Thứ Tư, 21 tháng 9, 2011

VÌ SAO NHÀ THƠ HỮU THỈNH CA NGỢI NHỮNG CÂU THƠ TẺ NHẠT ẤY?

VÌ SAO NHÀ THƠ HỮU THỈNH HẾT LỜI CA NGỢI 

NHỮNG CÂU THƠ TẺ NHẠT CỦA TRẦN GIA THÁI

.

Trần Mạnh  Hảo

.

Tạp chí “Nhà Văn” số 9-2011 ( tạp chí của Hội nhà văn Việt Nam) trang 144 đến 146 có in bài “MỘT TẬP THƠ TƯƠI LÊN NHIỀU HI VỌNG” của nhà thơ Hữu Thỉnh, chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam kiêm chủ tịch Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam, ca ngợi hết lời tập thơ “Lời nguyện cầu trước lửa” (NXB Hội nhà văn 2011) của ông Trần Gia Thái – Tổng giám đốc Đài Phát thanh và truyền hình Hà Nội, kiêm chủ tịch Hội nhà báo Hà Nội. Bài viết trên của ông Hữu Thỉnh cũng vừa được trang mạng của nhà văn Phạm Viết Đào phổ biến, xin  in kèm dưới bài viết này của chúng tôi để rộng dường dư luận. 

.

Vì chưa có tập thơ này của ông Trần Gia Thái trong tay, chúng tôi chỉ căn cứ trên những câu thơ được ông Hữu Thỉnh trích ra bình phẩm, ngợi ca để đánh giá bài viết khác thường này của ông Hữu Thỉnh thực hư ra sao.

.

Mở đầu bài tụng ca thơ Trần Gia Thái, ông Hữu Thỉnh lập ngôn, bằng cách xác định lại bản chất của thi ca.

Câu văn đầu tiên Hữu Thỉnh viết đã không chuẩn về tu từ : “ Tôi kiên trì thói quen đọc thơ để hiểu người”(chữ nghiêng đậm do TMH nhấn mạnh). Nên chỉnh sửa câu văn này cho trong sáng tiếng Việt: “ Tôi có thói quen đọc thơ để hiểu người”. Ngay sau đó, Hữu Thỉnh tung ra một quan niệm chưa chuẩn về thơ: “Bởi vì thơ là nghệ thuật ít giấu mình được nhất”. Thơ giấu mình tài lắm ông Thỉnh ạ. Có người tâm ác mà toàn làm thơ về sự ngay lành, thánh thiện. Có người tâm Phật mà thơ thì khẩu nghiệp, chướng tai. Có người giả dối còn hơn cuội mà thơ thì nói toàn chuyện thật thà. Người Trung Hoa từ thời thượng cổ đã có quan niệm:” Thi tại ngôn ngoại”, một định nghĩa rất hay và rất đúng về thơ. Người Việt ta từ xưa đã cho thơ là nghệ thuật kỳ ảo, diệu vợi, hàm súc, dư ba, ẩn chứa khôn cùng tình cảm tư tưởng của nhà thơ trong và ngoài câu chữ. Nói cho cùng, ngược lại với quan niệm chưa đúng của Hữu Thỉnh, thơ chính là nghệ thuật giấu mình, giấu tư tưởng tâm hồn, cảm xúc, thông điệp của nhà thơ tới muôn vàn mai hậu, để chỉ dành riêng cho tri âm tri kỷ thưởng thức mà thôi. Nếu cứ nói toẹt ra hết thì còn gì là thơ?

Hàng trăm năm đã trôi qua, dễ gì chúng ta đã hiểu hết nghệ thuật giấu mình, đa ngữ nghĩa, đa chiều kích, đa nội hàm của câu ca dao tuyệt vời: “Gió đưa cây cải về trời / Rau răm ở lại chịu lời đắng cay”? Hàng trăm năm đã qua, dễ gì chúng ta đào hết được chiều sâu của tư tưởng tâm hồn Nguyễn Du giấu mình trong câu Kiều tráng lệ: “ Bắt phong trần phải phong trần / Cho thanh cao mới được phần thanh cao”?

Cổ xúy cho lối thơ nói toẹt ra, phơi cạn kiệt mình trên trang giấy như những câu nói thông thường phi hình ảnh, phi hình tượng, đơn nghĩa để Hữu Thỉnh có “cơ sở lý luận” ca ngợi thơ của Trần Gia Thái là việc không thể làm ngơ. Chúng tôi sẽ chứng minh cụ thể sau.

Hữu Thỉnh tiếp tục lập ngôn không chuẩn về thơ : “Cho nên, trong các châm ngôn về sự viết, tôi quý nhất lời dạy này : “Chân thành là nghệ thuật cao nhất của thơ” “. Đại từ điển tiếng Việt ( NXB Văn hóa &Thông tin 1999, trang 326) định nghĩa từ “Chân thành” như sau: “Chân thành tt. Thành thực, không khách sáo, không giả dối : tấm lòng chân thành , chân thành với bạn bè”. Thưa nhà thơ Hữu Thỉnh, chân thành là thái độ sống, đạo đức sống; nó không phải là nghệ thuật. Chỉ có kẻ quen sống giả dối mới coi chân thành là một nghệ thuật để đóng vở kịch thật thà đặng lừa tha nhân.

Thơ là nghệ thuật của CHÂN-THIỆN MỸ. Nếu chỉ có CHÂN ( thật, đúng), thậm chí kèm thêm THIỆN ( tốt), thì chưa thể gọi là thơ được. MỸ ( hay, đẹp) mới là phẩm chất cao quý nhất của thơ nói riêng và nghệ thuật nói chung, chứ không phải “CHÂN THÀNH là nghệ thuật cao nhất của thơ” như Hữu Thỉnh nhầm lẫn. Nếu nghệ thuật đã đạt được yếu tố MỸ ( hay, đẹp, xúc động) nó đồng thời đã mang được cả nội hàm CHÂN và THIỆN vậy. Những quan niệm A, B, C về mỹ học sơ đẳng này, người ta đã dạy cho học sinh từ thời trung học, ông Hữu Thỉnh chưa học qua hay sao ? Nhất là Hữu Thỉnh từng làm các chức vụ quan trọng của đảng, nhà nước, từng đi đến các hội trường quan trọng để đọc diễn văn, để huấn thị, để khơi mào các hội thảo lớn về văn học nghệ thuật, về triết học, lẽ nào chưa thông bài học vỡ lòng mỹ học Mác-xít ; rằng văn học nghệ thuật coi tính đảng, tính giai cấp, coi định hướng chính trị là bản lề, là cốt lõi nhất của tác phẩm, nhưng nếu nó không có tính nghệ thuật thì cũng chỉ có cách là …vất đi thôi. Bàn về thơ thì phải lấy tiêu chí câu thơ bài thơ có hay không, có đẹp không, có xúc cảm hàm súc dư ba không, nghĩa là có tính nghệ thuật không, chứ sao chỉ lấy sự chân thành làm thước đo quan trọng nhất của thơ như Hữu Thỉnh ngộ nhận?

Với những quan niệm sai lầm về thơ như thế này, nền thơ Việt Nam hôm nay quá bất hạnh vì Hữu Thỉnh thường là chủ tịch các ban giám khảo thi thơ văn, bình chọn thơ văn, chấm giải thơ văn trong tất cả các giải thưởng về thơ văn lớn nhỏ suốt 15 năm nay.

Ca ngợi Trần Gia Thái sống và viết theo quan niệm lấy chân thành làm nghệ thuật, làm gốc, làm “nguyên tắc nhất quán “Hữu Thỉnh trích hai câu nói thông thường mạo nhận thơ của Trần Gia Thái ra khen:

Thật đáng sợ khi mọi thứ đều trơn tuột
Và trong ta xúc cảm chết trong mồ”  ( Sợ)

Thưa rằng, hai câu gọi là thơ trên của Trần Gia Thái chỉ là câu nói vụng về, dễ dãi, rằng sợ nhất là cái ta viết không có gì đọng lại, viết không cảm xúc. Câu nói rất tầm thường này không ai cần đặt ra khi cầm bút; vì đó là lẽ đương nhiên. Cũng như không ai đặt ra khi viết ta phải có giấy mực, hay phải có bàn phím máy tính. Một đứa trẻ đói bụng cần ăn, đâu có băn khoăn chuyện dông dài vô nghĩa rằng: “ Thật đáng sợ nếu như ta nhịn đói / Và trong miệng ta cơm biến mất khi nào”.

 Thế mà Hữu Thỉnh bình hai câu nói ngô nghê trên của Trần Gia Thái, coi đó là “nguyên tắc nhất quán”, đao to búa lớn như sau : “Đây là một quan niệm nghiêm túc nhưng nguy hiểm đấy Trần Gia Thái ạ. Bởi vì nó đòi hỏi sự hết mình, đòi hỏi sự tận cùng, đòi hỏi vô tận sự tâm huyết” (hết trích).

Khen ngợi kiểu rất phường tuồng ba câu gọi là thơ: sáo, nhạt, vô hồn của Trần Gia Thái, Hữu Thỉnh viết không đâu nhập vào đâu, như sau: “Khi yêu, anh cho ta thấy mọi cung bậc sắc màu, hương vị, thậm chí có thể đo được độ nóng của trái tim anh. Nào là trách móc, nào là nhớ nhung, nào là say đắm, và cái được nhất của anh là được một không gian, một từ trường của cảm xúc :
“Gần đến thế mà sao không tới nổi
Bến bờ ơi
Em ảo ảnh đến muôn nghìn” ( Ảo ảnh)

“ Đây chưa hẳn đã là thất tình, càng chưa phải là tuyệt vọng. Ngẫm cho kỹ , đây là thước đo. Tôi không thấy mùi vị của sự chán nản, ngược lại, tôi nhận ra sự cao giá của người tình” (hết trích).

Than ôi, bình thơ theo kiểu đồng bóng, áo thụng vái nhau, chân giả lẫn lộn, bốc một tấc lên trời như Hữu Thỉnh là một cách treo cổ thơ hữu hiệu nhất vậy. Ba câu thơ dở kia của Trần Gia Thái đọc lên không thể nhịn cười, lại càng không thể nhịn cười khi Hữu Thỉnh khát quát “ ảo ảnh” chính là thước đo. Cầm thước đo ảo ảnh siêu hình trên tay, Hữu Thỉnh đo thơ kiểu thày cúng thày mo đo hồn vía người ốm, thì thơ ơi, ta chào mi, mi chỉ còn nước biên sắc biến !

Để bình bốn câu thơ toàn nói của Trần Gia Thái sau đây, Hữu Thỉnh lại bộc lộ một nhận thức sai về nghệ thuật làm thơ, khi ông viết : “Ở trong thơ, nói và hiểu là hai việc khác nhau. Đó là nghệ thuật phô diễn”. Thế thì chẳng lẽ THƠ lại là phường nói một đàng, hiểu nột nẻo, nói một đàng làm một nẻo hay sao ? Không, thơ hay là thơ phải có nghĩa đen và nghĩa bóng. Nghĩa đen ( hiểu) đi cùng câu chữ, bám sát lời thơ, trung thành với lời thơ, chứ không phải khác nhau với câu chữ như Hữu Thỉnh quan niệm. Từ cơ sở của hiểu đúng nghĩa đen, thơ bước vào hành trình nghĩa bóng; nghĩa là một lối hiểu và cảm đa chiều, tượng trưng, biểu cảm, nhòe mờ, mở rộng hiểu ra cõi dư ba, vô bờ, có cảm tưởng như phi ngữ nghĩa, phi lý trí, phi hiểu vậy. Có thể nói, thơ vừa đồng điệu với sự hiểu của thực-tại-lời ( ngôn từ) vừa bước qua giới hạn của hiểu để vào thế giới ảo diệu, vô bờ của cảm, của hư ảo, siêu nhiên. Đó là một quá trình đồng thời chứ không phải bước một là hiểu, là nghĩa đen, bước hai là cảm, là nghĩa bóng.

Xin xem Hữu Thỉnh “thổi” Trần Gia Thái lên tiên: “Trần Gia Thái cho ta thấy biết bao nhiêu cung bậc của tình cảm anh khi yêu, kể cả khi anh nói nhún, anh tự ti, anh bơ vơ,mộng du, đau khổ…thì đấy là một trường tình, tất cả hiện ra, nhưng không một lần ta thấy anh nhỏ bé. Kể cả khi anh thú nhận:
“ Cơn bão giữa lòng người
Cơn bão trong trời đất
Bão quật anh tơi bời
Giữa hai bờ còn? mất ? ( Em đi)

Ôi, chàng trai si tình ! Anh có thể bước đi không vững trong cơn say nhưng tình yêu của anh thật cường tráng”. ( hết trích)

Thơ hết biết nên lời bình cũng một đồng một cốt, hết biết luôn ? Chỉ có Hữu Thỉnh mới phát hiện ra thứ “tình yêu thật cường tráng” của thơ Trần Gia Thái mà thôi. Ôi “người yêu ảo ảnh”, nàng thơ sương khói của Trần Gia Thái lẽ nào lại nhận được lời tỏ tình rất phồn thực rằng, em yêu ơi,  anh sẽ chứng tỏ ngay bây giờ cho em thấy tình yêu của anh rất chi là cường…tráng !

Hữu Thỉnh còn dùng nhiều lời có cánh rất ngoa ngôn, rất hoành tráng để ca ngợi những câu thơ vô cùng nhạt nhẽo và dễ dãi của Trần Gia Thái; hầu như coi ông này là một phát hiện về thơ nói thật, lấy thật là gốc, lấy thật làm thước đo, lấy sự nói toẹt ra làm tiêu chí hay dở. Có khi quên mất mình vừa viết như trên, Hữu Thỉnh bèn nói ngược với mình, rằng Trần Gia Thái lấy “ẢO ẢNH” LÀM THƯỚC ĐO”…Lạy trời, sự đãng trí của nhà bình thơ thật là cao qúy.

Xin trích lời tụng ca của Hữu Thỉnh với những câu thơ nước ốc quá nôm na, quá dễ dãi tầm thường của Trần Gia Thái như sau:

“ …Ở mảng thơ này, anh biến hóa sinh động, tươi tốt hẳn lên. Có lúc rất mộc : “Ổ rơm chân đất manh chiếu rách / Một mùa được mấy bữa no nê” ( Sao mà nhớ). Có lúc xót xa, cay đắng : “ Năm mươi ba tuổi ta bầm dập thương tích/ Đòn vu hồi từ những kẻ vẫn xưng là bạn là anh” ( tuổi 53). Có lúc vô cùng thương cảm viết về người cha đã khuất :
“ Cứ tưởng người đi dạo lúa dạo đồng
Người đi chở cát với vôi nồng
Người đi đội đá xây mương nối
Đong bát mồ hôi đổi cháo không

Bát cháo đồng chiêm cơ cực ơi
Nuốt vào cay đắng nuốt không trôi
Mồ hôi thì mặn nước mắt chát
Đeo đẳng đời cha từng giọt rơi ( Nhớ cha)
 (hết trích)

Chúng tôi không dám trích lời Hữu Thỉnh khen ngợi thơ Trần Gia Thái thái quá làm đoạn kết cho bài viết tụng ca thứ thơ giả, thơ dởm của ông, sợ làm phiền thêm bạn đọc.

Bài viết “Một tập thơ tươi lên nhiều hi vọng” của Hữu Thỉnh hết sức sai về quan niệm thơ, lại bốc thơm một thứ thơ dở của Trần Gia Thái lên mây xanh, gây tai hại vô cùng cho định hướng thẩm mỹ thơ lớp trẻ. Bằng sự đánh tráo hay-dở, thật-giả trong thưởng thức thơ kiểu này, hình như ông Hữu Thỉnh muốn xui bọn trẻ cứ làm thơ như Trần Gia Thái, chắc chắn sẽ được giải thưởng lớn? Có phải đây là thời cái dở lên ngôi, cái xấu lên ngôi, cái giả lên ngôi hay không thưa nhà thơ Hữu Thỉnh ?

Sài Gòn ngày 21-9-2011
T.M.H.
Nguồn: Phạm Viết Đào-Blog
Ảnh trong bài chỉ có tính chất trang trí, không liên quan đến bài viết.

ÔNG HỮU THỈNH "THỔI KÈN" ÔNG TRẦN GIA THÁI

NHÀ THƠ HỮU THỈNH GIỚI THIỆU THƠ TRẦN GIA THÁI

Lời dẫn của nhà văn Phạm Viết Đào:

Chủ tịch Hữu Thỉnh thường ít khi tự tay viết giới thiệu về các bạn văn trừ khi mà họ đã trút hơi thở cuối cùng, sắp vào huyệt mộ…Lúc đó Hữu Thỉnh mới ra tay bằng những bài điếu văn rất có nghề, rất "mả", người nào ra người ý...; Trần Gia Thái là một trong những trường hợp hiếm hoi, hiện đang sống nhăn…thế nhưng lại được Hữu Thỉnh tự tay "đúc bia", "tạc tượng", thế mới tài…

Xin giới thiệu bài phê bình thơ Trần Gia Thái của nhà thơ Hữu Thỉnh; đọc bài phê bình này chắc Trần Đại Gia sướng rên; Người ít am hiểu về thơ, xem xong bài này thấy thơ Trần Gia Thái hay “kinh" cả người!



(Trần Gia Thái đang là đối tượng bị một số trí thức kiện, trong đó có nhà văn Nguyên Ngọc; Trần Gia Thái phải chịu trách nhiệm về bản tin phát trên Đài truyền hình Hà Nội; Đài truyền hình Hà Nội đã ghép ảnh một số trí thức vào bản tin chỉ trích một số phần tử phản động, gây rối tại Hà Nội trong cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc ngày 21/8 vừa qua…)

MỘT TẬP THƠ TƯƠI LÊN NIỀM HY VỌNG
Về tập thơ Lời nguyện cầu trước lửa của Trần Gia Thái
HỮU THỈNH

Tôi kiên trì thói quen đọc thơ để hiểu người. Bởi vì Thơ là nghệ thuật ít giấu mình được nhất. Mức độ thành công của một tập thơ tùy thuộc vào chỗ, tác giả đã tạc dấu ấn cá nhân của mình lên câu chữ bao nhiêu, đã chạm khắc tâm trạng, xúc cảm, hồn cốt lên trang giấy như thế nào. Để làm việc đó, có muôn nghìn cách, chỉ trừ sự giả. Cho nên, trong các châm ngôn về sự viết, tôi quý nhất lời dạy này: Chân thành là nghệ thuật cao nhất của Thơ.

Chiểu theo một quan niệm không có gì là tân kỳ như vậy, tôi đọc đi đọc lại tập thơ mới nhất này của Trần Gia Thái. Mỗi lần đọc khoảng cách khá xa, và cố chọn vào những thời điểm khác nhau, là cái cách để đo phản ứng của tác phẩm. Và tôi đã thấy anh, thấy một người thơ hiển hiện sau và trên tất cả những gì anh đã tâm sự cùng ta. Bởi tập thơ này cũng như những sang tác trước của anh đã được làm theo một nguyên tắc nhất quán:

Thật đáng sợ khi mọi thứ đều trơn tuột
Và trong ta xúc cảm chết trong mồ.
( Sợ )

Đây là một quan niệm nghiêm túc nhưng “nguy hiểm” đấy Trần Gia Thái ạ. Bởi nó đòi hỏi sự hết mình, đòi hỏi sự tận cùng, đòi hỏi vô tận sự tâm huyết. Trần Gia Thái là một người nồng nhiệt và tâm huyết. Khi yêu, anh cho ta thấy mọi cung bậc, màu sắc, hương vị, thậm chí ta có thể đo được độ nóng của trái tim anh. Nào trách móc, nào nhớ nhung, nào là say đắm, và cái được nhất của anh là tạo ra được một không gian, một từ trường của cảm xúc.

Gần đến thế mà sao không thể tới
Bến bờ ơi
Em ảo ảnh đến muôn nghìn.
( Ảnh ảnh )

Đây chưa hẳn đã là thất tình, càng chưa phải là tuyệt vọng. Ngẫm cho kỹ, đây là thước đo. Tôi không thấy mùi vị của sự chán nản, ngược lại, tôi nhận ra sự cao giá của người tình.
Ở trong thơ, nói và hiểu là hai việc khác nhau. Đó là nghệ thuật phô diễn. Trần Gia Thái cho ta thấy biết bao nhiêu cung bậc của tình cảm khi yêu, kể cả khi anh nói nhún, anh tự ti, anh bơ vơ, mộng du, đau khổ…thì đấy là một trường tình, tất cả hiện ra, nhưng không một lần ta thấy anh nhỏ bé. Kể cả khi anh thú nhận:

Cơn bão giữa lòng người
Cơn bão trong lòng đất
Bão quật anh tơi bời
Giữa đôi bờ còn ? mất ?
(Em đi)

Ôi chàng trai si tình! Anh có thể bước đi không vững trong cơn say nhưng tình yêu của anh thật cường tráng.

Trần Gia Thái có những bài thơ tình ấn tượng. Đọc lên, ta có thể ôm được sự nồng nhiệt. Từ góc khuất riêng tư ấy, anh mở ra với thế sự, với việc đời. Mảng thơ này của anh cho tôi hoàn thiện chân dung của tác giả. Mở ra với sự đời là sống với những áp lực, những dồn đuổi, là biết bao nhiêu cái ở ngoài tầm tay, đó là những vạn biến. Để sống với nó, cần có sự bất biến. Đó là sống thật. Trong bài “ Một lần đúng “ Trần Gia Thái muốn trở thành một người điên để “ có quyền sống thật “ và để “ không bị người đời thô bỉ, nhẩy xổ vào cuộc sống riêng “. Liệu anh có thể làm được như thế hay không, khoan hãy bàn. Cái cần bàn, cần quan tâm trước nhất, là một thái độ sống đúng đắn: Sống thật. Đó là một phẩm giá.

Một người đeo đuổi cái thật, tôn cái thật như một lẽ sống như thế, đã khiến ta cảm động với biết bao ứng xử trước việc đời. Trần Gia Thái nói về những người thân thành thật và cảm động bao nhiêu, thì anh càng nồng nhiệt và tâm huyết trước việc đời rộng lớn bấy nhiêu. Ở mảng thơ thế sự này, thơ anh biến hóa, sinh động, tươi tốt hẳn lên. Có lúc rất mộc:

Ổ rơm chân đất manh chiếu rách
Một mùa được mấy bữa no nê
( Sao mà nhớ )

Có lúc xót xa cay đắng:

Năm mươi ba tuổi ta bầm dập thương tích
Đòn vu hồi từ những kẻ vẫn xưng là bạn là anh
(Tuổi 53)

Có lúc vô cùng thương cảm khi viết về người cha đã khuất:

Cứ tưởng người đi dạo lúa dạo đồng
Người đi chở cát với vôi nồng
Người đi đội đá xây mương nổi
Đong bát mồ hôi đổi cháo không

Bát cháo đồng chiêm cơ cực ơi
Nuốt vào cay đắng nuốt không trôi
Mồ hôi thì mặn nước mắt chát
Đeo đẳng đời cha từng giọt rơi
(Nhớ Cha)

Và nhiều nữa. Tất cả tất cả, từng nấc từng nấc trong một cuộc hành trình thơ, một hành trình đời, và những va quệt nhân tình không nhân nhượng và nhẹ tay, đã để lại dấu ấn mặn mòi trên những trang thơ của Trần Gia Thái. Tôi không chú ý lắm về việc tác giả đã sử dụng những thủ pháp nghệ thuật gì, tôi chỉ quan tâm tới hiệu quả, Trần Gia Thái đã làm ta cảm động nhận ra Anh.

Một tập thơ tươi lên nhiều hy vọng.
Hà Nội, ngày 22/2/2011
H.T
(Nguồn: Tạp chí Nhà văn số tháng 9/2011)
Nguồn: Phạm Viết Đào -Blog.

Nguyễn Xuân Diện: 

Phải chăng đây là hồi kèn mà ông Hữu Thỉnh - người quy kết trí thức "da báo" trong bài viết của GS Ngô Đức Thọ, ở đây này  - thổi lên để tiễn biệt thi sĩ Trần Gia Thái?

Còn điếu văn ông Hữu Thỉnh, chắc cũng đã có bản nháp đang lưu ở đâu đó rồi....


TIẾP TỤC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỐNG ĐA

VỀ VIỆC BỔ SUNG CHỨNG CỨ KIỆN  
ĐÀI PHÁT THANH VÀ TRUYỀN HÌNH HÀ NỘI




Thưa chư vị,

Theo yêu cầu được ông Thẩm phán Nguyễn Văn Thắng, Toàn án Nhân dân quận Đống Đa đưa ra trong buổi làm việc trước, hôm nay, Luật sư Hà Huy Sơn  và ông Nguyễn Đăng Quang đã gửi đến Tòa án Nhân dân quận Đống Đa (qua đường Bưu điện) các tài liệu có liên quan đến vụ kiện Đài PH-TH Hà Nội.

Các vị nào đã tham gia biểu tình (kể cả đã bị bắt, bị giam giữ trái phép tại các đồn công an) hãy hoàn tất các thủ tục của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, gửi thẳng đến Tòa án Nhân dân quận Đống Đa, Địa chỉ: 89, Phố Tây Sơn , Đống Đa, Hà Nội (ĐT (84-4) 38 512 571 - 35 331 91), với mẫu như trên (có thể chứng minh bằng các giấy triệu tập, giấy mời, biên bản làm việc, QĐ tam giữ, tạm tha...).  

Nguyễn Xuân Diện

CHUA XÓT LÒNG CON! MẸ VIỆT NAM ƠI!


Mẹ Việt Nam ơi!
Quách Đình Đạt

Thú thực, sau khi đọc được tin người ta định xây dựng tượng Mẹ Việt Nam anh hùng với chi phí hơn 400 tỉ, tôi cứ day dứt mãi. Dù không sinh ra trong thời chiến, nhưng qua những thước phim, lời ca, trang sách, tôi cũng vẫn cảm nhận được những hi sinh, mất mát của các Mẹ.

Khi đã sinh con ra, mẹ nào cũng muốn con mình yên ấm, hạnh phúc. Nhưng vì đất nước, các mẹ lần lượt tiễn những đứa con thân yêu ra chiến trường. Việc chăm sóc các Mẹ Việt Nam là trách nhiệm của toàn xã hội, sao cho xứng đáng với những hi sinh của mẹ và các con của mẹ cho cuộc sống thanh bình hôm nay. Tuy nhiên, việc làm như thế nào lại là một điều thực đáng suy nghĩ sao cho thấu đáo.

Ngày 14-7, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam Lê Phước Thanh đã ký quyết định bổ sung 330 tỉ đồng cho dự án xây dựng tượng đài mẹ Việt Nam anh hùng, lấy nguyên mẫu mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Thứ, tại khu vực núi Cấm (xã Tam Phú, TP Tam Kỳ, Quảng Nam), nâng tổng số tiền đầu tư từ ngân sách Trung ương và ngân sách tỉnh lên hơn 410 tỉ đồng, gấp 5 lần số tiền được phê duyệt ban đầu là 81 tỉ đồng (vào tháng 8-2007).

Với tổng mức đầu tư như vậy, UBND tỉnh Quảng Nam có "tham vọng" xây dựng lên một tượng đài lớn nhất Việt Nam và lớn nhất toàn Đông Nam Á. Giả sử, nếu công trình được xây dựng thành công, sẽ là một công trình biểu dương sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tôn vinh sự hy sinh lớn lao của các mẹ, và là một tấm gương cho các thế hệ mai sau.

Tuy nhiên, còn có những điều trăn trở. Và dù có ai chế cười, đánh giá là thiển cận, thì cũng phải nói cho ra. Khi bức tượng được hoàn thành, ai sẽ được nhớ đến?

- Người ta nhớ tới con người tài hoa đã thiết kế công trình vĩ đại này?

- Nhiều người nhớ công của vị chủ tịch Quảng Nam Lê Phước Thanh đã ghi dấu ấn trong nhiệm kỳ?

Thế nhưng, còn hàng ngàn bà mẹ khác trên đất nước mình thì sao. Hầu hết các mẹ đều sống trong hoàn cảnh rất khó khăn. Nhà nước không đủ kinh phí để xây dựng nhà tình nghĩa, còn phải nhờ tới bàn tay của nhiều doanh nghiệp,các nhà hảo tâm. Con biết các mẹ vẫn vững tin, và không đòi hỏi. Nhưng đó là trách nhiệm "báo hiếu" mà chúng con phải làm.

Vừa qua, Kỷ niệm 64 năm ngày Thương binh - Liệt sĩ (27-7-1947 - 27-7-2011), sáng 25-7-2011 Quận ủy, UBND quận 8 làm lễ trao 17 căn nhà tình nghĩa cho 17 hộ gia đình chính sách (12 gia đình liệt sĩ, 5 thương binh) trên địa bàn quận. Tổng trị giá là 3,2 tỷ đồng. Trung bình 1 căn nhà là 188 triệu đồng. Vậy với 410 tỉ, ta có thể xây khoảng 2.200 căn nhà tình nghĩa.

Đất nước mình còn hàng ngàn bà mẹ khác cũng chịu nhiều hy sinh mất mát. Chúng ta ai cũng vậy, đều muốn chăm sóc và phụng dưỡng mẹ mình khi còn sống. Chẳng ai muốn để mẹ khổ, rồi khi thác lại khóc thương. Nếu có ai đó quanh ta như vậy, hẳn sẽ bị cho rằng bất hiếu. Từ đó, có thể thấy những việc làm  thực tế quan trọng hơn việc tạo nên cái "danh".

Chưa nói tới chuyện ai "ăn được gì", quản lý công trình có thất thoát hay không, chỉ cần nghĩ tới tính thiết thực thôi cũng thấy cũng cần phải suy xét lại.

Xin lấy lời bài hát "Người Mẹ của tôi" của tác giả Xuân Hồng thay lời kết

"Mẹ Việt Nam ơi! mẹ Việt Nam ơi!
khi con đi qua khắp nẻo đường, nghe đau thương chìm trong khói hương.
Mong sao cơn mưa gió vô thường không lung lay làm rớt hạt sương.
.....
Mẹ Việt nam ơi! mẹ Việt Nam ơi!
Cho con xin chia sớt nỗi buồn, cho con xin sẻ đôi bát cơm,
cho con hôn đôi mắt mỏi mòn cho con soi lại bóng hình con."

Đừng để mưa gió vô thường làm lung lay mẹ, hãy chia sớt nỗi buồn, sẻ đôi bát cơm. Đừng biến mẹ thành... tượng đá!

HOAN NGHÊNH BỘ TRƯỞNG VƯƠNG ĐÌNH HUỆ

Ông Vương Đình Huệ, Bộ trưởng Tài Chính. Ảnh: Internet

TIN VUI TỪ BỘ TRƯỞNG TÀI CHÍNH VƯƠNG ĐÌNH HUỆ
Bùi Công Tự

Cách đây ít ngày, trong một bài viết bàn về những thách thức chờ đợi Chính phủ nhiệm kỳ khóa XIII, tôi đã gởi gắm niềm tin vào các vị Bộ trưởng là người mới được bổ nhiệm. Lúc đó, tôi hy vọng bởi đơn giản nghĩ rằng có người mói chắc là có chính sách mới, cách làm việc mới.

Hôm nay, ngày 21/09/2011 theo dõi thông tin về hội thảo” điều hành giá xăng dầu theo cơ chế thị trường” tôi thấy cách làm việc của ông BT Tài chính Vương Đình Huệ rất là ấn tượng.

Mặc dù các ông Nguyễn Cẩm Tú (Thứ trưởng Bộ Công thương), Bùi Ngọc Bảo (TGĐ Petrolimex), Lê Xuân Trình (TGĐ PV Oil) đã lớn tiếng phản công Bộ Tài chính, trách cứ Bộ này điều hành giá xăng dầu theo kiểu “sống chết mặc bay”, đồng thời kêu ca doanh nghiệp thua lỗ trường kỳ vì giá xăng dầu thấp, ông Vương Đình Huệ đã tỏ ra đầy bản lĩnh.

Thưa bạn đọc, tại thời điểm này, qua nội dung hội thảo nói trên, tôi nhận thấy dư luận rất hoan nghênh BT Tài chính Vương Đình Huệ.

Trước hết tôi thấy ông Huệ có sự tự tin, dám tự khẳng định mình. Ông nói: “Tôi có 5 năm làm Phó Tổng kiểm toán, 5 năm làm Tổng kiểm toán NN. Tôi không chỉ đủ sức quản lý hàng trăm DN mà tôi đủ năng lực quản lý toàn bộ nền kinh tế đất nước”.

Ông cũng tỏ ra là người dám làm, dám chịu. Ông nói: “Tôi ra quyết định quản lý giá và tôi chịu trách nhiệm cá nhân”. “Nếu cách điều hành của chúng tôi gây thiệt hại cho DN, chúng tôi chịu trách nhiệm và bồi thường”.

Ông Huệ cũng giải thích rõ ràng:” Sỡ dĩ giá xăng dầu chưa thể thả nổi theo thị trường ngay được vì vẫn còn tồn tại độc quyền. Ba DN lớn đang chiếm trên 90% thị phần… nếu 03 DN này “đi đêm” với nhau thì các DN khác chết, người tiêu dùng sẽ chịu thiệt”.

Ông Huệ thẳng thắn:” “Nếu DN nào (kinh doanh xăng dầu) không làn được thì rút lui đi. Chúng tôi sẵn sàng cho giải tán để lập Công ty khác”.

Những phát ngôn mạnh mẽ như trên tôi ít thấy ở các vị Bộ trưởng trước đây.

Ông Vương Đình Huệ đã đứng hẳn về phía quyền lợi của toàn thể các DN và quyền lợi của nhân dân. Ông đã không bị chi phối bởi các nhóm lợi ích trông việc điều tiết giá xăng dầu. Bộ Tài chính có vai trò quyết định trong vận hành nền kinh tế quốc dân. Dư luận cả nước đang chăm chú theo dõi và đã nhận ra những tín hiệu đáng mừng từ Bộ trưởng Vương Đình Huệ.

Mong Bộ trưởng Vương Đình Huệ tiếp tục phát huy bản lĩnh của mình, đồng thời cũng mong các vị Bộ trưởng khác làm việc đứng trên lợi ích quốc gia và lợi ích nhân dân.

Thành phố HCM, ngày 21 tháng 09 năm 2011.



Nguyễn Xuân Diện:
Tối qua, có bữa tiệc, nhưng đến đoạn ông Vương Đình Huệ nói trên VTV1, tôi cũng có theo dõi. Tôi thấy ông phát biểu đúng như tôi mong đợi: Phát biểu tỏ rõ là đang chỉ đạo, tháo gỡ, ngôn ngữ quyết liệt, dễ hiểu, đúng vị thế, chứ không nói kiểu xuê xoa, nhời hay ý đẹp, diễn như các ông lớn khác. Bác Nghị tôi cùng dự tiệc cũng khen ông Huệ. Tôi mừng cho đất nước có ông Bộ trưởng như ông Huệ!

Thứ Ba, 20 tháng 9, 2011

PHÁT HIỆN TÀI LIỆU MỚI VỀ ĐỘI HÙNG BINH HOÀNG SA

Phát hiện tài liệu mới về đội hùng binh Hoàng Sa

Dòng họ Võ Văn ở huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) đang lưu giữ những tài liệu cho thấy tổ tiên họ từng gia nhập đội hùng binh ra Hoàng Sa làm nhiệm vụ từ năm 1786, sớm hơn 30 năm so với các tài liệu công bố trước đây.

> 'Bảo tàng biển đảo' của nhà nghiên cứu Huế/ Phát hiện sách giáo khoa thời vua Tự Đức dạy về Hoàng Sa

Trong lúc thực hiện dự án “Khôi phục những ngôi mộ của binh phu đi Hoàng Sa”, tiến sĩ Nguyễn Đăng Vũ, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quảng Ngãi đã phát hiện nhiều tài liệu quý của dòng họ Võ Văn ở huyện đảo Lý Sơn liên quan đến chủ quyền lãnh hải Hoàng Sa, Trường Sa từ cuối thế kỷ 18. Võ Văn là một trong 13 dòng họ tiền hiền trên đất đảo Lý Sơn.

Sau nhiều lần phiên dịch, tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu lưu trữ viết bằng chữ Hán của dòng họ này, tiến sĩ Vũ kết luận: “Tộc họ Võ Văn ở Lý Sơn có công rất lớn trong việc thiết lập đội Hoàng Sa kiêm quản Trường Sa, giong buồm ra biển Đông đo đạc hải trình, tìm kiếm các hải vật, sản vật và khí cụ về dâng nộp lên triều đình từ cuối thế kỷ 18". 

Đến nay, tại Lý Sơn cũng như ở vùng ven biển Quảng Ngãi, chưa tìm thấy tài liệu nào ghi chép về đội hùng binh Hoàng Sa sớm hơn tài liệu của dòng họ Võ Văn. Những tài liệu này ghi rõ ràng: Vào năm Thái Đức thứ 9 - 1786, triều đình Tây Sơn đã cử Võ Văn Khiết làm cai đội Hoàng Sa có nhiệm vụ tuyển mộ binh phu cho đội Hoàng Sa và đội Quế Hương để đi tìm đồi mồi, ba ba biển, các đồ vật quý hiếm trên biển để về phụng nộp cho triều đình. 

Tiến sĩ Nguyễn Đăng Vũ, Giám đốc Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Quảng Ngãi tiếp cận tài liệu cổ liên quan đến đội Hùng binh Hoàng Sa của dòng họ Võ Văn ở huyện đảo Lý Sơn. Ảnh: Trí Tín
Tiến sĩ Nguyễn Đăng Vũ, Giám đốc Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Quảng Ngãi tiếp cận tài liệu cổ liên quan đến đội hùng binh Hoàng Sa của dòng họ Võ Văn ở huyện đảo Lý Sơn. Ảnh: Trí Tín
Căn cứ vào các bộ chính sử, từ trước đến nay các nhà nghiên cứu cho rằng Cai đội Phạm Quang Ảnh đi ra Hoàng Sa, Trường Sa sớm nhất, vào năm Ất Hợi - 1815. Tuy nhiên, những tài liệu mà Tiến sĩ Vũ và các nhà nghiên cứu đã sưu tầm được, đặc biệt là tài liệu Hán Nôm tìm thấy trong dòng họ Võ Văn, cho thấy "Cai đội Võ Văn Khiết mới là người Lý Sơn chỉ huy đội Hoàng Sa sớm nhất. Nối tiếp ông Khiết là Cai đội Võ Văn Phú ra Hoàng Sa vào năm 1803" - ông Vũ nhận định. 

Hiện tài liệu của dòng họ Võ còn lưu tờ kê trình của Cai thủ cửa biển Sa Kỳ kiêm cai cơ thủ ngự quản đội Hoàng Sa là Phú Nhuận hầu Võ Văn Phú, nói về việc trình tấu cho ông Võ Văn Khiết làm cai đình An Vĩnh vào năm 1803. Tờ kê trình này ghi chép rõ: Tiếp theo Võ Văn Khiết còn có con ông là Võ Văn Phú, mà trong các bộ chính sử có ghi là Phú Nhuận hầu, cũng là cai đội Hoàng Sa vào năm Gia Long thứ 2 (1803). 

Ngoài ra, dòng họ Võ Văn còn có nhiều người đi Hoàng Sa nữa, tiêu biểu là Võ Văn Hùng - người mà trong các bộ chính sử triều Nguyễn có nhắc đến nhiều lần với vai trò người dẫn đường cho thủy quân và tuyển chọn đà công, thủy thủ... Đó là những người vâng mệnh triều đình thực thi nhiệm vụ cắm mốc chủ quyền trên đảo Hoàng Sa trong thời Minh Mạng. 

Tại nhà ông Võ Văn Út, hậu duệ thứ 16 của họ Võ ở Lý Sơn, còn giữ phả tộc cổ cũng có ghi chép rõ ràng: Võ Văn Hùng là một trong 10 người con của Hội nghĩa hầu Võ Văn Khiết, ít nhất đã ba lần vượt biển Đông ra Hoàng Sa. Năm Giáp Ngọ (1834) có thể là chuyến vượt biển lần thứ hai của ông. 

Chính vì thông thạo hải trình, luồng lạch nên ông Hùng được giao nhiệm vụ dẫn đường (hay còn gọi hoa tiêu) cho hải đội ra quần đảo Hoàng Sa. Cùng đi với ông còn có em trai Võ Văn Công. Người trực tiếp cầm lái là ông Đặng Văn Siểm cùng quê Lý Sơn với anh em họ Võ. 

Chính ông Võ Văn Hùng có nhiệm vụ tuyển chọn binh phu đi Hoàng Sa trong trai làng Lý Sơn. Khởi hành vào năm Ất Mùi (1835), những người trực tiếp đưa đoàn thuyền ra quần đảo này như Võ Văn Hùng, Phạm Văn Sanh được khen thưởng vì sự tận tâm với trọng trách. 

Phần mộ của Cai đội Hoàng Sa Võ Văn Khiết ở thôn Tây, xã An Vĩnh, huyện đảo Lý Sơn. Ảnh: Trí Tín
Phần mộ của Cai đội Hoàng Sa Võ Văn Khiết ở thôn Tây, xã An Vĩnh, huyện đảo Lý Sơn. Ảnh: Trí Tín

Ông Võ Văn Khiết đã được phong tước Hội Nghĩa hầu, mộ còn ở thôn Tây, làng An Vĩnh, Lý Sơn. Nhưng mộ của Võ Văn Phú, Võ Văn Hùng, Võ Văn Công, Võ Văn Sanh… mà gia phả họ Võ Văn còn ghi, vẫn chưa xác định được nơi yên nghỉ. 

Tiến sĩ Vũ cho rằng, có thể họ đã không có cơ may trở về sau những lần vượt biển đi đo đạc thủy trình, cắm mốc, dựng bia chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa từ hai trăm năm trước.
Trí Tín
 

KHẢO CỨU TÀI LIỆU LÝ SƠN


Khảo cứu tài liệu Lý Sơn
Nguyễn Đăng Vũ – Nguyễn Xuân Diện
1. Quá trình phát hiện và công bố văn bản: 
Ngày 31 tháng 3 năm 2009, dòng họ Đặng ở huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi thông tin tới TS Nguyễn Đăng Vũ – Phó Giám đốc Sở VH-TT & DL tỉnh Quảng Ngãi về việc gia tộc đang lưu giữ những văn bản chữ Nho mà chưa rõ nội dung, rất có thể là những tài liệu có liên quan đến việc đi Hoàng Sa của tổ tiên. Ngày 1 tháng 4, TS. Nguyễn Đăng Vũ đã ra đảo Lý Sơn và tiếp cận với văn bản. Ngay sau đó TS. Nguyễn Đăng Vũ đã cung cấp thông tin cho báo chí. Liên tiếp những ngày sau đó các báo chí đã đưa tin và được dư luận quan tâm đặc biệt. 
Nhận thấy đây là một văn bản quý giá, góp phần chứng minh và đấu tranh đòi lại quần đảo Hoàng Sa đang bị phía Trung Quốc chiếm đóng trái phép, được TS Nguyễn Đăng Vũ thuyết phục, gia tộc họ Đặng đã bàn bạc thống nhất hiến tặng văn bản này cho nhà nước.
Sáng ngày 9 tháng 4 năm 2009, tại thôn Đồng Hộ, xã An Hải, huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, tộc họ Đặng đã tổ chức một ngày giỗ đặc biệt. Con cháu trong họ từ khắp nơi trở về tề tựu đông đủ tại nhà thờ tổ để chứng kiến việc dâng hiến báu vật của dòng họ mình cho Nhà nước. TS. Nguyễn Đăng Vũ đại diện cho Sở VH-TT và Du lịch Quảng Ngãi tiếp nhận văn bản. Ngày 10 tháng 4, báo Thanh Niên công bố toàn văn bản dịch văn bản Lý Sơn của TS. Nguyễn Xuân Diện (người có mặt tại đảo Lý Sơn, trong lễ bàn giao hiến tặng tờ lệnh) và Thạc sĩ Nguyễn Đức Toàn.
Ngày 10 tháng 4, tại UBND tỉnh Quảng Ngãi, trước sự chứng kiến của đại diện gia tộc họ Đặng, lãnh đạo tỉnh Quảng Ngãi đã trao cho đại diện Ban Biên giới của Bộ Ngoại giao Việt Nam văn bản gốc của tờ lệnh. Hiện tại (tháng 12/2009) văn bản gốc tờ lệnh được lưu trữ tại Bộ Ngoại giao Việt Nam. 
2. Bản phiên âm và dịch nghĩa tài liệu Lý Sơn: 
Phiên âm:
Ngãi tỉnh Bố - Án quan vi bằng cấp sự. Chiếu đắc nguyệt tiền tiếp Binh bộ tư tự, phụng sắc Bộ hành tư, tiên hành dự bát chinh thuyền tam tao, tu bổ kiên cố, sĩ tại kinh. Phái viên cập thủy quân biền binh tiền vãng hiệp đồng sử thám Hoàng Sa xứ đẳng. Nhân khâm thử kỳ cố bát tại tỉnh chi khinh khoái thuyền tam tao tịnh tùy thuyền vật kiện các hành tu bổ. Tái xuất khứ niên sở phái chi Võ Văn Hùng cập tăng giản diên hải dân phu am thục hải trình giả, sung thuyền công thủy thủ. Tiền hậu vụ yếu mỗi tao bát danh, cai nhị thập tứ danh, vụ ư tam nguyệt hạ tuần thừa thuận sử phóng đẳng. Nhân tư biện lý các dĩ thanh thỏa, phái viên hiện dĩ thừa lê thuyền sử đáo. Tư cứ Võ Văn Hùng lân trạch thiện thủy dân Đặng Văm Siểm đẳng khả kham đà công sự đẳng. Nhân hiệp hành bằng cấp nghi thừa thuyền nhất tao suất nội thuyền thủy thủ đẳng danh tòng phái viên biền binh tịnh Võ Văn Hùng đồng vãng Hoàng Sa xứ phụng hành công vụ. 
Giá hải trình quan yếu, tu nghi thực lực thừa hành, vụ đắc thập phần ổn thỏa, nhược sơ hốt tất can trọng tội. Sở hữu can danh, khai liệt vu hậu, tu chí bằng cấp giả. 
Hữu bằng cấp.
Bình Sơn huyện, An Hải phường, đà công Đặng Văn Siểm, Hoa Diêm thôn Dương Văn Định cứ thử. 
Thủy thủ:
Danh Đề, Phạm Vị Thanh - An Vĩnh phường
Danh Sơ, Trần Văn Kham - An Vĩnh phường
Danh Lê, Trần Văn Lê - Bàn An ấp. Do Kim thương đội, nhị danh.
Vũ Văn Nội
Danh Trâm, Ao Văn , Trâm – Lệ Thủy Đông nhị danh
Danh Xuyên, Nguyễn Văn Mạnh - An Hải phường
Danh Doanh, Nguyễn Văn Doanh, Mộ Hoa huyện, An Thạch, Thạch Than thôn
Trương Văn Tài
Minh Mệnh ngũ thập niên, Tứ nguyệt, Thập ngũ nhật.
Dịch nghĩa: 
Quan Án sát và Bố chánh tỉnh (Quảng) Ngãi làm việc cấp bằng này. Chiếu theo tháng trước tiếp được công văn của bộ Binh, vâng sắc (triều đình) cho bộ ấy trước là phải thi hành việc tuyển chọn, trưng tập 3 thuyền, sửa sang bền chắc, đợi sẵn ở kinh. Các phái viên và lính thủy đi trước để cùng thám sát các vùng của xứ Hoàng Sa. Nhân kính theo đó mà xem xét và tuyển chọn trong tỉnh 3 thuyền tốt, cùng với đó là các vật dụng được tu bổ vững chắc, lại chọn ra tên Võ Văn Hùng – đã được cử đi từ năm trước và chọn thêm những dân phu ven biển thạo đường biển để sung làm thủy thủ trên thuyền. Cốt yếu là phải chọn mỗi thuyền 8 tên, tổng cộng là 24 tên, cứ đến hạ tuần tháng Ba thì thuận theo thời tiết mà đi.
Nay, nhân các việc đã xong xuôi, các phái viên đã đi lê thuyền đến; chọn thủy thủ giỏi mà Võ Văn Hùng đã tuyển chọn là bọn Đặng Văn Siểm có thể đảm nhận công việc lái thuyền. Nhân đấy mà cấp cho bằng này để đi một thuyền dẫn các thủy thủ trên thuyền theo quân của phái viên và Võ Văn Hùng cùng đến Hoàng Sa thi hành việc công. 
Đường biển ấy là nơi quan yếu, phải dốc sức mà thừa hành để cho công việc được mười phần trọn vẹn. Nếu bất cẩn, sẽ phạm trọng tội. 
Các người có trách nhiệm kê ở dưới đây. Vậy nên có bằng cấp này. 
Trở lên là bằng cấp. 
Đà công Đặng Văn Siểm người phường An Hải huyện Bình Sơn và Dương Văn Định, người thôn Hoa Diêm theo đây mà thi hành. 
Kê:
Thủy thủ:
Tên Đề - Phạm Vị Thanh, An Vĩnh phường;
Tên Sơ - Trần Văn Kham, An Vĩnh phường;
Tên Lê - Trần Văn Lê, Bàn An ấp; thuộc đội súng ống, 2 tên.
Vũ Văn Nội,
Tên Trâm - Ao Văn Trâm, Lệ Thủy Đông hai tên
Tên Xuyên - Nguyễn Văn Mạnh, An Hải phường
Tên Doanh - Nguyễn Văn Doanh, Mộ Hoa huyện, An Thạch, Thạch Than thôn
Trương Văn Tài
Minh Mệnh năm thứ 15 (1834), tháng Tư, ngày 15.
(Bản dịch của Nguyễn Xuân Diện và Nguyễn Đức Toàn) 
3. Khảo cứu văn bản: 
3.1. Kích thước tờ lệnh: 24 x 36 cm. Trên văn bản Lý Sơn có rất nhiều dấu ấn. Ngoài dấu ấn to của Quan Bố Chánh sứ Quảng Ngãi, còn có các dấu ấn nhỏ, dùng để đóng vào nơi ghi tên người và những chữ cần đặc biệt lưu ý đối với người tiếp nhận văn bản. Ở đây là dấu ấn mang các chữ: Quảng Ngãi Án sát, theo lối chữ triện.
Dấu ấn này gọi là kiềm ấn, hình vuông, mỗi cạnh 2.5 x 2.5 cm, làm bằng ngà voi.
Hai dấu ấn: Quảng Ngãi Bố chánh sứ ty chi ấn (đóng từ con ấn đồng, vuông, mỗi chiều 7,5 cm) và Quảng Ngãi Án sát cùng đi với nhau, cùng có mặt trên văn bản này. Vì sao vậy?
Đó là vì ở các tỉnh, khi mà Tổng đốc, Tuần phủ đi vắng, hoặc tỉnh vẫn khuyết chân Tuần phủ, nếu có việc cơ mật quan Bố Chánh phải họp với Quan Án sát sứ. 
Chúng ta biết rằng, tỉnh Quảng Ngãi được chính thức thành lập (là đơn vị cấp tỉnh) vào năm 1832 (năm Minh Mạng thứ 13). Theo Đại Nam thực lục của Quốc sử quán triều Nguyễn, và cả những ghi chép trong Hải Nam tạp trứ của Thái Đình Lan - một nho sinh Đài Loan bị gió bão đánh trôi giạt vào bờ biển tỉnh Quảng Ngãi vào thời điểm này - lúc bấy giờ tỉnh Quảng Ngãi chưa có quan Tuần phủ riêng, tiến sĩ Phan Thanh Giản là người kiêm chức Tuần phủ Nam - Ngãi (cả Quảng Nam lẫn Quảng Ngãi, nhưng chỉ đóng dinh thự ở Quảng Nam). Hai vị quan trực tiếp xử lý toàn bộ công việc chính trị, hành chính, chính sự, quân sự...tại Quảng Ngãi là Bố chánh (mà lúc đó Ty Bố chánh gọi là Ty Phiên) và Án sát (Ty Án sát gọi là Ty Niết). Hai ty Phiên và Niết đều đặt tại tỉnh thành Quảng Ngãi. 
Bố chánh Quảng Ngãi 1834 là Lê Nguyên Trung, rồi sau đó là Trương Văn Uyển, 1835 là Tôn Thất Bạch; Án sát Quảng Ngãi 1834 là Nguyễn Đức Hội và 1835 là Đặng Kim Giám. Khi cần ban một quyết định cơ mật, thì cả quan Bố chánh và Án sát cần phải hiệp y. Vì thế, trên văn bản cổ này có đóng dấu của cả quan Án sát và quan Bố chánh. Và cũng chính từ 2 con dấu đỏ đóng trên văn bản này chúng ta cũng có thể suy luận thêm, việc cử các ông Võ Văn Hùng, Đặng Văn Siểm, và nhiều người khác (có ghi trong văn bản) đi Hoàng Sa còn là một việc hết sức quan trọng và cơ mật.
Ngoài ra, trên văn bản Lý Sơn còn có đóng 1 con dấu nữa, mang hai chữ Quảng Ngãi. 
3.2. Về các nhân danh và địa danh trong văn bản. 
Những gì còn lưu lại tại gia tộc họ Võ làng An Vĩnh huyện Lý Sơn, cho phép ta khẳng định: Ông Võ Văn Hùng là người thuộc gia tộc họ Võ (Văn) tại làng An Vĩnh, một dòng họ có nhiều người đi Hoàng Sa trong nhiều thế kỷ. Cai cơ thủ ngự quản đội Hoàng Sa Phú Nhuận hầu Võ Văn Phú là một ví dụ điển hình. Bên cạnh ông Võ Văn Hùng, trong văn bản cổ có ghi những người phải thi hành nhiệm vụ (khác): đó là Đặng Văn Siểm (làm đà công, tức lái thuyền), Dương Văn Định, và các thủy thủy cùng đi, gồm: Phạm Vị Thanh, Ao Văn Trâm, Trần Văn Kham, Nguyễn Văn Mạnh, Trần Văn Lê, Nguyễn Văn Dinh, Võ Văn Công, Trương Văn Tài. 
Trong đó có 4 người ở đảo Lý Sơn, mà lúc đó là chỉ là xã Lý Sơn, với hai phường là An Vĩnh và An Hải, thuộc tổng Bình Hà, huyện Bình Sơn. Hai người không ghi quê quán là Võ Văn Công và Trương Văn Tài, nhưng có lẽ họ cũng là người của Lý Sơn. Ông Võ Văn Công có thể là người dòng họ Võ (Văn) ở An Vĩnh. Ông Trương Văn Tài có thể thuộc dòng họ Trương ở An Hải – một trong lục tộc tiền hiền của làng này. Sở dĩ ta có thể suy đoán ra điều đó, vì những dân binh này đều do chính ông Võ Văn Hùng tuyển chọn. Nếu đúng như vậy, thì trong số 11 người có tên trong văn bản cổ của dòng họ Đặng, 7 người là người của huyện đảo Lý Sơn.
Ngoài ra, văn bản cổ này còn ghi những người thuộc các huyện khác trong tỉnh Quảng Ngãi. Ông Ao Văn Trâm được ghi là ở Lệ Thủy Đông Nhị, mà Lệ Thủy Đông Nhị vốn là một xã cũng thuộc tổng Bình Hà, huyện Bình Sơn (có thể tương đương với xã Bình Trị hiện nay, tức là nơi có Nhà máy lọc dầu Dung Quất). Theo Đồng Khánh địa dư chí, địa danh Lệ Thủy Đông Nhị (xã) còn tồn tại đến thời vua Đồng Khánh (1885 – 1888). 
Ông Trần Văn Lê được ghi là ở Bàn An ấp, thuộc thôn Thạch Than, tổng Ca Đức, huyện Mộ Hoa (bao gồm huyện Mộ Đức và Đức Phổ hiện nay). Bàn An là tên một thôn thuộc xã Phổ Quang, huyện Đức Phổ ngày nay. Ông Nguyễn Văn Dinh (Doanh) được ghi là ở thôn Thạch Than, xã An Thạch. Đối chiếu với các sử liệu cũ, thôn Thạch Than, xã An Thạch cũng thuộc tổng Ca Đức, huyện Mộ Hoa (nay tên gọi Thạch Than chỉ dùng để chỉ một thôn thuộc xã Đức Phong, huyện Mộ Đức). Như vậy hai ông Trần Văn Lê và Nguyễn Văn Dinh cùng ở thôn Thạch Than, xã An Thạch, tổng Ca Đức, huyện Mộ Hoa. 
Về hai ông Dương Văn Định và Đặng Văn Siểm, họ là những người được quan Bố chánh và Án sát trực tiếp chỉ định “cứ thử”, tức phải vâng mệnh thi hành. Như đã nói ở trên, ông Đặng Văn Siểm được xác định rõ là người phường An Vĩnh (Lý Sơn). Riêng ông Dương Văn Định, hiện vẫn chưa xác định được ở làng quê nào hiện nay. Văn bản cổ chỉ ghi là ông Dương Văn Định ở thôn Hoa Diêm (không ghi rõ xã, tổng, huyện).
Nhưng thôn Hoa Diêm thời ấy nay thuộc địa phương nào? Hiện nay, các thôn trong tỉnh Quảng Ngãi có chữ Diêm (muối, tức làng làm ruộng muối), gồm: Tân Diêm (thuộc xã Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ), thôn Tuyết Diêm (thuộc xã Bình Thuận, huyện Bình Sơn), thôn Diêm Điền (thuộc xã Bình Châu, huyện Bình Sơn)…Vì húy kỵ tên mẹ vua Thiệu Trị nên vào năm 1841 (năm Thiệu Trị thứ nhất), tất cả những tên người lẫn địa danh có chữ Hoa đều phải thay đổi, như Thanh Hoa, đổi thành Thanh Hóa, Đông Hoa thành Đông Ba, Mộ Hoa thành Mộ Đức…
Hoa Diêm chắc chắn cũng phải đổi, nhưng trong 3 địa danh có chữ Diêm như nói ở trên thì thôn nào vốn là thôn Hoa Diêm? Theo chúng tôi, có lẽ thôn Hoa Diêm của ông Dương Văn Định chính là thôn Tuyết Diêm, thuộc xã Bình Thuận huyện Bình Sơn hiện nay, tức là nơi có bến cảng Dung Quất bây giờ. Vì rằng, thời ấy Lý Sơn thuộc tổng Bình Hà, huyện Bình Sơn. 
Các dân binh được tuyển chọn, ngoài hai ông Trần Văn Lê và Nguyễn Văn Dinh là người thuộc tổng Ca Đức, huyện Mộ Hoa, những người còn lại đều thuộc tổng Bình Hà, huyện Bình Sơn. Các thôn Diêm Điền, Tân Diêm đều thuộc các tổng khác (riêng Tân Diêm, nay thuộc Đức Phổ, thì với khoảng cách địa lý khá xa ấy càng không hợp lý). 
3.3. Sự trùng khớp với chính sử và châu bản triều Nguyễn:
Lần theo chính sử, ta thấy có một số sự kiện lịch sử liên quan đến nội dung của văn bản cổ này.
Sách Đại Nam thực lục, chính biên, đệ nhị kỷ, quyển 122 của Quốc sử quán triều Nguyễn ghi chép về những sự kiện lịch sử vào tháng 3 năm Minh Mạng thứ 15 (1834), có ghi: “Đội trưởng Trương Phúc Sĩ cùng thủy quân hơn 20 người đi thuyền đến đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi vẽ bản đồ” (Nxb Giáo dục, H. 2004, tập 4, tr.120). 
Sách này cũng cho biết, chính năm 1834 vua Minh Mạng đã sai binh lính đi dựng miếu và lập bia ở Hoàng Sa, nhưng vì sóng to gió lớn không làm được, nên vào tháng 6 năm Minh Mạng thứ 16 (1835), sai Cai đội Thủy quân Phạm Văn Nguyên đem thợ Giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định chuyên chở vật liệu đến dựng miếu, dựng bia đá đảo Hoàng Sa (tr. 673). 
Sách này còn cho biết thêm, vào tháng giêng năm Minh Mạng thứ 17 (1836), Bộ Công tâu rằng: “Cương giới mặt biển nước ta có xứ Hoàng Sa rất là hiểm yếu, đã phái vẽ bản đồ mà hình thế nó xa rộng, mới chỉ được một  nơi… Hàng năm nên phái người đi dò xét cho khắp để thuộc đường biển. Xin từ năm nay (1834) trở về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng chọn phái biền binh thủy quân và vệ giám thành đáp 1 chiếc thuyền ô, nhằm thượng tuần tháng hai thì đến Quảng Ngãi, bắt 2 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định thuê 4 chiếc thuyền của dân, hướng dẫn ra đúng xứ Hoàng Sa. 
Không cứ là đảo nào, hòn nào, bãi cát nào, khi thuyền đi đến cũng xét xem xứ ấy chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi và nước biển bốn bên xung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế hiểm trở, bình dị thế nào, phải tường tất đo đạc, vẽ thành bản đồ. Lại, xét ngày khởi hành, từ cửa biển nào ra khơi, nhằm phương hướng nào đi đến xứ ấy, căn cứ vào thuyền đi, tính ước được bao nhiêu dặm. Lại từ xứ ấy trông vào bờ bến, đối thẳng vào là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, đối chênh chếch là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, cách bờ biển chừng bao nhiêu dặm. Nhất nhất nói cho rõ, đem về dâng trình” (tr.867). 
Chuẩn theo lời tấu của Bộ Công, vua Minh Mạng sai Suất đội Thủy quân Phạm Hữu Nhật đem binh thuyền cùng 10 bài gỗ, mỗi bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc, mặt khắc chữ: “Minh Mạng thập thất niên, Bính Thân, Thủy quân Chánh đội trưởng Suất đội Phạm Hữu Nhật phụng mệnh vãng Hoàng Sa tương độ chí thử lưu đẳng tự” (Năm Minh Mạng thứ 17, năm Bính Thân (1836), Thủy quân Chánh đội trưởng Suất đội Phạm Hữu Nhật vâng mệnh đi Hoàng Sa xem xét, đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ).  Đây là sự kiện mà hầu hết các bộ chính sử của triều Nguyễn, như Đại Nam thực lục, Quốc triều chính biên toát yếu… đều  có ghi chép.
Ngoài những trang ghi chép về sự kiện đi Hoàng Sa vào các năm 1834, 1835, 1836, sách Đại Nam thực lục, đệ nhị kỷ, quyển 204, còn ghi chép thêm rằng, phái viên Hoàng Sa là Suất đội Thủy sư Phạm Văn Biện cùng thủy quân, binh phu đi Hoàng Sa bị gió bão đánh tan nát nên đến tháng 7 năm Minh Mạng thứ 20 (1839) mới “lục tục” về đến kinh thành. Hỏi vì sao, đoàn thuyền đi Hoàng Sa lần này cho biết, họ đã nhờ thủy thần cứu giúp. Vua Minh Mạng sai Bộ Lễ chọn địa điểm ở cửa biển Thuận An đặt đàn cúng tế tam sinh nhằm cảm tạ thủy thần, rồi thưởng tiền cho Phạm Văn Biện, các biền binh và dân phu đi theo (Tập 5, tr. 532).
Chỉ căn cứ theo các đoạn ghi chép nêu trên cũng đã thấy nội dung văn bản cổ của dòng họ Đặng là hoàn toàn trùng khớp với chính sử. 
Nội dung trùng khớp thứ nhất, đó là về thời gian: Hằng năm cứ vào hạ tuần tháng giêng là các phái viên, biền binh xuất quân ở kinh  thành, để đến thượng tuần tháng 2 là đến Quảng Ngãi và đến hạ tuần tháng 3 là đi Hoàng Sa. 
Thứ hai, là về số lượng binh thuyền, Đại Nam thực lục ghi: Ngoài số binh thuyền ở kinh thành phái vào, ở Quảng Ngãi (lẫn Bình Định) còn chuẩn bị thêm 3- 4 chiếc thuyền nhẹ của dân địa phương (mà ở đây văn bản cổ họ Đặng cho biết tỉnh Quảng Ngãi năm 1834 đã chuẩn bị 4 thuyền, trong đó có 1 thuyền dành riêng cho ông Võ Văn Hùng đi với 8 thủy thủ ở tỉnh Quảng Ngãi như chúng tôi đã nêu tên ở trước). Do vậy, có thể suy ra, chuyến công vụ Hoàng Sa theo văn bản cổ của dòng họ Đặng có tất cả 7 thuyền, chứ không phải chỉ có 3 thuyền như trước đây một vài người đã suy đoán.
Nội dung văn bản cổ của dòng họ Đặng còn trùng khớp với nhiều nguồn tài liệu, thư tịch bằng chữ Hán của các sử gia, quan lại ở những triều vua khác nhau, đặc biệt là những tài liệu, thư tịch có ghi chép khá kỹ lưỡng về hoạt động của đội Hoàng Sa – Trường Sa cũng như việc thực thi chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo này. 
Trước hết đó là những ghi chép của Nội các triều Nguyễn trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, những ghi chép của Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chíHoàng Việt địa dư chí, những ghi chép của Nguyễn Thông trong Việt sử cương giám khảo lược… Sở dĩ ta xem văn bản cổ của dòng họ Đặng có sự trùng khớp về nội dung so với các tài liệu này, bởi nhiều trang ghi chép trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, hay các sách của Phan Huy Chú, Nguyễn Thông không khác mấy với các bộ chính sử triều Nguyễn như Đại Nam thực lục, Quốc triều chính biên toát yếu, Đại Nam nhất thống chí.  
Riêng về hoạt động của đội Hoàng Sa, ngay từ thời đầu chúa Nguyễn, thì cũng thẳng thắn nhìn nhận rằng, hầu hết những trang ghi chép của các sử gia Việt Nam viết về hoạt động của đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải (bao gồm cả Trường Sa) ít nhiều cũng đã kế thừa, thậm chí có những chỗ gần như nguyên văn một số sự kiện mà Lê Quý Đôn mô tả trong bộ sách Phủ biên tạp lục biên soạn vào năm 1776, tức lúc Lê Quý Đôn theo lệnh của vua Lê - chúa Trịnh vào làm Hiệp trấn Thuận Hóa. 
Cùng với những trang ghi chép của các sử gia phong kiến Việt Nam, các quan ở Nội các triều Nguyễn trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, đó là các tờ phúc tấu, tấu trình lên cho vua của các đình thần như Bộ Công, Bộ Hộ, các quan đầu tỉnh…, và được vua phê chuẩn bằng mực son  (châu bản), đặc biệt là châu bản dưới thời vua Minh Mạng. 
Châu bản tập Minh Mạng số 54 cho biết, ngày 18 tháng 7 năm Minh Mạng thứ 16 (1835), nhà vua đã ra chỉ dụ thưởng phạt cho những người Hoàng Sa vào năm này (trong đó có ghi phạt Phạm Văn Nguyên và những viên giám thành 80 trượng vì tội trì hoãn thời gian đi Hoàng Sa, thưởng Võ Văn Hùng, Phạm Văn Sanh vì có công hướng dẫn hải trình). 
Phúc tấu của Bộ Công ngày 12 tháng 2 năm Bính Thân (1836) cho Phạm Hữu Nhật đi cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền. Tờ tấu của Bộ Hộ ngày 11 tháng 7 cũng năm Bính Thân (1836) cho xin thanh toán lương thực cho dân phu đi Hoàng Sa. Tờ dụ ngày 13 tháng 7 năm Minh Mạng thứ 18 (1837) trong Châu bản Minh Mạng tập 57 cho biết việc sai các giám thành, biền binh hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định đi đo vẽ bản đồ, cắm mốc chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa.
Trong năm Minh Mạng thứ 19 (1838) có 3 tờ tấu trình. 
Thứ nhất, đó là Tờ tấu của Bộ công ngày 2 tháng 4 (nhuận) cho biết việc hoãn thi hành công vụ đi đo giáp vòng quần đảo Hoàng Sa trong tháng 3 vì mưa gió kéo dài.
Thứ hai, cũng là tờ tấu trình của Bộ Công ngày 21 tháng 6 năm (1838) cho biết: hướng dẫn viên đi Hoàng Sa là Võ Văn Hùng (người được ghi trong văn bản cổ của dòng họ Đặng là lo việc tuyển chọn binh phu và đã tuyển chọn  đà công Đặng Văn Siểm) đã cung cấp thông tin là quần đảo Hoàng Sa có tất cả 4 nơi cần khảo sát; lần đi năm này (1838) chỉ đi được 3 nơi, còn một nơi không đi được vì gió đang mạnh nên xin để cho năm sau đi tiếp. 
Hướng dẫn viên Võ Văn Hùng cũng cho biết thêm, quần đảo Hoàng Sa có tất cả 25 hòn, nhưng trong năm chỉ đi đến được 12 hòn, khảo sát và vẽ được 3 bản đồ riêng, 1 bản đồ chung, còn lại 13 hòn chưa đến được. Đây là tờ tấu trình hết sức đặc biệt, không chỉ liên quan đến ông Võ Văn Hùng có ghi trong văn bản cổ của dòng họ Đặng mà còn ghi chép khá cụ thể về việc số lượng các hòn đảo trong 4 nơi thuộc quần đảo Hoàng Sa, số lượng các hòn đảo đã được đo vẽ trong năm này. 
Tờ tấu trình thứ ba năm 1839 là tờ tấu trình của tỉnh Quảng Ngãi vào ngày 19 tháng 7, tức sau đó chưa đầy 1 tháng, quan tỉnh Quảng Ngãi tấu trình về việc cho miễn thuế cho 2 chiếc “bổn chinh thuyền” đã đưa binh lính đo giáp vòng quần đảo Hoàng Sa từ tháng 3 đến hạ tuần tháng 6.
3.4. Trong các thủy thủ đi theo đoàn có hai người thuộc đội súng ống, cho phép chúng ta hiểu rằng những người đi Hoàng Sa mang theo vũ khí tự vệ. Những chữ “Do Kim thương đội nhị danh”(thuộc đội súng ống, 2 tên) nằm ở dòng cước chú (ghi chú bên dưới), nét mờ, chữ nhỏ nên khi tiếp cận trực tiếp văn bản, chúng tôi đã xem rõ những chữ này (bản dịch in trên báo Thanh Niên không có phiên âm và dịch nghĩa của mấy chữ “do Kim thương đội, nhị danh”). 
4. Kết luận: 
Văn bản tờ lệnh vừa được dòng họ Đặng phát hiện và hiến tặng cho nhà nước là một văn bản gốc, chân thực, có niên đại tuyệt đối tin cậy. Đây là một tài liệu quý giá góp phần khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa.
TS. Nguyễn Đăng Vũ, Giám đốc Sở VH-TT & DL Quảng Ngãi.
TS. Nguyễn Xuân Diện, PGĐ Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm