Hiển thị các bài đăng có nhãn Lê Mai. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lê Mai. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 7 tháng 9, 2019

QUYỀN ĐƯỢC RÊN - Truyện ngắn của Lê Mai


QUYỀN ĐƯỢC RÊN

Truyện ngắn của Lê Mai

Lời dẫn của Nhà văn Vũ Ngọc Tiến: Nhà văn Lê Mai vốn quê gốc ở Hà Nam. Năm 1953 anh vừa mới lọt lòng mẹ thì gia đình bị quy kết thành phần địa chủ nên cha anh đưa hết vợ con bỏ trốn lên Hà Nội, mai danh ẩn tích. Sau năm 1954 Hà Nội giải phóng, cụ dù biết chữ quốc ngữ lại giỏi cả tiếng Pháp mà vẫn phải đóng vai "cu ly mù chữ", mặc quần đùi may ô rách, đi chân đất dự lớp xóa mù bình dân học vụ ở bãi sông Hồng, làm đủ mọi nghề cực nhọc để kiếm sống. 

Lê Mai sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh khốn cùng ấy rồi đi lính, chiến đấu ở chiến trường Khu 5 bị thương và xuất ngũ học ĐHSP Hà Nội. Anh được kết nạp vào Hội Nhà văn Hà Nội với tư cách nhà thơ nhưng lại nổi danh với 2 cuốn tiểu thuyết "Tẩu hỏa nhập ma", "Thời gian xuẩn ngốc" và một số truyện ngắn, tạp văn. Đặc biệt truyện ngắn "Quyền được rên" anh viết về nhà văn Hoàng Công Khanh, nan nhân lứa đầu trong vụ án Nhân văn Giai phẩm tuy không được in, nhưng khi xuất hiện trên Internet đã gây chấn động bạn đọc trong nước và hải ngoại...

Với tôi, Lê Mai lâu nay như người em thân thiết trong gia đình. Anh sống khép kín, ít giao du có lẽ một phần vì vợ chết sớm, mình Lê Mai 20 năm cô độc, gà trống nuôi 2 con gái ăn học nên người, thảy đều thành đạt. Đầu năm Kỷ Hợi nghe tin Lê Mai bị ung thư phổi thương lắm, nhưng tôi vẫn nuôi hy vọng vi các cháu không ngại tốn kém, tìm mọi phương án chữa trị tốt nhất cho cha mình. Nào ngờ ông trời dường như thiếu công bằng, vẫn bắt những người tử tế chết sớm còn lũ lưu manh cơ hội, tham nhũng tàn hại đất nước thì cứ nhởn nhơ sống khỏe!?

Thứ Sáu, 6 tháng 9, 2019

Tin buồn: THƯƠNG TIẾC VĨNH BIỆT NHÀ VĂN LÊ MAI

.
.
. .
..
 .

TIN BUỒN
Chúng tôi vô cùng bàng hoàng 
& kính tiếc báo tin
 
Nhà văn LÊ MAI
tên thật là Lê Văn Hùng 

Sinh ngày 16/04/1953

Đã từ trần vào hồi 1h35' ngày 6/9/2019 
(tức ngày 08 tháng 08 năm Kỷ Hợi), 
Hưởng thọ 67 tuổi. 

Lễ viếng bắt đầu từ 07h-09h thứ 2, ngày 09/09/2019 
(tức ngày 11 tháng 08 năm Kỷ Hợi) 
tại Nhà tang lễ bệnh viện Bạch Mai. 

Lễ truy điệu và đưa tang vào 9h cùng ngày, 
An táng tại Nghĩa trang Văn Điển. 


❆ ❆ ❆
Nghiêng mình vĩnh biệt Nhà văn Lê Mai - đồng tác giả tập truyện Rồng Đá. Và cầu nguyện linh hồn Anh an nghỉ cõi vĩnh hằng và luôn phù hộ cho anh em bè bạn và gia đình mọi sự an lành. 

Thứ Năm, 1 tháng 11, 2018

CHO NÓ CÓ ĐẠO ĐỨC - Truyện ngắn của Lê Mai


Nhân dịp Bộ Giáo dục của anh Nhạ có thông tư nữ sinh Sư phạm bán dâm quá 4 lần sẽ bị đuổi học, nay đăng lại truyện ngắn CHO NÓ CÓ ĐẠO ĐỨC của Nhà văn LÊ MAI.
CHO NÓ CÓ ĐẠO ĐỨC
 
Lê Mai

Tôi goá vợ đã lâu chưa tục huyền. Bè bạn người quý mến thì nói: nó đợi con trưởng thành, hoặc, vợ yêu nó quá chưa cho lấy, muốn lấy được vợ phải cắt tiền duyên. Bè bạn người ghét thì nói:… Thôi dại gì vạch áo cho người xem lưng. Còn tôi biết, tôi chẳng được tốt như người đời nghĩ đâu. Hơn mười năm qua, nếu tính bình quân mỗi năm được 2 vụ mối lái thì đến nay đã là 23 vụ rưỡi, chẳng vụ nào thành công. Nguyên nhân có nhiều, nhưng chung quy lại thì do người thích tôi thì tôi không thích, người tôi thích thì lại có chồng.

Chủ Nhật, 4 tháng 6, 2017

Lê Mai: HỔ THẸN VỚI "CHÂN DUNG 99 NHÀ VĂN" CỦA NGUYỄN KHÔI


NGẪM MÀ HỔ THẸN VỚI "CHÂN DUNG 99 NHÀ VĂN ĐƯƠNG ĐẠI" của NGUYỄN KHÔI
 

Nhà văn Lê Mai
 
Chẳng hiểu sao, đột nhiên trên "mạng" @ và trong xã hội hồi này lại ồn ĩ lên chuyện "Chân dung các Nhà văn"...hết Xuân Sách, đến Trần Nhương, Đỗ Hoàng rồi lại Nguyễn Khôi... Lê Mai tôi thấy có cái gì đó bức xúc, không bình thường trong đời sống xã hội, mà cụ thể là trên Văn đàn đương đại của ta hôm nay. Đó là ngẫu nhiên hay tất nhiên của dòng chảy lịch sử ? Thiển nghĩ, văn chương của cái thời minh họa - trại lính- "tố cáo", "nâng bi" lừa mị đến trơ trẽn ...thứ văn chương đó đã đóng góp được gì cho Nhân dân, cho Tổ Quốc ?có xứng đáng cho người đời khắc họa Chân dung các Nhà văn. Phải chăng đó là hiện tượng "tự sướng", đầy ngộ nhận của các Văn nghệ sĩ?

Thứ Tư, 30 tháng 11, 2016

CÚN KHÓC - Truyện ngắn của Lê Mai


CÚN KHÓC 

Truyện ngắn của Lê Mai 

Lời dẫn của VNT: Thời bây giờ sao lắm chuyện khôi hài trên bình diện quốc gia đại sự! Ở chiến dịch chống tham nhũng, vị tổng chỉ huy lại lo “đánh chuột sẽ vỡ chiếc bình quý”, “chống tham nhũng là ta đánh ta” nên mọi sự diễn ra cứ như đánh trận giả. 

Ở lĩnh vực kỷ cương đạo đức xã hội, từ ông Bộ trưởng Bộ Dục ngọng líu ngọng lo đến quan chức địa phương khi trả lời báo chí về vụ thị xã Hồng Lĩnh (Hà Tĩnh) điều động giáo viên đi làm tiếp tân khiến cộng đồng mạng nổi bão… Ngẫm câu “Văn học là nhân học”, “Nhà văn là thư ký của thời đại”, chợt nghĩ sao ở xứ ta văn xuôi trào phúng dường như rất hiếm tác phẩm đáng đọc.

Điểm lại tôi chỉ thấy: Về tiểu thuyết có “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng, “Đống rác cũ” của Nguyễn Công Hoan và gần đây là “Thời của thánh thần” của Hoàng Minh Tường đáng được xếp vào hạng “Trường thiên hý kịch”. Về truyện ngắn, ngoài các truyện tiêu biểu của Nguyễn Công Hoan như “Gói đồ nữ trang”, “Thế là mẹ nó đi Tây”… và sau ông, một số truyện ngắn của Vũ Bão là những tiếng cười sâu cay trên nền hiện thực phê phán mang đậm chất tiếu lâm dân gian nên hay đấy nhưng có phần lộ liễu.

Chủ Nhật, 13 tháng 11, 2016

QUYỀN ĐƯỢC RÊN – MỘT KIỆT TÁC CỦA NHÀ VĂN LÊ MAI

 
QUYỀN ĐƯỢC RÊN 
– MỘT KIỆT TÁC CỦA NHÀ VĂN LÊ MAI

TS. Nguyễn Ngọc Kiên 

Cầm truyện ngắn “Quyền được rên” trên tay, ngườì đọc nghĩ ngay đến Hà Nội những năm tám mươi của thế kỷ trước. Nhà chật chừng hai mươi mét vuông mà chứa đến ba cặp vợ chồng. Mọi sinh hoạt thật bất tiện! Ngay cả rên khi quan hệ tình dục cũng phải ý tứ nhìn trước ngó sau! Nhưng “Quyền được rên” không phải truyện viết về tình dục hay sinh hoạt vợ chồng. Truyện viết về cuộc đời thực của nhà văn Hoàng Công Khanh, người đã được nhà nước đặt tên đường ở Kiến An Hải Phòng.

Trong công ước LHQ về quyền con người có nói, mọi  người đều có quyền được lao động học tập và nghỉ ngơi (Each person has the right to work, to rest and to housing). Rồi quyền hội họp, quyền biểu tình…, nhưng không thấy nói đến quyền được rên.

Có thể nói mà không sợ ngoa ngôn rằng “Quyền được rên” của nhà văn Lê mai có thể xếp trên “Sống mòn” của Nam Cao;  vì “Sống mòn” viết về cuộc đời của ông giáo Thứ rất khổ cực trước cách mạng tháng Tám. Ở đây nhân vật chính là Hoàng không những vô cùng cực khổ mà còn phải chịu trăm đắng ngàn cay! “Quyền được rên” còn xếp trên “Chuyện kể năm 2000” của Bùi Ngọc Tấn, có dung lượng mấy trăm trang, cuối cùng chỉ đi tìm câu trả lời vì sao mình bị tù. “Quyền được rên” là truyện ngắn nén rất chặt trong mấy chục trang, nhưng nó có tầm tư tưởng rất lớn của một tiểu thuyết. Nó được viết ra không phải để gây thù chuốc oán hoặc khắc sâu thêm mối hận thù. Mà nó rất bao dung để nhớ lại một thời ấu trĩ! Đúng như có lần nhân vật chính đã “thủ thỉ nói với con và cũng như nói với lòng mình: 

Ông - Con ơi! Oán hờn mà trả bằng oán hờn thì oán hờn ngày càng chồng chất. Con người hơn con vật ở chỗ đối xử với nhau có nghĩa có nhân. Lớn lên rồi con sẽ hiểu, không phải ngẫu nhiên mà Thánh Găng Đi nói: “Tôi không bao giờ tự hạ thấp mình ngang tầm của bạo lực.” Cái gì đã qua bố con mình cùng cho qua con nhé! Chớ để bụng, đừng thù oán ai cả… Càng đớn đau mình phải sống càng nhân hậu, con có hiểu không?” 

Đó cũng chính là tư tưởng nhân văn xuyên suốt của mạch truyện.

Cách hành văn có những đoạn đảo ngữ, nói lên được cái phi lý không thể giải thích được. Nó hệt như các truyện của Kafka, phi lý nhưng rất đúng “quy trình” ở xã hội Việt nam hôm nay!

“Quyền được rên” giống như câu thành ngữ của người Anh: “thanh gươm Damocles (the sword of Damocles) treo lơ lửng trên đầu” nhà văn. Viết văn là nghề hết sức nguy hiểm. Nhà văn lúc nào cũng nơm nớp lo sợ. Nguyên nhân chính là người ta nghi ông có dính dáng đến “Nhân văn giai phẩm” và bắt ông vào tù.

Nhân vật Hoàng, tức Hoàng Công Khanh bắt đầu được biết đến qua vở kịch thơ Về Hồ được diễn ở Hà Nội chào mừng quốc hội khóa một nước Việt Nam dân chủ cộng hòavà sau đó được công diễn trên nhiều vùng kháng chiến khắp cả nước. Thời gian đầu kháng chiến chống Pháp ở Liên khu 3, ông giữ nhiều chức vụ quản lý trong ngành văn hóa và vẫn viết đều tay. Giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám đến 1950, ông xuất bản hai tập truyện ngắn Trên bến Búng (1947) và Chuyện người tù binh Algérie (1948), hai vở kịch nói Màn cửa vàng (1950) và Nhập ngũ (1950) cùng tập thơ Hà Nội không ngủ (1950). Các sáng tác của Hoàng Công Khanh thời kỳ này chủ yếu có mục đích phục vụ cuộc kháng chiến chống Pháp.Từ giữa năm 1950 đến 1954, ông về Hà Nội viết văn, viết báo, làm tổng biên tập tạp chí Dân ý, một tạp chí có sự lãnh đạo của thành ủy Hà Nội. Những tác phẩm được nhắc tới nhiều nhất của Hoàng Công Khanh được viết trong thời gian này. Ông đã cho xuất bản các tác phẩm Mối tình đầu (tiểu thuyết, 1951), Mẹ tôi sớm biệt một chiều thu (tiểu thuyết, 1953, tái bản 1991), Yêu chỉ một lần (tiểu thuyết, 1954), Trại Tân Bồi (tiểu thuyết, 1953), Bạn đường (tiểu thuyết, 1953), Éo le (tiểu thuyết, 1954), Bến nước Ngũ BồCung phi Điểm Bích (kịch thơ, xuất bản 1953, tái bản 1991). Các vở kịch thơ Bến nước Ngũ Bồ, Cung phi Điểm Bích được dựng lại trên sân khấu vào các năm 2007, 2008 và đều được đánh giá rất cao. Riêng Cung phi Điểm Bích còn được Giải A giải thưởng sân khấu 2007 của Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam. Cuộc đời của nhân vật Hoàng (Hoàng Công Khanh) đầy tài năng và lừng lẫy như vậy nhưng đầy những nghịch lý:

-  Nghịch lý thứ nhất, ông làm nhà văn, và viết văn khi chẳng biết làm nghề gì khác. Với một nhà văn lừng lẫy như thế, khi ra tù nhớ nghề lúc rảnh, ông lại viết. Ông biết “ Văn chương là thứ cực kỳ nguy hiểm. Vinh quang chẳng đáng là bao mà nhục nhã ê chề thì vô tận. Ngày ra tù ông đã ngầm tự hứa sẽ cai nó, sẽ cạch nó đến già. Nhưng gió, nhưng nắng, nhưng hương đồng gió nội, nhưng những thôn nữ dịu dàng, e ấp như lúa, như ngô… khiến thi hứng giờ đây cuồn cuộn trào dâng. Ông chặc lưỡi . Sao mình lại không viết?” 

Thấy ông ngồi viết, đứa con gái ông sợ hãi – một nỗi sợ mơ hồ, đã phải kêu lên: 

“Bố ơi! Bố đừng viết nữa con sợ lắm. Thảo nào thi sĩ Phúc, văn sĩ Lam cứ phải viết chui, viết lủi. Mỗi lần viết cứ phải lén lút như tội phạm. Những câu thơ hay, những áng văn hay thẫm đẫm tình người – tình vật phải chịu chung số phận đớn đau nơi gầm giường, nóc bếp, đống rơm, chuồng lợn… 

Có lần, ông nghiêm túc nói với con: 

“- Bác Trần vừa tề gia nội trợ - nữ công gia chánh để bác gái bán hàng vừa viết truyện. Ông Trương vừa bới rác nhặt rau nuôi lợn vừa viết kịch. Bác Phùng vừa cắt tóc vừa làm thơ. Bác Loan vừa câu cá vừa vẽ… Chẳng lẽ bố lại không vừa làm lái chó vừa viết văn được sao?
.
Không đọc không viết bố thấy tiếc thời gian lắm, tủi mình và chưa xứng với mẹ, với các con. Vả lại, không viết nữa tức là bố công nhận mình sai, phải đi tù là đúng” 

- Nghịch lý thứ hai, một ngày ở ngoài nghìn thu ở tù. Bạn bè phải thốt lên, khi ông được vào tù - cái chi  tiết thật đắt và cũng hài hước, chỉ có ở Việt Nam: 

“- Học tập xong rồi hả? Giác ngộ rồi, đến giáo huấn ta đấy phỏng?... Ngẫm kỹ thấy anh cũng giỏi. Giỏi lắm! Người đời phải gây tội mới được tù. Còn anh, chẳng phải nhọc xác gây gì cũng được tù. Thời Pháp đi tù thời Pháp. Thời ta đi tù thời ta. Thời nào cũng được tù. Dễ thường nghề tù cũng đến kịch bậc rồi chứ kém cỏi gì!” 

Cuộc đời ông này ở tù đâm ra lại còn sướng hơn ở ngoài. Ở tù ông có cơm ăn, áo mặc và có công ăn việc làm. Ra tù thì chẳng có việc gì để làm. Để kiếm kế sinh nhai ông đã từng làm kéo xe, rồi làm người buôn chó, rồi dùng sức “chân cò tay vượn” của mình để đi đào hầm thuê.

Ra tù, có lúc không việc làm, những bạn bè, “đồng chí” một thời cũng xa lánh ông như xa lánh hủi: 

“Ngày ra tù, về nhà con thấy đấy. Nhà mình vẫn hoang lạnh như nấm mồ hoang. Bạn bè thân thiết, hàng xóm láng giềng có ma nào đến sẻ chia với mình đâu. Thậm chí ra ngoài đường có người chẳng may gặp bố, họ còn kéo mũ che mặt lảng đi.” 

- Nghịch lý thứ ba, nỗi buồn khi hết chiến tranh. Người ta thì vui mừng khi nghe tin chấm dứt chiến tranh. Đối với ông, hết chiến tranh đồng nghĩa với việc ông bị thất nghiệp. Hết chiến tranh thì ai còn thuê ông đào hầm nữa! Cuộc đời đầy chua chát! 

“Sư cha cái anh Giôn Xơn, nó lại tuyên bố: Ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra. Nghĩa là, nó ngừng ném bom ở khoảng không gian mà ông sống và đào hầm để kiếm sống. Thế là… ông lại thất nghiệp.” 

Nghịch lý thứ tư, ông đi tù mà không biết mình phạm tội gì. Ở trong tù, ông hỏi quản giáo:

“Thưa cán bộ, trường hợp tôi bao giờ thì được ra toà?”  Ra tòa! Phải! Ra tòa! Các phạm kinh tế hay hình sự ở lán ông ai cũng đã được ra tòa. Họ có án đàng hoàng. Họ biết rõ ngày đi – cũng biết rõ ngày về. Còn ông… Ông mong ước được ra tòa. Ra tòa – ông nghĩ: Mọi việc sẽ được phân định rõ ràng. Trắng ra Trắng. Đen ra Đen. Lúc ấy, dẫu có phải đi tù ông cũng không oan ức. Người quản giáo nhìn ông. Nhìn từ đầu xuống chân rồi khinh khỉnh nói: 

-   Ông là nhà văn có tiếng mà còn dốt thế! Tù rồi còn đòi ra tòa làm gì? 

Những câu trả lời ngô nghê của người quản giáo là minh chứng hùng hồn cho một thời quá ư là ấu trĩ: 

Ông lạnh người nhận ra cái tuyệt đúng, tuyệt gọn, tuyệt dễ hiểu của lời lẽ anh quản giáo, nhưng như thế thì mông lung quá, mịt mờ quá… Ông rụt rè thưa tiếp:

- Nếu không ra tòa, không có án tôi biết sao được tội gì? Hình phạt là bao nhiêu năm? 

Và đây nữa, lời anh quản giáo mới thật hài hước như lời một diễn hài: 

“Nhìn ông, anh quản giáo cười hiền, tỏ ý thông cảm:

- Dốt thế, ở tù cũng đáng... Ông là đi học tập, đi cải tạo chứ có phải tù đâu mà hỏi án bao nhiêu năm. Đi học tập, đi cải tạo thì bao giờ học tập tốt, cải tạo tốt thì… ra trường. Tốt nghiệp ý mà! Muốn biết bao nhiêu năm thì phải tự hỏi mình chứ hỏi gì tôi. Thôi, hồ hởi, phấn khởi nhé!. 

Cái tư tưởng nhân văn của tác phẩm được gói lại ở đoạn đối thoại với vợ ông, khi ông bộc bạch – đây là cái đoạn cũng rất con người: 

“Vợ con khóc tu tu: Tiếng Tây tiếng Tàu đầy người…Tù thì còn hiểu được chứ. Đẩy xe bò thì không thể nào hiểu nổi”. 

Và cuối cùng Hoàng đã trả lời vợ: 

“Mà bà còn lạ gì tôi, nào có biết hận thù, căm uất ai đâu mà bà phải lo, phải sợ. Họ đánh mình đau quá thì mình rên. Rên cho nó đỡ đau, bà ạ! Con người ai chẳng có quyền được Rên. 

Nhưng thật hài hước khi mà ở một xã hội đến rên cũng không thể được, thì không thể nói quyền làm gì khác của con người. Vợ ông nói: 

- Sắp xuống lỗ rồi mà ông còn thơ ngây thế? Ông tưởng Rên là tội nhẹ lắm ư?  Các ông ngày xưa ngợi ca – hát ông ổng còn bị kẻ độc miệng cho mang vạ. Giờ lại đòi Rên. Quyền được Rên! Ơ hơ…quyền được Rên! Ngớ ngẩn, ngớ ngẩn hết chỗ nói…” 

Vĩ thanh 

Tóm lại “Quyền được rên” là một kiệt tác của Lê Mai. Cách hành văn trong sáng, ngắn gọn, khúc triết, dung lượng của truyện được nén rất chặt. Nội dung tư tưởng và tính nhân văn rất rõ được thể hiện qua từng nhân vật.  Mặc dù trải qua những ngày tháng tù đày phải chịu “trăm đắng ngàn cay” nhưng cuối cùng ông đã được minh oan.  Tên Hoàng Công Khanh đã được đặt tên đường. Tác phẩm của ông đồ sộ và có giá trị ghi dấu ấn một thời như vậy, nhưng nhà văn chưa một lần được giải thưởng (phải chăng đây lại là một nghịch lý). Nhà văn Hoàng Công Khanh giờ đây hẳn cũng ngậm cười nơi chín suối.  Mỗi tác phẩm đều có số phận riêng của nó. Nhưng người viết tin rằng “Quyền được rên” sẽ sống mãi cùng hậu thế, bất chấp thời gian.


Thứ Bảy, 12 tháng 11, 2016

QUYỀN ĐƯỢC RÊN - Truyện ngắn của Lê Mai


QUYỀN ĐƯỢC RÊN

Truyện ngắn của Lê Mai


Lời dẫn của Nhà văn Vũ Ngọc Tiến: Trên trang nhà của bác TN vừa có mấy bài viết của TS Nguyễn Ngọc Kiên và nhà thơ Vũ Quốc Túy về truyện ngắn “Quyền được rên”. Đọc văn mỗi người một cách cảm, cách nghĩ là chuyện thường tình. Riêng tôi lại có cách nghĩ khác bởi nếu hai anh so sánh “Quyền được rên” với “Sống mòn” của Nam Cao hay “Chuyện kể năm 2000” của Bùi Ngọc Tấn có cái gì đó hơi khập khiễng. Đành rằng đó là hai kiệt tác trong văn học Việt Nam, nhưng Lê Mai viết truyện ngắn này trong một tâm thế khác, một chủ đích rộng lớn hơn. Tôi đã đọc “Quyền được rên” từ trong bản thảo, khi tác giả nhờ tôi đánh máy vi tính sau tang lễ nhà văn Hoàng Công Khanh và nó cứ ám ảnh tôi mãi từ sự trải nghiệm của bản thân và gia tộc. Nhân vật Hoàng trong truyện là điển hình của cả một thế hệ trí thức, văn nghệ sĩ dấn thân theo lý tưởng ngỡ là tốt đẹp để làm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc long trời lở đất, chịu bao hy sinh, mất mát, tù đầy…, nhưng khi giành được độc lập cho đất nước, họ lại bị rơi ngay vào cái nhà tù khủng khiếp hơn của thực dân Pháp chỉ vì một tội “nhiều chữ”!... Bởi “nhiều chữ” nên họ không giống như anh thợ cắt tóc biết vua Đặc La Vương có tai lừa, chỉ còn biết chạy ra giữa cánh đồng khoét một hố sâu, hét to vào đó cái điều mình biết. Cũng bởi “nhiều chữ” nên họ quên đi lời cảnh báo trong Kinh Dịch về quẻ “Thuần Càn” mấy ngàn năm trước. Thường thì trong 64 quẻ dịch, mỗi quẻ đều có 6 hào từ, riêng quẻ “Thuần Càn” có thêm hào từ thứ 7: “Kiến quần long vô thủ: Cát” Nghĩa là: Sinh ra đã là rồng thì phải múa, nhưng múa phải biết giấu kín cái đầu mới mong được yên thân. Nhân vật Hoàng của Lê Mai cứ hồn nhiên phô diễn hết cái điều mình biết bằng câu chữ trên các trang văn nên ông bị những kẻ mỏng học tống giam vào nhà tù mang tên mỹ miều: “Trại cải tạo”. Cái nơi ấy người tù ví mình không bằng con vật, đói khát tới mức chỉ chừa bọ hung không thể ăn, nước điếu không thể uống, hễ gặp con nhái hay nắm cỏ cũng tranh nhau vơ vội vào mồm nuốt chửng. Thế rồi khi “cải tạo xong” được về với xã hội lại càng khốn khổ khốn nạn: bạn bè xa lánh, làm đủ thứ nghề không cần đến chữ đê kiếm sống mà vẫn không yên thân bởi vì khổ mấy cũng cấm được rên, hễ rên là có tội, phải luôn hồ hởi phấn khởi ngợi ca chế độ. Hoàng không dám rên ngoài đời, chỉ muốn rên trong phòng kín bằng…thơ cũng bị vợ con hùa nhau cấm tiệt. Bi kịch của ông cũng là bi kịch của thời đại ông sống! Nói vắn thế thôi, “ở đời chữ cũng như lời, có tiết kiệm mới quý, càng tiết kiệm càng quý” (Lời của Hoài Thanh)...

Thứ Bảy, 6 tháng 8, 2016

Nhà văn Lê Mai: QUỶ VƯƠNG TRONG KIẾP LUÂN HỒI

QUỶ VƯƠNG TRONG KIẾP LUÂN HỒI

Nhà văn Lê Mai

Đọc “Quỷ Vương”, tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Vũ Ngọc Tiến (Nxb Hội nhà văn- 6/2016), tôi chợt nhớ đến tập thơ “Chẹc chẹc” của văn thi sĩ Nguyễn Đình Chính - tập thơ mà nhà văn Nhật Tuấn nhận xét: “Trên bãi cứt của nghệ thuật đương đại sẽ mọc lên kỳ hoa dị thảo”. Hai tác phẩm của hai cây bút tuổi Tuất (1946), một nghiêm cẩn nho nhã, một bông phèng biết tuốt, chửi tuốt ấy lại có chung một điểm: Lạ, rất lạ và đáng suy ngẫm…

Ở “Quỷ Vương” điểm lạ của văn phong bút pháp Vũ Ngọc Tiến là ở chỗ ông không viết tiểu thuyết lịch sử theo logic thông thường vì tác giả mở đầu cuốn sách bằng chương “Biệt thự hoa phù dung” và kết thúc bằng chương “Một cơn lũ quét”, cả hai chương đều ở thì hiện tại. Vậy thì ông viết về quá khứ, về hiện tại hay hướng tới tương lai? Bút pháp đồng hiện của cây bút có nghề này đã khía vào những kiếp luân hồi, làm nên sự sáng tạo độc và lạ. Dù bối cảnh ở thì hiện tại tác giả chỉ đề cập đến cái tỉnh K lèo tèo heo hút với một vài quỷ quan, một vài doanh nghiệp, nhưng đã giúp người đọc nhận ra cái tàn nhẫn, khốc liệt, cái đớn hèn đểu cáng, cái khốn khổ điêu linh… ở tầm rộng lớn hơn. Cái tài đó, cái lạ đó của Vũ Ngọc Tiến đã làm cho cuốn “Quỷ Vương” trở nên kỳ hoa dị thảo có sức cuốn hút ma mị.  Đọc “Quỷ Vương” ta không chỉ biết về lịch sử 100 năm thời Lê sơ tái hiện không theo trình tự thời gian của sự kiện lịch sử mà theo văn cảnh của thì hiện tại, độc giả còn phát hiện ra trong đó những mạch ngầm tinh quái, tàn bạo của lũ quỷ vương, quỷ quan xưa đã vậy, nay còn ghê gớm hơn để rồi day dứt lo lắng cho sự luân hồi của những kiếp sau trong tương lai gần nếu hôm nay đây chúng không bị diệt trừ tận gốc.

Chủ Nhật, 11 tháng 8, 2013

CUỘC TỌA ĐÀM VỀ "SÓNG HẬN SÔNG LÔ" VANG DỘI SÓNG TRƯỜNG SA


15h00 ngày 10/8/2013 tại Thư viện café sách Đông Tây, đường Trần Quý Kiên Hà Nội đông đảo các nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình văn học, các PV báo in và báo hình đã có mặt để tham dự buổi tọa đàm ra mắt cuốn tiểu thuyết lịch sử Sóng hận sông Lô của nhà văn Vũ Ngọc Tiến. Sách dày 352 trang, do NXB Hội nhà văn & TTVH Đông Tây liên kết ấn hành tháng 7/2013.

Dưới đây, xin giới thiệu bài lược ghi tại cuộc tọa đàm của PGS.TS nhà phê bình văn học Vũ Nho và tham luận của nhà văn Lê Mai về tiểu thuyết Sóng hận sông Lô.  Mời độc giả xem thêm Lược thuật của Bauxite Vietnam tại đây nữa.