học" của nhà thơ, nhà văn Thanh Tịnh. Những cảm xúc rưng rưng mà ai đã đọc một lần gần như không thể quên được trong cả cuộc đời.

“Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường.”

“Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học.”

Vẫn biết cái cảm xúc lần đầu tiên đi học, là một cảm xúc mãnh liệt, hơn hẳn cái cảm xúc lớp 5 lên lớp 6, lớp 9 lên 10, hay là cảm xúc 10 lên 11 chẳng hạn. Song cảm xúc là cảm xúc, làm sao con người không có được. Nghe lời bài hát “Nỗi buồn hoa phượng” của nhạc sỹ Thanh Sơn, ai bảo rẳng 3 tháng hè chẳng có gì để nói?

“Mỗi năm đến hè lòng man mác buồn,
Chín mươi ngày qua chứa chan tình thương
Ngày mai xa cách hai đứa hai nơi,
Phút gần gủi nhau mất rồi
Tạ từ là hết người ơi!”
“Giã biệt bạn lòng ơi! Thôi nay xa cách rồi
Kỷ niệm mình xin nhớ mãi,
Buồn riêng một mình ai
Chờ mong từng đêm gối chiếc
Mối u hoài này ai có hay”

Cứ cho đây là cái cảm xúc của trai gái chớm yêu nhau. Nhưng hoạt động tình cảm, tâm lý của học sinh trong 3 tháng hè đâu phải có chừng đó là hết. Còn bạn bè, ông bà, quê hương…chỉ có điều chưa có ai nói giùm ra mà thôi.

Việc tập dượt khai giảng, quả thực đã giết chết những cảm xúc đầu đời đáng yêu này một cách... tưởng chừng như vô hại mà nguy hai. Chẳng có cảm xúc gì nữa. Khai giảng là trách nhiệm đúng giờ, đứng ngay hàng, im lặng… Mà đúng ra là trách nhiệm của người lớn, chứ chẳng phải của học trò.

Nếu Thanh Tịnh ngày xưa cũng tập dượt khai giảng như bây giờ, thì liệu ông có viết lên nổi áng văn bất hủ đó? Người ta muốn thấy một lứa học trò hàng lối xộc xệch, nhưng đầy cảm xúc đáng yêu, hay người ta muốn thấy một lớp học trò hàng lối ngay ngắn thẳng tắp, nhưng đầu óc không cằn như một con rô-bốt?

Liệu có nói quá không, khi cho rằng đây là một biểu hiện của bệnh thành tích? 

Đào Văn (Phú Yên)

Nguồn: VietNamnet.

TẤT CẢ LÀ TẠI TÔI ! KHÔNG LIÊN QUAN GÌ ĐẾN CÁC LÃNH ĐẠO

Vậy là vụ phá hoại chùa Trăm Gian đã đi đến hồi kết. Vụ nào cũng vậy, ở dưới gầm trời này, cứ đến hồi quy trách nhiệm là hồi kết của một vụ. Cuối cùng, vụ nào cũng vậy, cứ đến lúc quy trách nhiệm là phải có một con tốt được đưa ra để gánh hết mọi sự. Người ta đang sờ đến Ông Giám đốc Sở VH TT và Du Lịch Hà Nội thì ngay trong buổi họp báo, ông đã né được những đường đao sắc lẻm của cánh ký giả thiện nghệ. Lãnh đạo Sở, lãnh đạo Thành phố, Cục Di sản, Bộ Văn hóa...tất cả đều đã được che chắn bằng các tấm khiên vững chãi.

Chiêu cuối cùng, trong chương trình Thời Sự VTV1, ông Trần Lâm Biền được đưa ra để nói rằng: Mới chỉ động đến lớp kiến trúc thể kỷ 19 thôi, còn các kiến trúc trước đó vẫn còn nguyên. Vậy là xong! 

Tưởng diễn đến vậy là xong! Ai dè, sáng nay, chiêu nữa được đưa ra: Sư trụ trì chùa Trăm Gian đã nhận với làng hết mọi tội lỗi, mà không đổ cho vấy cho ông Hương, cụ Lý, ông Chánh, cụ Đồ: "Tại tôi tất! Không liên quan gì đến các lãnh đạo xã và huyện". Câu ấy có nghĩa là: "Tại tôi tất! Không liên quan gì đến các lãnh đạo xã và huyện, và thành phố, và Bộ". Phủi tay! Xong! 

Dẫu có bực lắm, vẫn phải lên tiếng khen thầy rằng: Lúc tự hào về di sản Chùa Trăm Gian (báu vật quốc gia) thì từ xã đến huyện, thành phố; từ Cục đến Bộ đều vơ cả vào. Đến khi chùa gặp cơn ba đào của dư luận, thì một mình Thầy đem thân ra để gánh.

Bạch thầy, biết tiếng thầy đã lâu, nhưng thấy thầy khóc, cũng thương thầy lắm lắm!
 
Bạch thầy! Thầy nhận hết về mình như thế cũng là phải! "Nắm thằng có tóc chứ ai nắm kẻ trọc đầu"! Đám có tóc chạy tháo thân cả rồi, chỉ còn mình thày chẳng bỏ chùa mà chạy được, đầu trọc lốc bình vôi đứng ngẩn giữa sân chùa thì ai nỡ lòng nào phạt vạ thầy nữa! Thầy ơi, cứ gắng chịu điều tiếng dăm bữa nửa tháng là êm chuyện thôi! 

"Của chùa mất một đền mười", thầy cứ yên tâm, thầy nhé, nhé!
Sư trụ trì chùa Trăm Gian: “Tại tôi tất”

Sư trụ trì chùa Trăm Gian Thích Đàm Khoa đã nhận tất cả trách nhiệm trong sự việc vi phạm vừa qua tại di tích lịch sử cấp quốc gia này trong cuộc họp tại địa phương chiều 4/9.


 >>  Phá chùa Trăm Gian: “Trách nhiệm có ở các nơi!”
 >>  Sở VH-TT&DL Hà Nội nói gì về vụ tháo dỡ chùa Trăm Gian?
 >>  Đề nghị đình chỉ thi công chùa Trăm Gian

Cuộc họp “Bàn thực hiện thông báo kết luận về tình hình chùa Trăm Gian của Chủ tịch UBND TP Hà Nội” do Huyện ủy, UBND huyện Chương Mỹ tổ chức. Cuộc họp có sự tham dự của Bí thư huyện ủy Chương Mỹ, Chủ tịch huyện Chương Mỹ, Trưởng ban Quản lý di tích chùa Trăm Gian và sư trụ trì chùa Trăm Gian.

Sư Thích Đàm Khoa đã khóc trong cuộc họp, thừa nhận những sai phạm trong việc tháo dỡ, hạ giải và xây mới hai hạng mục là gác khánh và nhà tổ trong thời gian qua.

.
Sư trụ trì chùa Trăm Gian: Tại tôi tất
"Vì lời kêu cứu của tôi suốt 4 năm trời không được đáp ứng nên tôi cũng đành liều" 
- Sư thầy giải thích.
.
Sư thầy khẳng định: “Tại tôi tất. Không liên quan gì đến các lãnh đạo xã và huyện. Vì lời kêu cứu của tôi suốt 4 năm trời không được đáp ứng nên tôi cũng đành liều. Nếu chờ thì không biết chờ đến bao giờ”.

RFI: DÂN OAN TRUNG QUỐC NỔ BOM TỰ SÁT TẠI CƠ QUAN CHÍNH QUYỀN

Dân làng Trung Quốc nổ bom tự sát tại cơ quan chính quyền

.

Nông dân Trung Quốc phản đối việc trưng thu nhà đất vào tháng 12/2011.
Nông dân Trung Quốc phản đối việc trưng thu nhà đất vào tháng 12/2011.
Reuters

Tú Anh
 
Hôm nay, 03/09/2012, đã xảy ra một vụ nổ bom tự sát tại trụ sở chính quyền Vinh Thành, tỉnh Sơn Đông. Theo Tân Hoa Xã , vụ nổ làm tác giả là một nông dân chết tại chổ và gây thương tích cho 6 người khác. Trên mạng internet, nhiều thông điệp chia buồn và vinh danh hành động tuyệt vọng của người nông dân bị áp bức này.

Theo Tân Hoa xã , do bất mãn, một người dân khiếu kiện đã dùng bom tự sát ngay trong tòa nhà chính quyền địa phương thành phố Đằng Gia, huyện Vinh Thành, tỉnh Sơn Đông vào ngày hôm nay. Người mang bom, một nông dân tên Khúc Hoa Cường, chết tại chổ, 6 người khác bị thương.

Hãng tin chính thức cùa Trung Quốc không cho biết chi tiết nguyên nhân nguồn cội của vụ việc oan ức này, cũng như không nói rõ những những người bị thương có phải là cán bộ chính quyền hay không.

AFP cho biết là hành động tuyệt vọng của nông dân này đã gây xúc động trong công luận . Nhiều blogger ca tụng hành động « can đảm » của nạn nhân và lên án việc thủ tục « kiến nghị » trong chế độ Trung Quốc không bao giờ được cấp trên xem xét giải quyết cho dân. Chính quyền cấp địa phương còn sử dụng các biện pháp « côn đồ » để ngăn chận dân chúng đưa đơn tố giác lên cấp cao hơn.Chính lý do này đã thúc đẩy nhiều người dân nổi loạn.

Một blogger tên Nizhigala vinh danh « một người bạn can đảm dám nổi dậy ». 

Tại Trung Quốc, chuyện dân chúng bất mãn chế độ là điều cấm kỵ. Trong bản tin thứ hai của Tân Hoa Xã về vụ nổ bom tự sát nói trên, từ « dân khiếu kiện bất mãn » đã bị xóa bỏ.

Nguồn: RFI Việt ngữ.

TIN NÓNG: ĐÃ BẮT ĐƯỢC DƯƠNG CHÍ DŨNG

Đã bắt được Dương Chí Dũng

TTO TIN NÓNG - Ngày 5-9, lãnh đạo Tổng cục Cảnh sát phòng chống tội phạm thuộc Bộ Công an cho biết đã bắt được bị can Dương Chí Dũng (55 tuổi, trú tại phường Thành Công, Hà Nội - nguyên cục trưởng Cục Hàng hải VN).

Được biết Dương Chí Dũng bị bắt tại 1 nước trong khối ASEAN và được Cảnh sát quốc tế Interpol di lý về Việt Nam. Trước đó ngày 19-5, Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an đã ra quyết định truy nã bị can Dương Chí Dũng.

Quyết định truy nã được thông báo đến cơ quan công an các địa phương, các đơn vị của bộ để bắt giữ khi phát hiện.

Trước đó, mở rộng điều tra vụ án tham nhũng xảy ra tại Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines), cơ quan điều tra đã khởi tố bị can, ra lệnh khám xét, bắt tạm giam đối với ông Dương Chí Dũng. Tuy nhiên, khi cơ quan điều tra tiến hành tống đạt quyết định khởi tố bị can và thực hiện lệnh khám xét, bắt tạm giam thì ông Dương Chí Dũng không có mặt tại nhà. 

Ngày 18-5, ông Dũng cũng không có mặt ở cơ quan để làm việc. Sau khi xác minh, cơ quan điều tra xác định bị can này đã bỏ trốn khỏi nơi cư trú nên ra quyết định truy nã, thông báo tới cơ quan công an các địa phương để truy bắt.

Cùng bị khởi tố với ông Dương Chí Dũng còn có hai bị can bị bắt tạm giam gồm ông Mai Văn Phúc (54 tuổi, trú ở Thụy Khuê, quận Tây Hồ, Hà Nội - phó vụ trưởng Vụ Vận tải, Bộ GTVT, nguyên tổng giám đốc Vinalines) và Trần Hữu Chiều (60 tuổi, trú ở Thái Thịnh, quận Đống Đa - phó tổng giám đốc, phó bí thư Đảng ủy Vinalines). 

Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bắt tạm giam một loạt cán bộ thuộc Vinalines về hành vi “tham ô tài sản” gồm các ông Trần Hải Sơn (52 tuổi, trú tại TP.HCM - tổng giám đốc Công ty TNHH sửa chữa tàu biển Vinalines), Trần Văn Quang (37 tuổi, trú tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu - trưởng phòng kế hoạch Công ty TNHH sửa chữa tàu biển Vinalines). Ngoài ra còn có hai bị can Trần Bá Hùng (33 tuổi, trú tại tỉnh Khánh Hòa - phó trưởng bộ phận vỏ của Công ty TNHH Hyundai Vinashin); Phạm Bá Giáp (40 tuổi, trú tại tỉnh Khánh Hòa - giám đốc Công ty TNHH Nguyên Ân) cũng bị bắt tạm giam về hành vi “tham ô tài sản”. 

Cơ quan điều tra xác định các bị can này đã tham ô trong quá trình sửa chữa ụ nổi No83M do Công ty TNHH sửa chữa tàu biển Việt Nam nhập về. Cụ thể, các bị can tại Công ty TNHH sửa chữa tàu biển Việt Nam đã gửi giá nguyên vật liệu sửa chữa nhằm chiếm đoạt tiền của Nhà nước. Theo đó, mỗi ký thép hàn, các bị can Sơn và Quang yêu cầu ông Trần Bá Hùng cộng thêm 10.000 đồng để lấy tiền. Ngoài ra, các bị can này còn nâng khống khối lượng sắt hàn trên hồ sơ quyết toán nhằm tham ô tài sản của Nhà nước. 

Để rút được tiền chuyển cho bị can Sơn và Quang, bị can Trần Bá Hùng đã thông qua Công ty TNHH Nguyên Ân do Phạm Bá Giáp làm giám đốc để làm hợp đồng, chứng từ thanh toán, quyết toán. Qua đó, bị can Trần Bá Hùng đã rút tiền và chuyển hơn 1,5 tỉ đồng cho bị can Trần Văn Quang, chi cho Phạm Bá Giáp 50 triệu đồng để thu lợi bất chính.
>> TTO tiếp tục cập nhật
MINH QUANG 

Nguồn: Tuổi Trẻ 
Luôn bấm F5 để xem bản cập nhật của báo Tuổi trẻ.

Thứ Ba, 4 tháng 9, 2012

NHÂN NGÀY KHAI TRƯỜNG, LẬT LẠI HỒ SƠ MỘT VỤ BUÔN NGƯỜI

Bi kịch từ một vụ buôn người

Thứ ba 28/08/2012 05:00 

15 năm về trước, một cô giáo dạy toán bị lừa bán sang Trung Quốc. Trốn thoát khỏi “địa ngục trần gian” chân ướt chân ráo về nước, chưa hoàn hồn thì đã bị cơ quan tố tụng dưới áp lực cần phải sớm tìm ra thủ phạm, làm hồ sơ qua quýt rồi vội vã kết án, tống người vô tội vào tù. 

Sự tắc trách của cơ quan tố tụng đã biến cả gia đình cô rơi vào thảm kịch mà đến nay, nỗi đau ấy đã trở thành gánh nặng, ám ảnh cả cư dân TP.Bắc Giang.

Chị Đỗ Thị Hằng. Ảnh: N.C.
Kỳ 1: Những mảnh đời vỡ vụn

Gần 20 năm làm báo, chứng kiến không biết bao nhiêu sự trớ trêu của phận người; ngồi hàng trăm phiên tòa, tham dự hầu hết các vụ trọng án của đất nước trong vòng 10 năm trở lại đây, nhưng khi đọc xong hồ sơ về vụ án Đỗ Thị Hằng (sinh năm 1953, trú tại số 21, tổ 12 phường Mỹ Độ, TP.Bắc Giang) tôi không thể có lời nào hơn để diễn tả về vụ án bằng 2 từ: Bi kịch! 

Nạn nhân hóa thành thủ phạm

Để tiện cho độc giả theo dõi sự việc, chúng tôi xin trích lại nội dung bản án số 72/HSST ngày 24.3.1998 của TAND tỉnh Bắc Giang do Thẩm phán Nguyễn Tư Khoa làm chủ tọa.

SÁNG 4.9.2012: BÀ CON VĂN GIANG ĐẾN CẢM ƠN MẶT TRẬN TỔ QUỐC VN

Sáng nay, 4-9-2012 hàng trăm bà con nông dân Văn Giang đến Văn phòng tiếp dân của Mặt Trận Tổ Quốc VN tại số 46 Tràng Thi để cám ơn MTTQ VN.

Trong thời gian qua MTTQ VN đã tiếp nhận đơn thư khiếu nại của bà con và đứng về phía lẽ phải để phản biện báo cáo của Thanh tra Chính phủ có nhiều điểm chưa hợp lý, bảo vệ cái sai trong các hoạt động của dự án Ecopark. Do bị nhiều ban ngành cũng đã không đồng tình với báo cáo của Thanh tra Chính phủ về dự án Ecopark tại Văn Giang nên Thanh tra Chính phủ phải làm lại báo cáo thanh tra trên.

Cũng trong sáng nay bà con ở Dương Nội, bị thu đất trong các dự án khu đô thị mới trên phường Dương Nội cũng đến 46 Tràng Thi tiếp tục gửi đơn thu khiêu nại, kêu cứu về các sai phạm của dự án trong quá trình cưỡng chế thu hồi đất.
.






Tin và Ảnh: M.X

Nguyễn Quang Thạch: XÃ HỘI DÂN SỰ, TỪ GÓC NHÌN MÔ HÌNH TỦ SÁCH


Những kết cấu dân sự khả dụng:
Góc nhìn từ hoạt động xây dựng các mô hình tủ sách
Nguyễn Quang Thạch
           
Mục đích của bài viết này là chia sẻ những kết quả thực nghiệm từ việc tìm kiếm kết cấu dân sự khả dụng góp phần giải quyết thực trạng thiếu sách ở nông thôn cũng như những mô hình tủ sách trình diễn đã được dân sự hóa thành dân tự xây dựng, tự sở hữu và tự phục vụ.

Qua đây tôi cũng mong  rằng ngày càng nhiều cá nhân và nhóm hành động thúc đẩy xã hội dân sự theo  hướng CHẠY NGƯỢC DÒNG  bằng cách xây dựng mô hình thực nghiệm điển hình và hữu dụng. Các mô hình điển hình sẽ được dùng làm công cụ vận động chính để nhà nước áp dụng và nhân rộng trên quy mô lớn hơn CHỨ KHÔNG CHỜ ĐỢI NHÀ NƯỚC TẠO DÒNG CHẢY  mời các công dân và các nhà xã hội dân sự học lên thuyền tiến về đích xã hội dân sự theo chuẩn mực của các nước văn minh như Thụy Điển, Nhật Bản hay Mỹ.  Bởi lẽ, bất cứ sự tiến bộ xã hội nào đều phải trải qua một quá trình  hành động của công dân nhằm vận động chính quyền thực thi những quyền mà nhu cầu tự thân của người dân cho đến khi nó trở thành thứ hiển nhiên trong đời sống xã hội.

SANG NĂM, MIẾN ĐIỆN CÓ THỂ CÓ BÁO CHÍ TƯ NHÂN

Miến Điện có thể cho phép ra báo tư nhân


Một sạp báo tại Rangoon. Ảnh chụp ngày 03/02/2011.REUTERS

Đức Tâm
 
Hôm nay, 02/09/2012, tân bộ trưởng Thông tin Miến Điện tuyên bố kể từ đầu năm tới, 2013, chính quyền có thể cấp giấy phép hoạt động cho các nhật báo tư nhân. Bộ trưởng Aung Kyi khẳng định luật báo chí năm 1962 sẽ bị xóa bỏ. Các nhà báo nước ngoài có thể được cấp visa và đến làm việc tự do tại Miến Điện.

Trả lời phỏng vấn tuần báo Myanmar Times, ông Aung Kyi, bộ trưởng Thông tin Miến Điện nói : « Tôi thành thật nghĩ rằng các nhật báo tư nhân có vai trò chủ chốt trong một đất nước dân chủ ». Ông Aung Kyi vừa được chỉ định làm bộ trưởng Thông tin thay cho ông Kyaw Hsan, một nhân vật được coi là cực kỳ bảo thủ.

Theo tân bộ trưởng Thông tin Miến Điện, việc mở của thị trường thông tin đòi hỏi phải có một khuôn khổ pháp lý và một bộ luật ứng xử. Sự xuất hiện báo chí tư nhân còn tùy thuộc vào thời điểm Miến Điện có được những văn bản pháp lý nói trên. Cuối tháng Tám vừa qua, Miến Điện đã chính thức hủy bỏ chế độ kiểm duyệt đối với các báo thuộc lĩnh vực chính trị và tôn giáo.

Một dự luật về báo chí đang được soạn thảo. Bộ trưởng Thông tin Miến Điện nói rằng, dự thảo này cần phải được đưa ra tham khảo ý kiến các cơ quan báo chí trước khi hoàn chỉnh và trình lên Nghị viện. Ông nhấn mạnh : « Tôi thành thực quyết tâm có được một đạo luật về các phương tiện truyền thông, đáp ứng các chuẩn mực quốc tế ».

Cho đến nay, tổ chức Phóng viên Không biên giới vẫn xếp Miến Điện ở hạng 169 trong tổng số 179 quốc gia, trong bảng xếp hạng về tự do báo chí. Tuy nhiên, kể từ khi chính phủ dân sự được thành lập vào tháng Ba năm ngoái, Miến Điện đang thực hiện nhiều cải cách dân chủ, trả tự do cho nhiều nhà báo và các tù chính trị.

Bộ trưởng Aung Kyi khẳng định là luật báo chí năm 1962 sẽ bị xóa. Sự tồn tại của văn bản này gây nghi ngờ về thực tâm của chính quyền trong việc thúc đẩy quyền tự do báo chí. Liên quan đến hoạt động của các nhà báo nước ngoài, ông Aung Kyi cho rằng họ có thể được cấp visa và đến làm việc tự do tại Miến Điện.

Trong tuần, chính quyền Nayipydaw đã xóa tên nhiều người Miến Điện lưu vong, trong đó có các nhà báo, trong danh sách đen.

HIẾN PHÁP KHÔNG PHẢI ĐỂ BAN ƠN CHO NHÂN DÂN!

“Hiến pháp không phải để ban ơn cho nhân dân”

Cần phải nhận thức đúng về Hiến pháp theo nghĩa Hiến pháp không phải là thứ ban ơn của Nhà nước dành cho công dân, không phải Nhà nước cho thế nào được thế nấy.

Trong quá trình sửa đổi Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001) hiện nay, người ta nhắc rất nhiều đến Hiến pháp 1946 và tư duy xây dựng luật của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cách thức thiết kế, thể hiện các quyền con người, quyền công dân trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta đã chứa đựng những tư tưởng tiến bộ mà cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Pháp Luật TP.HCM đã trao đổi với PGS-TS Nguyễn Như Phát, Viện trưởng Viện Nhà nước và Pháp luật (Viện Khoa học xã hội Việt Nam), xung quanh vấn đề này.

. Phóng viên: Những giá trị tiến bộ của Hiến pháp 1946 về quyền công dân là gì, thưa ông?

+ PGS-TS Nguyễn Như Phát (ảnh): Dưới thời Chủ tịch Hồ Chí Minh, do bối cảnh chính trị xã hội lúc bấy giờ, những người soạn thảo Hiến pháp 1946 là những người có tài, thức thời và không bị chi phối bởi tư tưởng giai cấp hoặc chính trị quá nhiều. Do đó, bản Hiến pháp đầu tiên này có những giá trị rất cấp tiến, tư duy mạch lạc, thể hiện tư tưởng tiến bộ của chủ nghĩa lập hiến hiện đại. Theo đó, Hiến pháp là “văn bản ủy quyền” của nhân dân cho Nhà nước, trao cho Nhà nước hệ thống quyền lực cụ thể của nhân dân, ấn định việc phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực và các nguyên tắc, phương pháp thực thi quyền lực Nhà nước cũng như ghi nhận và xác lập trách nhiệm của Nhà nước trong việc đảm bảo thực thi các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. 

Tinh thần của Hiến pháp 1946 như vậy nên ngay cả việc sắp xếp các chương thì quyền con người, quyền công dân cũng nằm ở chương hai trong khi trong Hiến pháp hiện hành là chương năm. Sắp tới, bản Hiến pháp sửa đổi chắc sẽ có sự thay đổi và quay về cách sắp xếp của bản Hiến pháp ban đầu. 

Mặt khác, Hiến pháp vẫn là văn bản quy phạm pháp luật và phải có giá trị thi hành. Điều đó có nghĩa là quyền của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp có giá trị áp dụng trực tiếp, không có nhu cầu cần phải cụ thể hóa. Những quyền của công dân trong Hiến pháp 1946 thể hiện rõ nhất điều đó chứ không kèm thêm câu “theo quy định của pháp luật” như từ Hiến pháp 1980 trở đi.

Trên thực tế thì quyền và nghĩa vụ công dân trong Hiến pháp thường cần đến luật quy định cụ thể. Muốn điều chỉnh những quyền này của công dân thì Nhà nước phải có luật nhưng không phải là cắt xén tinh thần của Hiến pháp. Luật đó chỉ mang tính chất trình tự thủ tục và dĩ nhiên, ở một xã hội văn minh thì quyền đó phải được thực hiện trong một khuôn khổ và trình tự nhất định. Tuy vậy, việc hạn chế quyền của công dân có thể được thể hiện theo quy định của luật (chứ không phải của mọi pháp luật) và phù hợp với Hiến pháp chứ không phải hạn chế vì lợi ích Nhà nước.

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, Chủ tịch Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, phát biểu trong phiên họp lần thứ tư năm 2012. Ảnh: TTXVN

Giữ gìn sự thiêng liêng của Hiến pháp

. Vậy quyền của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp 1946 có gì khác so với hiện nay?

+ Trước giờ chúng ta vẫn quen đánh đồng lợi ích công cộng với lợi ích Nhà nước là một nhưng hoàn toàn không phải như thế. Nhà nước chỉ là một chủ thể trong xã hội và có lợi ích riêng của mình còn xã hội có rất nhiều chủ thể có lợi ích riêng. Những quy định hạn chế một phần, hạn chế quyền của công dân để đảm bảo lợi ích công cộng đều phải được cân đong đo đếm để phù hợp với tinh thần của Hiến pháp. 

Theo tôi, cần phải nhận thức đúng về Hiến pháp theo nghĩa Hiến pháp không phải là thứ ban ơn của Nhà nước dành cho công dân, không phải Nhà nước cho thế nào được thế nấy. Đây là sự khác biệt rất lớn về tư tưởng lập hiến từ Hiến pháp năm 1980 trở đi so với Hiến pháp 1946. 

Từ Hiến pháp 1980, triết lý lập hiến của ta là mọi quyền cơ bản của công dân đều phải được thực hiện trong khuôn khổ của pháp luật nhưng cách ban hành pháp luật của chúng ta lại có vấn đề. Nếu hiểu theo cách đó thì theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, những ông nghị làng nghị xóm cũng có thể xóa đi một điều trong Hiến pháp. Đơn giản là do các ông ấy có thể ra nghị quyết (được coi là pháp luật) mà nghị quyết này trên thực tế lại không bị kiểm soát. Hơn nữa, trên thực tế, rất ít thấy việc văn bản pháp luật của cấp dưới bị hủy bỏ bởi cấp trên. Như vậy, sự thiêng liêng của Hiến pháp đã bị ảnh hưởng.

Pháp luật không phải để cai trị 

. Từ triết lý lập hiến như vậy, ông có suy nghĩ gì về cơ chế ban hành pháp luật hiện nay?

+ Cách thức, tư duy làm luật cũng không khác gì so với việc ban hành Hiến pháp. Lâu nay người ta vẫn nghĩ pháp luật là của Nhà nước, là công cụ mà Nhà nước dùng để cai trị và quản lý xã hội. Vì thế, hiểu theo nghĩa thô thiển, cơ quan ban hành pháp luật dễ “tự do” ấn định ý chí của mình vào văn bản pháp luật để cho dân thực hiện. Đặc biệt, cách tư duy như vậy sinh ra tư tưởng làm luật ban ơn, Nhà nước ban phát đến đâu, dân hưởng đến đó. 

Cạnh đó, mọi người vẫn nghe khẩu hiệu đưa pháp luật vào cuộc sống song chưa ai đặt ra vấn đề đưa cuộc sống vào pháp luật. Nếu không đưa cuộc sống vào pháp luật thì pháp luật đang tồn tại có được coi là pháp luật hay không? Đó là chưa bàn tới câu chuyện nó có khả năng thực thi hay không. Luật không phản ánh nhu cầu thật của xã hội thì làm sao xã hội có thể thực hiện nó, ấn nó vào xã hội làm sao được? Đây là vấn đề về tính chính đáng của pháp luật.

. Ông có thể đưa ra những ví dụ cụ thể?

+ Thí dụ việc giao cho Bộ Công an chủ trì soạn thảo Luật Biểu tình thì đương nhiên Bộ Công an phải nghĩ làm sao cho hoạt động an ninh được đảm bảo. Và người ta sẽ có những quy định về biểu tình để đảm bảo an ninh theo nghĩa của những người làm an ninh chứ chưa chắc đã phải là của nhân dân.

Một thí dụ khác là trong ngành tài chính của ta, từ cơ quan nhỏ đến cơ quan to cứ chăm chăm làm sao thu được nhiều thuế của dân. Nhưng kinh tế học chứng minh đó là tư duy sai lầm, kể cả khi việc đó phục vụ cho mục tiêu làm giàu ngân sách quốc gia. Anh thu nhiều thuế, thu thuế cao thì người ta không đóng và sinh ra đủ kiểu trốn thuế. Không có nhà nước nào khôn hơn dân và không có nhà nước nào mạnh hơn dân cả! 

Cân đối lợi ích trong ban hành pháp luật 

. Thế tại sao tư duy làm luật này vẫn còn tồn tại, thưa ông?

+ Theo tôi, hệ thống thực thi pháp luật, trình tự thủ tục hành chính, tư tưởng đạo đức của con người trong bộ máy nhà nước đang làm cho vấn đề này càng trầm trọng thêm. Thêm vào đó là vấn đề quan trí. Báo chí cũng đã từng lên án về tệ chạy chức chạy quyền. Có mua ắt có bán. Đây là thị trường béo bở mà nhà đầu tư kém cỏi nhất cũng nghĩ đến chuyện hoàn vốn. Trong đó thời gian hoàn vốn chính là nhiệm kỳ, đó là một trong những vấn đề sinh ra tư duy nhiệm kỳ. Tư duy chính trị, truyền thống lập pháp, thực trạng của hệ thống quản lý trên đều là những yếu tố có thể giải thích nguyên nhân tại sao luật pháp lại hay vơ vào cho Nhà nước như vậy. 

Bên cạnh đó, tham nhũng chính sách là thứ vô cùng nguy hiểm. Loại tham nhũng này được dựa trên những cơ sở của pháp luật, xuất phát từ vai trò chủ trì soạn thảo pháp luật. Loại tham nhũng này dựa trên cơ sở hợp pháp nên có hậu quả khôn lường. 

Lợi ích và cục bộ ngành cũng là vấn đề làm suy yếu Nhà nước. Các bộ, ngành, các địa phương đều cùng ngồi trong một con thuyền là Nhà nước. Nếu họ không cùng phối hợp nhịp nhàng và trên tinh thần phục vụ nhân dân toàn quốc vì sự phát triển chung và đồng đều của đất nước thì sẽ không là những vector cùng chiều để tạo thành sức mạnh chung cho Chính phủ. 

Trên thực tế, có những vấn đề vượt phạm vi của một ngành, một bộ, buộc họ phải ngồi lại cùng nhau để ban hành chính sách hay pháp luật (thí dụ như thông tư liên bộ). Những vấn đề lớn hơn sẽ phải do tập thể Chính phủ bàn bạc và quyết định (dưới dạng nghị định). Những vấn đề quan trọng của đất nước phải do Quốc hội quyết định. Trong quá trình đó, nếu không “cân đối” được lợi ích ngành, địa phương với lợi ích quốc gia thì quản lý đất nước sẽ không minh bạch, không thông suốt và tạo kẽ hở cho tiêu cực trong hệ thống và lãng phí xã hội, tạo cơ chế xin - cho. 

Những hiện tượng như các địa phương, các ngành tìm cách để xin cơ chế riêng, thậm chí cả các đoàn đại biểu Quốc hội có thể tạm quên đi lợi ích quốc gia mà phấn đấu cho lợi ích địa phương mình… đều là những biểu hiện của chủ nghĩa cục bộ. Những “phi vụ” đó thành công thì cơ chế và chính sách sẽ được hợp pháp hóa. Nếu không đổi những tư duy này từ gốc thì pháp luật của chúng ta không thể làm bà đỡ cho xã hội phát triển.

. Xin cảm ơn ông.
THANH LƯU thực hiện

Thứ Hai, 3 tháng 9, 2012

Bùi Văn Bồng: ÔNG DƯƠNG VĂN CỪ SỢ GÌ TRONG HIẾN PHÁP 1946?

Ông Dương Văn Cừ sợ gì trong Hiến pháp 1946?

Bùi Văn Bồng

Trong bài “Xã hội dân sự” – một thủ đoạn của diễn biến hòa bình” đăng trên báo Nhân dân ngày 31-8 mới rối, tác giả Dương Văn Cừ viết: “Ðáng chú ý là một số đối tượng cơ hội chính trị có quan điểm chống đối cực đoan đã lợi dụng một số tổ chức quần chúng hợp pháp để tổ chức các hội thảo, tọa đàm, diễn đàn có nội dung đòi hỏi đưa Hiến pháp 1992 trở về Hiến pháp năm 1946, trưng cầu ý dân về Ðiều 4 cũng như toàn bộ Hiến pháp, lập Tòa án Hiến pháp, thúc đẩy XHDS và thực hiện các quyền tự do dân chủ, tự do ngôn luận, báo chí, lập hội theo tiêu chí phương Tây, tư hữu hóa đất đai… Nếu thực hiện các nội dung này theo ý đồ của họ thì chế độ XHCN thực tế sẽ không còn tồn tại ở Việt Nam. Ðây là phương thức đấu tranh công khai rất nguy hiểm, nếu không cảnh giác có thể sẽ giúp các thế lực thù địch lợi dụng các tổ chức XHDS để đưa ra những kiến nghị nhằm thay đổi thể chế, thay đổi hệ thống luật pháp XHCN bằng luật pháp dân chủ, tư sản”…

Trước hết, mang tên là báo Nhân dân, nhưng chính tờ báo này là nhật báo của Đảng, chủ yếu tuyên truyền quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nêu gương thành tích, còn những nội dung nêu lên thực trạng, bức xúc của nhân dân về đời sống, xã hội, tiếng nói của nhân dân một cách tự do, thực sự dân chủ còn rất ít và thiếu mạnh dạn. Ngay trong bài này, tác giả Dương Văn Cừ đã công khai phản đối sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, phủ nhận đường lối thực thi dân chủ của Đảng.

Lẽ nào Ban biên tập báo Nhân dân duyệt cho đăng bài này hầu như chưa hiểu cặn kẽ, sâu sắc về hệ thống chính trị suốt 82 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, một XHDS Việt Nam đã đống góp tích cực và hiệu quả cho nhiều phong trào cách mạng, nhất là những khi Tổ quốc bị xâm lăng và xã hội gặp nhiều khó khăn, ách tắc. Tác giả bài viết và Ban biên tập báo Nhân dân đã hiểu sai lệch về XHDS trong chế độ XHCN ở Việt Nam. Nhất là khi nước ta tiến hành công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, hội nhập WTO, mở rộng quan hệ quốc tế, “muốn làm bạn với tất cả các nước”, rất cần quan tâm phát huy thế mạnh và bản chất ưu việt của XHDS theo đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước.

Ông Cừ đã quên rằng, hệ thống các tổ chức quần chúng, các hội nghề nghiệp đều là Tổ chức quần chúng của Đảng, được Nhà nước cho phép hoạt động đùng pháp luật. Đúng như tác giả Đào Tiến Thi đã viết trong bài: “Tôi nghĩ Đảng CSVN không tẩy chay xã hội dân sự” là bài viết kịp thời, có lập luận chắc chắc, minh dẫn và phân tích rất có lý (Xem bài LINK này: http://webwarper.net/ww/~av/anhbasam.wordpress.com/2012/09/01/1232-toi-n... .

Thuật ngữ xã hội dân sự xuất hiện lần đầu tiên ở châu Âu vào thế kỷ 16 và trở nên phổ biến vào thế kỷ 18. Xã hội dân sự cấu thành từ tổng thể của các tổ chức xã hội và dân sự tự nguyện mà các tổ chức này tạo nên cơ sở của một xã hội tự vận hành, khác với các cấu trúc quyền lực của một nhà nước (bất kể hệ thống chính trị của nhà nước này thuộc kiểu gì) và các thể chế thương mại của thị trường. Xã hội dân sự là “Diễn đàn giữa gia đình, nhà nước và thị trường, nơi mà mọi con người bắt tay nhau để thúc đẩy quyền lợi chung”. Trung tâm Xã hội dân sự của Trường đại học kinh tế London định nghĩa Xã hội dân sự như sau: “Xã hội dân sự đề cập tới một mảng các hoạt động tập thể tự nguyện xung quanh các giá trị, mục tiêu, ý thích chung. Xã hội dân sự thường bao gồm một sự đa dạng về phạm vi hoạt động, các thành viên tham gia và các hình thái tổ chức, khác nhau về mức độ nghi lễ, tự do và quyền lực. Xã hội dân sự thường được hình thành dưới dạng các tổ chức như các hội từ thiện, các hiệp hội, các công đoàn, các nhóm tương trợ, các phòng trào xã hội, các hiệp hội kinh doanh, các liên minh, và các đoàn luật sư…”.

Trở lại với trích đoạn đầu bài trên đây, không hiểu sao bỗng nhiên ông Cừ lại tỏ ra sợ, né tránh, thậm chí phủ nhận bản Hiến pháp gốc, căn bản của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Ông Cừ viết là có sự lợi dụng dân chủ này-nọ để “đòi hỏi đưa Hiến pháp 1992 trở về Hiến pháp năm 1946”. Theo tôi được biết, Đảng, Nhà nước, Quốc hội đang phát động toàn Đảng, toàn dân tham gia ý kiến sửa lại Hiến pháp. Có những ý kiến đề xuất là đừng bỏ đi những giá trị dân chủ rất nền tảng và căn bản khẳng định tính ưu việt của chế độ ta, tại sao lại phải né tránh?

Hiến pháp 1946 là bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được soạn thảo và được Quốc hội của Nhà nước công nông non trẻ thông qua vào ngày 9-11-1946 với 240 phiếu tán thành (trên 242 phiếu). Ủy ban dự thảo Hiến pháp được thành lập theo Sắc lệnh số 34-SL ngày 20-9-1945 gồm có 7 thành viên: Hồ Chí Minh, Vĩnh Thụy, Đặng Thai Mai, Vũ Trọng Khánh, Lê Văn Hiến, Nguyễn Lương Bằng, Đặng Xuân Khu ( Trường Chinh). Bản dự thảo Hiến pháp đã được soạn thảo và công bố vào tháng 11 năm 1945. Cũng phải kể đến Ban dự thảo Hiến pháp (Tiểu ban Hiến pháp) được Quốc hội bầu ra ngày 2-3-1946 gồm có 11 thành viên, trong đó có các thành viến như: Tôn Quang Phiệt, Cù Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Trần Duy Hứng, Đỗ Đức Dục, Huỳnh Bá Nhung, Trần Tấn Thọ, Nguyễn Cao Hách,… tiếp tục nghiên cứu và bổ sung để hoàn chính Hiến pháp trước khi trình ra Quốc hội. Trong phiên họp ngày 29-10-1946, Tiểu ban Hiến pháp được mở rộng thêm 10 đại biểu đại diện cho các nhóm, các vùng và đồng bào thiểu số để tu chỉnh dự thảo hiến pháp và trình ra Quốc hội ngày 2 tháng 11 năm 1946 để Quốc hội thảo luận, sửa chữa và thông qua.

Do được chuẩn bị soạn thảo rất kỹ và trưng cầu rộng rãi như vậy, Hiến pháp năm 1946 bao gồm lời nói đầu và 7 chương, 70 điều, được coi là bản Hiến pháp tuy ngắn gọn, nhưng đầy đủ, rất nhiều điều quy định trong Hiến pháp 1946 đã được nhân dân tán thưởng, đặt niềm tin, kỳ vọng vào chế độ chính trị tốt đẹp, thực sự dân chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước” của dân, do dân, vì dân”. Tại Hiến pháp này, quyền tự do của người dân trong chế độ độc lập, tự do, có điều kiện được hưởng nhân quyền, quyền mưu cầu hạnh phúc. Những điểm nhấn có giá trị dân chủ trong Hiến pháp 1946 là: “Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái, trai, giai cấp, tôn giáo. Đảm bảo các quyền tự do dân chủ. Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Với tinh thần đoàn kết, phấn đấu sẵn có của toàn dân, dưới một chính thể dân chủ rộng rãi, nước Việt Nam độc lập và thống nhất tiến bước trên đường vinh quang, hạnh phúc, cùng nhịp với trào lưu tiến bộ của thế giới và ý nguyện hoà bình của nhân loại… Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá. Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình. Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình độ chung. Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện. Công dân Việt Nam có quyền:

- Tự do ngôn luận
- Tự do xuất bản
- Tự do tổ chức và hội họp
- Tự do tín ngưỡng
- Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài…


Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam. Nhà ở và thư tín của công dân Việt Nam không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật. Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm…”. Trong nhiều cái sợ về bản Hiến pháp 1946 mang đậm tư tưởng Hồ Chi Minh, ông Cừ sợ câu “tư hữu tài sản công dân” đã ghi trong Hiến pháp 1946 phải không?Trong đó có đất “đai là sở hữu toàn dân”? 

Ngày xưa chỉ có một nhóm địa chủ, bị cải cách ruộng đất dẹp bằng cách rất hà khắc và tang thương từ lâu rồi, dễ gì “ngóc đầu” nữa mà sợ? Nay “đất đai là sở hữu toàn dân, do Nhà nước quản lý”, cá nhân người dân không có quyền “tư hữu đất đai”, cho nên đã bị biết bao đại gia, chính quyền mượn cớ “đất Nhà nước” để cướp trắng tay, còn hơn địa chủ ngày xưa? Và làm như thế có coi là họ đã chiếm dành phần tư hữu những trang trại, đất đai, mặt bằng, dự án đó hay không? Có đúng pháp luật không? Công bằng xã hội ở đâu? Đất vàng đất bạc của họ, ai mà đụng đến được? 

Ông nói rằng cho dân cái quyền “sở hữu đất đai” là chính quyền và đại gia không thể vin cớ gọi là “nhà nước” để chiếm đoạt được dễ dàng chứ gì? Thế, thử hỏi: “Chính quyền và đại gia móc nối với nhau cưỡng chế thu hồi đất của dân như cướp ngày đã “trích phần trăm” cho ông những gì rồi?”.

Đánh giá về giá trị của Hiến pháp 1946, Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng, một chuyên gia về luật đánh giá: “Hiến pháp 1946 là một bản hiến văn hết sức ngắn gọn, súc tích. Toàn bộ bản hiến văn chỉ gồm 70 điều. Trong đó có những điều chỉ vẻn vẹn một dòng. (Ví dụ Điều 12 được viết như sau: “Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm”). Một trong những lý do giải thích sự ngắn gọn này là: Hiến pháp 1946 đã được thiết kế theo tư tưởng pháp quyền”. PGS-TS Phạm Duy Nghĩa, Đại học Quốc gia Hà Nội, cho rằng Hiến pháp 1946 vẫn còn nguyên giá trị, bởi mỗi câu chữ trong đó đều “vang vọng tiếng dân”. Đây là bản Hiến pháp được soạn thảo theo tinh thần phân chia quyền lực theo hướng xã hội dân chủ (thường được biết đến với thuật ngữ “tam quyền phân lập”: lập pháp (Quốc hội), hành pháp (Chính phủ) và tư pháp (Tòa án) giống như Hiến pháp Hoa Kỳ và Hiến pháp của các nước cộng hòa khác. Về tam quyền phân lập, TBT Nguyễn Phú Trọng gần đây đã xác nhận là Đảng CSVN không chấp nhận nguyên lý này, cho rằng “tam quyền” chỉ là một sự phân công dưới sự lãnh đạo của Đảng là thôi!

Mặt khác, điểm đáng chú ý là Điều 10 bản Hiến pháp 1946 qui định rõ ràng các quyền tự do cá nhân: “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, tự do đi lại trong nước và ra nước ngoài”. Đây là những quyền tự do bị hạn chế trong các bản hiến pháp sau này.

Trong bài viết, ông Dương Văn Cừ còn thẳng cánh phê phán sự đòi hỏi: “các quyền tự do dân chủ, tự do ngôn luận, báo chí, lập hội theo tiêu chí phương Tây”. Ô hay! Vậy ông quên rằng, ngay phần mở đầu Bản Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc ngày 2-9, đã đưa những “lập luận theo tiêu chí phương Tây”:

Hỡi đồng bào cả nước!
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 17913 cũng nói:

“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được…”.


Với bài viết đăng trên báo Đảng, ông Cừ nói là “một số đối tượng … đòi hỏi đưa Hiến pháp 1992 trở về Hiến pháp năm 1946 …”. Chắc chắn ông Cừ cũng biết rằng, những ý kiến “đòi hỏi” như vậy không ai đòi bê nguyên xi Hiến pháp 1946, mà người ta chỉ yêu cầu cho dù có sửa lại, bổ sung Hiến pháp mới cho phù hợp thời thế, nhiệm vụ mới thì cũng nên tôn trọng, giữ lại và nâng cao những nội dung rất cách mạng, khoa học và cơ bản, không nên xem nhẹ hoặc bỏ qua những nội dung thiết thực, có lợi cho nền dân chủ thực sự, cho quốc gia, dân tộc. Theo ông Cừ có nên coi Hiến pháp đạo luật cơ bản, hay chỉ là thứ văn bản trang trí, làm đẹp cho chế độ hay là chuẩn mực của mọi người, bảo đảm quyền và nghĩa vụ của nhân dân để ai cũng “sống và làm việc” theo hiến pháp, pháp luật? Có những điều hiến pháp qui định nhưng đến nay người cầm quyền vẫn né tránh không luật hóa như tự do ngôn luận, biểu thị thái độ, hội họp, tự do đi lại, cư trú, luật biểu biểu tình…? Ai có những hành động vi hiến khi ra nghị định, thông tư, chỉ thị trái với hiến pháp? Tính “ưu việt” (hay sự hơn hẳn về dân chủ, nhân quyền) của chế độ XHCN là gì ? Phải chăng là hơn hẳn ở chỗ không thực hiện theo đúng Điều 1 của chương Chính thể trong Hiến pháp 1946: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Muốn là chế độ “hơn hẳn” tại sao lại tổ chức các mạng lưới ngăn chận tự do phát biểu chính kiến? Tại sao công an tùy tiện đánh chết phạm nhân mà vẫn không bị truy tố theo luật định? “Ưu việt” là vì xem đất đai là sở hữu toàn dân, sợ giao quyền sử dụng lâu dài cho dân sẽ “phục hồi địa chủ”, “trỗi dậy tư hữu”? Tạo kẻ hở “do nhà nước quản lý” để rồi sinh ra “một bộ phận không nhỏ” trong Đảng cầm quyền trở thành cường hào ác bá, tham nhũng tràn lan? Rồi cả những hành động liên tục ngăn chặn, đàn áp, qui chụp những người yêu nước là phản động, bị các “lực lượng thù địch” xúi giục để lật đổ chế độ?…

Ông Cừ còn viết: “…nếu không cảnh giác có thể sẽ giúp các thế lực thù địch lợi dụng các tổ chức XHDS để đưa ra những kiến nghị nhằm thay đổi thể chế, thay đổi hệ thống luật pháp XHCN bằng luật pháp dân chủ tư sản”… Với cách lập luận này, vô tình (hay hữu ý) ông Cừ bắt xẹo cho rằng những câu trích dẫn vào bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chủ tịch cũng mang màu sắc “dân chủ tư sản” hay sao? Ông muốn ám chỉ Bác Hồ đã ”mồi mớm” cho việc thực thi dân chủ đúng đạo, đúng đời, đúng bản chất chế độ, “gợi ý” cho XHDS ngay từ 2-9-1945 chứ gì? Những quy định đó trong Hiến pháp 1946 là thể hiện cao độ tính dân chủ, thực thi xây dựng một chế độ dân chủ, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng một “nước Việt Nam độc lập, tự do, toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” như các Nghị quyết của Đảng đề ghi. Tất cả các Hiến pháp ban hành và sửa đổi cả gần chục lần trong 66 năm qua cũng phải dựa trên cái nền cơ bản của Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946. Thiết nghĩ, những quan điểm, nhận thức, lý luận đã cũ mèm, khô cứng và “một chiều”, một thời được coi như sắc bén, không nên áp dụng để phân tích, đánh giá thực trạng xã hội hiện nay, nếu cần phải biên soạn lại cả những giáo trình còn mang tính áp đặt, sáo mòn, nói lấy được trong các trường Đảng để hoàn chỉnh, sát thực tế hơn. Xin hỏi ông Dương Văn Cừ: “Hiến pháp 1946 sai đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam ở chỗ nào, nguy cơ hại dân, phản quốc ở chỗ nào?”. Thế mà, ngay trong dịp kỷ niệm 67 năm Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2-9, báo Nhân dân lại cho xuất bản một quan điểm lệch lạc những vấn đề đưa ra cùng lập luận ấu trĩ, ngang phè đến phát lạ, không hiểu vì lý do gì, động cơ gì mà báo Nhân dân và tác giả Dương Văn Cừ lại sợ, thể hiện rõ sự né tránh Hiến pháp 1946 đến thế?

Nguồn: Blog Bùi Văn Bồng

Nguyễn Trần Bạt: XÃ HỘI DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM & Phản hồi của BS Phạm Hồng Sơn


Xã hội dân sự tại Việt Nam

Quyền con người là giá trị chính trị trung tâm của khái niệm xã hội dân sự. Không thừa nhận các quyền con người, không xem nó là giá trị phổ quát thì không có xã hội dân sự. Chừng nào mà nhà nước còn độc quyền các lẽ phải thì không thể có xã hội dân sự bởi vì xã hội dân sự tồn tại trên các lẽ phải của nó, các lẽ phải hiển nhiên, và quyền con người được xây dựng trên các lẽ phải hiển nhiên ấy. Tự do phải đi từ phía quyền chứ không phải đi từ phía năng lực của quản lý nhà nước.

 

Ông Nguyễn Trần Bạt trả lời phỏng vấn Trung tâm dữ liệu các tổ chức phi chính phủ

Hỏi: Chúng tôi được biết ông là một trong những nhà tư vấn đầu tư hàng đầu Việt Nam, nhưng bên cạnh đó, ông còn có rất nhiều nghiên cứu sâu sắc về chính trị, xã hội. Chúng tôi là đại diện của Trung tâm dữ liệu các tổ chức phi chính phủ (VUFO – NGO Resource Centre), đến đây xin được phỏng vấn ông một số vấn đề về xã hội dân sự. Chương trình phỏng vấn này nằm trong dự án nghiên cứu về các tổ chức xã hội dân sự tại Việt Nam do Bộ phát triển quốc tế Anh (DFID) tài trợ. Dự án sẽ khảo sát ý tưởng của nhiều bên, từ phía các cơ quan của Đảng, nhà nước cũng như từ phía các tổ chức xã hội dân sự. Những vấn đề mà chúng tôi nghiên cứu là: Xã hội dân sự là gì? Ở Việt Nam, các tổ chức như Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ… có phải là các tổ chức dân sự không, vai trò của chúng là gì? Các tổ chức xã hội dân sự có quan hệ với nhà nước như thế nào? v.v..

Chúng ta thấy rằng các tổ chức này hỗ trợ nhà nước từ việc cung cấp dịch vụ y tế, dịch vụ công đến việc phản ánh tiếng nói của người dân, cao hơn nữa là lobby về chính sách. Vậy, theo ông, chính sách hiện nay của nhà nước có tạo thuận lợi cho sự phát triển của các tổ chức xã hội dân sự không, hay là các chính sách nên như thế nào để những tổ chức này phát huy được vai trò của mình?

TÔI NGHĨ ĐẢNG CSVN KHÔNG CHỦ TRƯƠNG TẨY CHAY XÃ HỘI DÂN SỰ


Posted by basamnews on 01/09/2012
“Quan niệm như ông Dương Văn Cừ mới chính là tiếp tay cho các thế lực thù địch (thù địch thực sự, ví dụ các thế lực hiếu chiến ở Trung Quốc đang âm mưu thôn tính Việt Nam). Vì ông gieo giắc nỗi sợ hãi cho xã hội về một kẻ thù không nhìn thấy. Vì ông tạo ra sự đối lập giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.”

Thư ngỏ gửi ông Tổng biên tập báo Nhân dân

TÔI NGHĨ ĐẢNG CSVN KHÔNG CHỦ TRƯƠNG TẨY CHAY XÃ HỘI DÂN SỰ

Đào Tiến Thi

Kính gửi ông Thuận Hữu, Tổng biên tập báo Nhân dân điện tử.

Tôi hết sức ngỡ ngàng khi đọc bài Xã hội dân sự – một thủ đoạn của diễn biến hòa bình * của tác giả Dương Văn Cừ (DVC) đăng trên báo Nhân dân điện tử do ông làm tổng biên tập.

Nhận thấy bài báo này có những sai trái trầm trọng, có hại cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đặc biệt là có hại cho sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay nên tôi viết cho ông bức thư này.

Tôi xin kể một vài quan niệm sai của tác giả DVC:

HOÀ THƯỢNG THÍCH MINH CHÂU - NGƯỜI CHA ĐỠ ĐẦU CỦA TUỔI TRẺ DẤN THÂN

Hòa thượng Thích Minh Châu 
- Người cha đỡ đầu của tuổi trẻ dấn thân

Những năm làm Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh, dù công việc nhiều nhưng hòa thượng vẫn luôn đi sát đời sống và sinh hoạt của sinh viên.
Chẳng hạn khi phong trào đấu tranh đòi hòa bình, tự do và dân chủ bùng nổ lớn tại các đô thị miền Nam vào cuối năm 1969-1970, sinh viên Đại học Vạn Hạnh trở thành một trong các mũi nhọn xung kích của phong trào. Vì vậy vào một buổi chiều đầu năm 1970, lúc các phân khoa vừa bước vào giờ học, một lực lượng cảnh sát đặc biệt với gần 100 tay súng do Đỗ Kiến Nâu chỉ huy đã theo lệnh của Tổng nha Cảnh sát đô thành bất thần kéo đến bao vây Đại học Vạn Hạnh ở số 222 Trương Minh Giảng, quận Nhì (nay là đường Lê Văn Sỹ, quận 3) để lùng bắt lực lượng đấu tranh, trong đó đứng đầu là sinh viên Võ Như Lanh, Chủ tịch Ủy ban đấu tranh của Viện Đại học Vạn Hạnh (sau này là Tổng biên tập Báo Tuổi Trẻ và Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn) và Đặng Thanh Tâm, người nòng cốt tổ chức thực hiện đặc san Hướng Đi chống chính quyền... Nghe tin, hòa thượng Viện trưởng Thích Minh Châu đã rời ngay cuộc họp ở phòng giám thị, tiến ra cổng trường đứng trước mũi súng và lưỡi lê của đội ngũ cảnh sát và mật vụ đang dàn hàng ngang. Đi bên hòa thượng là đại đức Thích Nguyên Tánh, tức học giả Phạm Công Thiện, tác giả cuốn Ý thức mới trong văn nghệ và triết học. Hòa thượng đĩnh đạc nói lớn với Đỗ Kiến Nâu và cũng là để mọi người đang vây quanh nghe rõ:
- “Nam mô Bổn sư Thích - ca Mâu - ni Phật, thưa quý vị, quý vị không được dùng bạo lực bắt bớ sinh viên của chúng tôi trong khuôn viên nhà trường. Các vị phải tôn trọng quyền tự trị đại học đã được xác lập, tuyệt đối không được đem cảnh sát và vũ khí vào trường đại học. Yêu cầu quý vị rút lui. Nếu không chúng tôi sẽ công bố trước dư luận trong nước và thế giới...”.
Hòa thượng nói một cách ôn tồn, chậm rãi từng tiếng, nhưng hết sức kiên quyết. Bất ngờ trước hình ảnh của một viện trưởng đích thân đi bộ ra cổng trường đối thoại, Đỗ Kiến Nâu sau một lúc đắn đo, đã chắp hai tay lại, cúi đầu chào cung kính hòa thượng, rồi đưa chiếc ba-toong lên trời vẫy hai lần, làm hiệu lệnh cho đội cảnh sát đặc nhiệm rút lui. Hòa thượng mỉm cười, cùng học giả Phạm Công Thiện và sinh viên quay vào giảng đường 208 mà ở đó đang vang lên tiếng guitar thùng với câu hát cộng đồng giòn giã: “Dậy mà đi hỡi đồng bào ơi”...
Đó là một trong những hình ảnh không thể quên được về một vị viện trưởng, một hòa thượng, một tấm lòng từ bi không rời khỏi những bước đường đấu tranh của tuổi trẻ hôm nào...

Chủ Nhật, 2 tháng 9, 2012

ĐẠI LÃO HOÀ THƯỢNG THÍCH MINH CHÂU VIÊN TỊCH

Đại lão Hòa thượng Thích Minh Châu viên tịch


Đại lão Hòa thượng Thích Minh Châu, Phó Pháp chủ GHPGVN, nguyên đại biểu quốc hội nước CHXHCN VN trong 5 khóa liên tiếp (khóa VI, VII, VIII, IX, X) vừa thu thần thị tịch vào lúc 9h sáng ngày 16/7 Nhâm Thìn (nhằm ngày 01/09/2012) tại Thiền viện Vạn Hạnh, số 750, Nguyễn Kiệm, Q. Phú Nhuận, Sài Gòn, hưởng thượng thọ 93 tuổi.
- Lễ viếng bắt đầu vào lúc 09h00 ngày 02 tháng 9 năm 2012 đến hết ngày 08 tháng 9 năm 2012 (từ ngày 17 - 24/7 năm Nhâm Thìn).
- Lễ truy điệu được cử hành lúc 08h00 ngày 09 tháng 9 năm 2012 (ngày 24 tháng 9 năm Nhâm Thìn) và sau đó cung tiễn kim quan Trưởng lão Hòa thượng nhập Bảo tháp tại Thiền viện Vạn Hạnh.
Gia đình Phật tử chúng con xin dâng lời cầu nguyện Giác linh Đại lão Hoà thượng Thích Minh Châu cao đăng Phật Quốc. Xin thành kính khởi thân nghiêng mình chia sẻ niềm đau ly biệt với Gia tộc họ Đinh hậu duệ của Cụ Nghè Đinh Văn Chấp, tới các học giả Minh Chi và Đinh Linh, cùng chư vị môn đồ pháp quyến của Đại lão Hoà thượng Thích Minh Châu. 

TIỂU SỬ HOÀ THƯỢNG THÍCH MINH CHÂU

Hòa thượng, thế danh Đinh Văn Nam sinh năm 1920 tại Quảng Nam, xuất gia năm 1946 với cố Hòa thượng Tăng thống GHPGVN Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế.
Từ năm 1952 đến 1963, hòa thượng xuất dương du học tại Sri Lanka, Ấn Độ và đỗ tiến sĩ Phật học với luận án bằng Anh ngữ: The Chinese Madhyma Agama and the Paly Majihima Nikaya.
Từ năm 1964 đến năm 1975, sau 14 năm du học ở nước ngoài, Hòa thượng trở lại quê nhà và giữ chức vụ Tổng vụ trưởng Tổng vụ Văn hóa-Giáo dục GHPGVNTN, và Viện trưởng Viện đại học Vạn Hạnh, chuyên lo sự nghiệp giáo dục và đào tạo Tăng tài cho PGVN cũng như dành thời gian nhất định để dịch thuật và biên soạn kinh sách để truyền bá lời Phật dạy. Đến nay có trên 30 tác phẩm do Hòa thượng dịch thuật, trước tác và biên soạn.
Năm 1979, Hòa thượng tham gia vận động thống nhất và thành lập GHPGVN.
Năm 1981, Hòa thượng làm hiệu trưởng Trường Cao cấp Phật học VN, cơ sở I tại Hà Nội và năm 1984, làm Hiệu trưởng Trường Cao cấp Phật học VN, cơ sở II tại TP.HCM.
Năm 1989, Hoà thượng thành lập và làm Viện trưởng Viện Nghiên Cứu Phật học Việt Nam và Hội đồng phiên dịch Đại tạng kinh Việt Nam.
Năm 1992, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc GHPGVN lần thứ 3, Hoà thượng được suy cử làm Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Đồng Trị Sự GHPGVN.
Năm 1996, Hòa thượng được Đại Học Mahachulalongkornrajvidyalaya (Thái Lan) tặng bằng Tiến Sĩ Phật Học Danh Dự.
Năm 1997, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc GHPGVN lần thứ 4, Hoà thượng được suy cử làm Phó Chủ tịch Thường trực kiêm Viện trưởng Viện Nghiên Cứu Phật học Việt Nam.
Năm 2007, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc GHPGVN lần thứ 6, Hoà thượng được suy tôn làm Phó Pháp chủ Hội đồng chứng minh GHPGVN.
Đại lão Hoà thượng Thích Minh Châu, trụ trì Tổ đình Tường Vân -Thừa Thiên, Huế, và viện chủ Thiền viện Vạn Hạnh - TP. Hồ Chí Minh, là vị cao tăng thạc đức có uy tín lớn của Phật giáo Việt Nam trong và ngoài nước, là một trong những người đặt nền tảng cho sự nghiệp giáo dục của GHPGVN.

Nguồn: ChuaPhucLam.com.