MỘT NHÀ KHOA HỌC ĐÍCH THỰC
Hoàng Xuân Phú
Khi được đề nghị viết bài nhân dịp một nhà toán học quen biết tròn 80 tuổi, tôi đã nhận lời ngay. Đến lúc ngồi loay hoay gặm bút mới biết là mình đã lỡ dại... Viết về một người rất nổi tiếng khó quá. Nếu sai thì mang vạ vào thân. Mà nếu đúng thì thường lại kể toàn những chuyện mọi người đã biết, dễ bị chê cười là làm cái việc quá thừa, như thể ngây ngất khen trời cao, hay nói một cách toán học thì là hì hục cộng epsilon (đại lượng vô cùng bé) với một số quá lớn.
Nhưng đã trót nhận lời rồi thì từ chối sao được? Không thể lấy lý do là mình thiếu thông tin, vì đã hơn 20 năm cùng làm việc ở Viện Toán học và cùng nghiên cứu một chuyên ngành là toán tối ưu. Dù vậy, nói một cách nghiêm túc, thì tôi cũng chưa thực sự hiểu rõ về thân thế và sự nghiệp của Cụ. Thôi thì nghĩ gì viết nấy, để cùng mọi người chia sẻ đôi chút suy tư về một nhà khoa học đáng kính.
Người ấy là ai?
Ở Viện Toán học, những ai hơn tôi khoảng 3-4 tuổi trở lên thì thường gọi người ấy là “Anh”, kém tôi 2 tuổi đã gọi là “Bác” hay “Thầy”, có lẽ chỉ một mình tôi gọi là “Chú”. Khi nói sau lưng, chúng tôi khá giống nhau trong việc dùng chữ “Cụ”. Còn trong các cuộc họp thì trịnh trọng hơn, mọi người thường gọi nguyên văn là “Giáo sư Hoàng Tụy”.
Vào khoảng năm 1977, khi tôi đang học toán tại trường Đại học Tổng hợp Leipzig, thì Cố Giáo sư Lê Văn Thiêm đến thăm Cộng hòa Dân chủ Đức. Có nghiên cứu sinh đặt câu hỏi: “Hiện nay ai là nhà toán học Việt Nam có uy tín nhất trên thế giới?” Giáo sư trả lời là “anh Hoàng Tụy”. Nhận định ấy của người được coi là cha đẻ của nền toán học hiện đại Việt Nam và lúc đó đang là Viện trưởng Viện Toán học làm tôi rất ngỡ ngàng, bởi lẽ suốt thời gian học phổ thông, tôi được nghe, được đọc về những huyền thoại khác hẳn. (Trong những giấc mơ mà các thầy thường dắt chúng tôi bước vào để ấp ủ ước vọng cho tương lai, không thấy xuất hiện “ông Bụt” nào mang tên “Hoàng Tụy”.)
Sau đó tôi chọn chuyên ngành toán tối ưu, tình cờ đúng với chuyên ngành của Cụ. Nhờ đó có điều kiện để dần dần nhận ra rõ hơn chân dung của một nhà toán học nổi tiếng người Việt. Các chuyên gia nước ngoài trong lĩnh vực toán tối ưu bấy giờ đã rất hay nhắc đến tên tuổi và công trình của GS Hoàng Tụy. Những lúc Cụ đến giảng bài ở các trường đại học nước ngoài hay trình bày báo cáo ở các hội nghị khoa học quốc tế thì người ta nhiệt tình đón nhận. Đôi khi, vì lý do gì đó mà Cụ phải hủy kế hoạch thì một số người lấy làm tiếc. Và kể cả lúc Cụ vắng mặt, vẫn có nhiều chuyên gia đề cập, so sánh và phát triển tiếp các kết quả của Hoàng Tụy. Cùng có mặt ở châu Âu, nhưng chúng tôi mới chỉ là học trò, còn Cụ thì đã là bậc thầy – thầy của nhiều thầy vẫn dạy chúng tôi.
Vào những năm tháng mà quê hương còn rền vang bom đạn, Việt Nam luôn nằm ở tâm điểm của thời sự quốc tế. Du học ở các nước bạn bè, lưu học sinh ta thường được ưu tiên giúp đỡ, và cũng hay được ngợi ca. Người ta thường khen dân mình dũng cảm và chiến đấu giỏi. Nghe vậy cũng tự hào lắm. Nhưng nghĩ kỹ hơn thì bỗng thấy bâng khuâng. Hình như có điều gì đó không ăn khớp cho lắm, khi bạn ca ngợi ta kiên cường chiến đấu chống lại kẻ thù, nhưng chính bản thân họ thì lại cổ động cho chính sách “chung sống hòa bình”. Hơn nữa, anh thích không khi người ta chỉ khen có vậy? (Đại khái là “giỏi đánh nhau, còn làm ăn thì...”) Người ta vẫn khen lưu học sinh ta chăm, nhưng nhắc đến chữ “chăm” nhiều hơn chữ “giỏi”, và dù “chăm” hay “giỏi” thì mình đến quê người vẫn chỉ để học. Giữa hoàn cảnh phải sống dựa vào sự cưu mang nơi đất khách, việc mấy nhà khoa học xuất sắc như GS Hoàng Tụy từ trong nước sang châu Âu dạy đã an ủi và đem lại nhiều niềm tin cho thế hệ lưu học sinh chúng tôi thời ấy.
Một sự nghiệp vinh quang
Sinh ra trong một gia đình dòng dõi, nhưng như hầu hết dân ta, bản thân Hoàng Tụy cũng hứng trọn mọi gian truân của một thời khốn khó. Bếp lửa lạnh tanh, bụng đói cồn cào. Trường lớp lưa thưa, thiếu thầy và vắng cả học trò. Trong hoàn cảnh ấy, vẫn bền bỉ theo học và tự học, để rồi lúc 20 tuổi Thầy Tụy đã dạy Toán ở trường Lê Khiết (Quảng Ngãi) và 9 năm sau đó (1955) đã là giảng viên của trường Đại học Khoa học (nay thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội). 60 năm qua, Thầy Tụy đã tận tâm đào tạo bao thế hệ học trò, từ học sinh, sinh viên, đến tiến sĩ, dắt họ bước vào đời và đóng góp trên mọi lĩnh vực ở mọi miền của Tổ quốc.
Từ khi làm nghiên cứu sinh và bảo vệ thành công luận án tiến sĩ ở trường Đại học Quốc gia Mát-xcơ-va mang tên Lô-mô-nô-xốp vào năm 1959, Thầy chính thức dấn thân vào một cuộc “tu hành” mà ta thường gọi là sự nghiệp nghiên cứu khoa học. Tôi dùng chữ “tu hành” vì khắc khổ lắm, khó khăn lắm. Biết bao người vì ngưỡng mộ “cao danh” nên đã từng thử “xuống tóc”, nhưng rồi không trụ nổi, mấy năm sau cũng đành rời “cửa Phật”. Như vậy cũng là rất bình thường. (Ở một vài nước, rất nhiều thanh niên còn phải trải qua một giai đoạn tu luyện trong chùa.) Có điều, nhiều người đã “hoàn tục” rồi mà vẫn khoác tiếp “áo cà sa”, để làm “bằng”... “khất thực”. Thậm chí, có người bỏ “chùa” vì biết mình không “có duyên với Phật pháp”, nhưng lại quay ra lớn tiếng phủ định, như thể vì xa lánh “hư danh” nên mới không thèm “thành chính quả”.
Còn quá sớm để tổng kết sự nghiệp khoa học lớn của GS Hoàng Tụy, bởi nó vẫn tiếp diễn với cường độ và chất lượng không giảm. Nếu chỉ tạm tính đến tháng 7 năm 2007, GS đã có khoảng 155 công trình đăng trên các tạp chí và kỷ yếu hội nghị quốc tế.
Có lẽ cần phải giải thích thêm về chữ “công trình” được dùng ở đây. Giữa thời buổi mà “dân... sĩ” bùng nổ, kinh phí nghiên cứu khoa học được rải xuống cả cấp huyện, rồi công trình khoa học mọc lên nhiều như nấm, thì biết đâu con số 155 vẫn còn là khiêm tốn? Nhiều khi, người ta chỉ bỏ ít thời gian để cóp nhặt chút kiến thức có sẵn (thậm chí là sơ đẳng) của thiên hạ, ghép lại thành cái gọi là công trình nghiên cứu của bản thân, nếu có chứa đựng điều gì hơi mới thì không khéo lại sai hay thực ra là bịa đặt, rồi đăng trong tạp chí khoa học của trường nhà hoặc mấy kỷ yếu tự biên. Đối với những nghiên cứu kiểu ấy thì để đạt đến con số hàng chục hay hàng trăm công trình đâu phải là quá khó?
Nhưng 155 công trình của GS Hoàng Tụy thì hoàn toàn khác hẳn. Đấy là những công trình sáng tạo nghiêm túc, có giá trị cao và tuyệt đại đa số đã được đăng ở các tạp chí quốc tế có uy tín (xem thống kê trên MathSciNet, phiên bản Web của Mathematical Reviews). Nếu một nghiên cứu sinh là đồng tác giả của 1-2 bài báo nghiêm túc và đảm bảo chất lượng, được liệt kê trong MathSciNet, thì đã có thể đủ để được trao học vị tiến sĩ toán học. Nếu một đời nghiên cứu mà có được 10 bài xuất hiện xuất hiện trên các tạp chí quốc tế có uy tín thì đã có thể hài lòng rồi, vì ngay cả mấy hình tượng mà báo chí nước nhà vẫn hay ca ngợi cũng chưa đạt được chỉ tiêu ấy.
Nhìn từ góc độ này để hiểu thêm giá trị của 155 công trình mà Hoàng Tụy là tác giả hoặc đồng tác giả. Nhưng như vậy cũng mới chỉ hiểu được một phần. Điều đáng nói hơn là: Trong số đó có nhiều bài báo hết sức độc đáo, có những bài mang tính tiên phong, khai sinh ra cả những hướng nghiên cứu mới cho toán học. Bài báo đăng năm 1964 trên Doklady của Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô là một ví dụ. Nó đã đưa Hoàng Tụy trở thành cha đẻ của chuyên ngành tối ưu toàn cục (Global Optimization). Không chỉ có công sinh thành, mà sau gần nửa thế kỷ, GS vẫn là người thuyền trưởng vững tay chèo lái con tầu quốc tế ấy. Hai giáo sư Nhật Bản Hiroshi Konno và Takahito Kuno đã từng viết trong Journal of Global Optimization (1999):
“... ông trở thành người dẫn đường của lĩnh vực ‘tối ưu toàn cục’ đang phát triển của chúng ta... Hoạt động của ông không hề giảm đi mà thậm chí còn tăng lên trong những năm gần đây. Ông luôn thúc đẩy mọi người bằng những ý tưởng mới. Rất hy vọng rằng ông sẽ tiếp tục là người dẫn đường của lĩnh vực này trong thật nhiều năm nữa.”[2]
Takahito Kuno còn đăng trong The Optimization Research Bridge (2002) một bài rất thú vị với tựa đề “Ảnh của Giáo sư Tụy - Ông Già Tuyết đến từ một đất nước phương nam” (Photos of Professor Tuy - Santa Claus coming from a Southern Country), trong đó có đoạn:
Những thành quả phát minh phong phú tích đầy theo năm tháng đã được GS Hoàng Tụy và đồng tác giả tổng hợp trong ba cuốn sách chuyên khảo, in tại Springer-Verlag và Kluwer Academic Publishers, hai nhà xuất bản hàng đầu của thế giới khoa học tự nhiên. Trong đó có cuốn được giới chuyên môn quốc tế coi là “sách giáo khoa cơ sở” (fundamental textbook) hay “Kinh thánh” (Bible) của chuyên ngành tối ưu toàn cục, nghĩa là quyển sách mà những người theo “đạo” này phải thường xuyên đọc và nghiền ngẫm. Mấy ai được hưởng niềm vinh hạnh ấy?
Biết số sách báo in ở nước ngoài thì chắc mọi người đều mừng cho Cụ. Trước hết là mừng cho thành tựu nghiên cứu và danh tiếng của tác giả. Sau đó, một điều đôi khi không tiện nói thẳng, là mừng cho thu nhập của Cụ. “Chắc Tây trả nhuận bút cao lắm, đâu phải như những khoản... không đủ tiền thuốc nước ở đất mình”. Khốn nỗi, đối với những công trình đăng trên các tạp chí toán học quốc tế thì tiền nhuận bút chỉ là chuyện không tưởng. Bình thường thì phải hàng tháng, thậm chí hàng năm lăn lộn mới sinh ra được một bài. Nộp bản thảo đi rồi, phải chờ đợi và bị phản biện “hành hạ” đến 1-2 năm. Cuối cùng, nếu có được đăng thì cũng chẳng được một đồng nhuận bút nào hết!!! Thậm chí một số tạp chí còn gợi ý cơ quan của tác giả đóng góp tiền cho họ. (Chỉ... 72 USD cho mỗi trang của bài báo.)
“Vậy thì tại sao các ông còn vùi đầu viết lách?” Tôi đã phải nghe và trả lời câu hỏi ấy mấy lần. Nhưng lần nào cũng bất lực. Cố giải thích mãi mà người ta vẫn không thể hiểu nổi. Rồi đâm ra lúng túng, thấy mình cũng ngu... Hoặc là ngu vì không lý giải nổi sự cao sang của nghề mình theo đuổi. Hoặc là ngu vì đã chọn một cách sống lập dị chẳng giống ai. Bình tĩnh lại, chỉ tìm được cách an ủi kiểu “AQ”: Mình đã chọn kiếp làm chim thì phải cố mà hót chứ sao? Nếu được trả tiền mới hót thì đâu còn là chim nữa?
(Hoàng Tụy - Chấn hưng giáo dục trong tình hình mới - Tia sáng - 8/8/2006)
Tôi hoàn toàn nhất trí với ý kiến của Cụ. Có điều, từ “tụt hậu” có vẻ như nghiêng về khía cạnh chương trình và chất lượng giảng dạy chuyên môn. Nhưng tôi lại e rằng tình trạng đạo đức của một số giảng viên đại học còn nghiêm trọng hơn nhiều.
Có lần, mấy cháu sinh viên kể cho tôi câu chuyện sau:
“Mỗi lần kiểm tra, sinh viên phải mang phong bì đến nộp cho cô. Đôi khi, nghe chừng thu nhập chưa đủ, cô lại nói là ‘bài vừa rồi các em làm chưa tốt, nên bây giờ làm thêm một bài nữa, rồi bài nào điểm cao hơn cô sẽ lấy’. Vậy là phải nộp phong bì một lần nữa...”
Các cháu thản nhiên kể hết chuyện này đến chuyện khác, lại còn cười rúc rích, như thể đấy là chuyện “thường ngày ở huyện”. Nghe mà đau thắt cả tim. Mới chỉ gặp gỡ mươi phút đầu xuân, cốt để chúc tết, vậy mà các cháu đã buột miệng, hồn nhiên kể ra chuyện ấy, thì thử hỏi trong các quí vị hữu quan, còn ai là không nghe, không thấy? Dẫu biết là có rất nhiều giảng viên tốt, thậm chí là rất tốt, dẫu biết rằng chuyện trên chỉ kể về một “cô... sâu” cụ thể, nhưng khi chuyện tệ hại như vậy có thể công khai diễn ra ở một trường đại học lớn, mà sinh viên mặc nhiên chấp nhận, đồng nghiệp không phản ứng và bộ máy quản lý vẫn để yên, thì đánh giá là đạo đức xuống cấp có nhẹ quá hay không? Có lẽ, trầm trọng nhất không phải là có cá nhân phạm lỗi, mà ở chỗ cộng đồng đã coi đó là bình thường và làm ngơ. Nếu cứ để những chuyện kiểu ấy tái diễn mãi thì sẽ đào tạo ra sản phẩm gì và tương lai sẽ đi về đâu? Đứng trước một thực trạng giáo dục như vậy, những người yêu nước thiết tha như Cụ Tụy ngồi yên làm sao được?
Đã viết nhiều bài báo và trả lời nhiều cuộc phỏng vấn trên các phương tiện thông tin đại chúng, đồng thời đã gặp nhiều nhà lãnh đạo cao cấp để phản ánh và kiến nghị, nhưng biết rõ còn lâu mới đủ, GS Hoàng Tụy đã nẩy ra sáng kiến tổ chức một xê-mi-na, với sự tham gia của nhiều nhân vật có tiếng, hoạt động trong các lĩnh vực giáo dục, văn hóa, khoa học ở trong nước và ở nước ngoài, để thảo luận về tình hình giáo dục nước nhà và bàn biện pháp cải cách, chấn hưng. Qua 5 buổi làm việc nghiêm túc, tiến hành từ tháng 3 đến tháng 5/2004, nhiều ý kiến phong phú đã được nêu ra. Không phải lúc nào cũng dễ thống nhất với nhau, nhất là khi bàn về giải pháp khắc phục, nhưng đều nhất trí đánh giá thực trạng là nghiêm trọng và tình hình là cấp bách. Tất cả đều xuất phát từ đáy lòng, nên dù có không đồng tình hoàn toàn thì vẫn hiểu và tôn trọng ý kiến của nhau.
So với các tên tuổi nổi tiếng tham gia xê-mi-na như Phan Đình Diệu, Phan Huy Lê, Nguyên Ngọc, Việt Phương, Nguyễn Đình Trí, Hoàng Tụy... thì tôi là người trẻ nhất và vô danh. Nhưng không phải vì thế mà phải co ro. Ngược lại, các cuộc thảo luận thực sự là bình đẳng và dân chủ.
Để hạn chế tiêu cực và nạn dạy thêm, GS Hoàng Tụy đặt vấn đề:
“Phải tăng lương chính thức cho đủ để giáo viên sống được mức sống tương đối dàng hoàng chỉ bằng lương đó thôi, không phải làm thêm những việc khác để kiếm thu nhập phụ (mà thật ra là chính vì phụ nhưng bằng 3, hay 4 lần lương chính). Phần thu nhập thêm này cũng từ ngân sách và tiền đóng góp của dân thôi, cho nên nếu ngành giáo dục cải cách việc sử dụng tiền bạc trong ngành, khắc phục lãng phí và tham nhũng tràn lan, thì hoàn toàn không cần tăng thêm ngân sách, không cần tăng học phí và đóng góp của dân cũng thừa đủ để trả lương đàng hoàng cho giáo viên.”
Đúng là như vậy. Singapore đã cho ta một bài học rất thuyết phục của việc tăng lương để chống tham nhũng. Nhưng tôi vẫn bày tỏ phân vân: Lương nhà giáo chiếm một tỷ trọng rất lớn trong quĩ lương toàn quốc, nên có đủ tiền để tăng thêm không? Đã được phụ cấp ưu đãi giáo dục 25%-50%, nếu các nhà giáo lại được tăng lương thêm nữa thì các thành phần khác thế nào? Bộ đội, công an, cán bộ quản lý các cấp..., tất cả đều túm lấy cái thang dây nối lên trời, đòi tăng lương để tránh tiêu cực, thế là quá tải, cả làng... cùng rơi bịch. Hơn nữa, đối với những thầy cô dạy thêm để kiếm sống thì là một nhẽ, còn với những người dạy thêm để làm giàu thì tăng lương bao nhiêu mới đủ để hết dạy thêm? Khi thiếu thốn đã góp phần làm đạo đức méo mó và dẫn đến tiêu cực, nếu chỉ đổ thêm tiền vào thì có đủ để làm đạo đức tròn trĩnh trở lại hay không?
Cụ Tụy đề nghị mở rộng qui mô đào tạo đại học để có thể dung nạp được nhiều sinh viên hơn, qua đó mà giảm sức cạnh tranh trong thi cử và giảm nhu cầu học thêm. Điều đó chắc chắn phải làm, vì qui mô đào tạo của ta vẫn chưa đáp ứng được đòi hỏi của nền kinh tế và của xã hội. Nhưng mở rộng với tiến độ nào thì lại phải bàn cho kỹ. Tôi lo rằng hiện nay qui mô đào tạo đã vượt xa khả năng đảm nhận của đội ngũ giảng viên đại học, và nếu cứ mở thêm trường, thêm lớp trong khi không có đủ giảng viên đảm bảo chất lượng thì có nghĩa là ngành giáo dục mở thêm chợ bán... hàng giả. Để thể hiện cụ thể hơn ý kiến của mình, tôi đã viết một bài tham luận xê-mi-na với nhan đề “Bàn về qui mô đào tạo đại học từ góc độ chất lượng giảng viên”, sau này có đăng trên hai số báo Pháp luật Chủ nhật ngày 3/10 và 10/10/2004.
Không khí sinh hoạt thẳng thắn như vậy. Chẳng phải tôi có ý nói ngược lại Cụ Tụy đâu, mà chỉ bàn luận để Cụ tham khảo thêm và cân nhắc đầy đủ hơn, để mỗi ý kiến Cụ đưa ra càng có lợi cho Dân, cho Nước. Đấy cũng là một cách đóng góp nho nhỏ, hợp với tầm của tôi, vì cỡ tôi mà có nói ra thì cũng chẳng mấy người để ý, còn khi Cụ nói, nếu các quan chức không gật gù tán thưởng thì có lẽ cũng phải bực mình, mà bực tức là họ đã nghe một nửa rồi.
Cuối cùng, các thành viên tham gia xê-mi-na đã gửi cho các cấp lãnh đạo cao nhất một bản kiến nghị. Khi đó cũng gây được sự chú ý và có lẽ cũng có tác dụng ít nhiều. Nhưng mâm cỗ nào mà chẳng nguội dần? Thời ấy, kiến nghị này và một loạt bài tham luận của các thành viên xê-mi-na được để trên một số trang Web, kể cả trang Web của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Còn bây giờ thì hình như hầu hết chúng đã... bỏ Web ra đi.
Chẳng chịu dừng ở đó, GS Hoàng Tụy vẫn kiên trì tiếp tục đóng góp ý kiến về mọi vấn đề bức xúc của xã hội. Chắc phải đến khi nào Cụ cảm thấy hết nợ mới thôi. Mà chí sĩ như Cụ thì có bao giờ hết mang nợ vào thân?
Tôi viết bài này khi đang công tác ở Leipzig, nơi tôi đã được đón tiếp GS Hoàng Tụy cách đây một phần tư thế kỷ. Tuy ở xa, nhưng trong mắt tôi vẫn hiện lên hình ảnh của Cụ, đang cặm cụi bên chén trà mà Cụ Bà mới rót, lặng lẽ sáng tạo ra những công trình khoa học để đời. (Tôi cố tình viết đậm, với ý nhấn mạnh những đóng góp thầm lặng mà rất lớn lao của Cụ Dương Thị Ngọc Anh, Người Bạn Đời đã để lại những dấu ấn rất đậm nét trong sự nghiệp vinh quang của GS Hoàng Tụy.)
GS Takahito Kuno ví GS Hoàng Tụy như Santa Claus đến từ một nước phương nam. Một hình tượng hay quá, đến mức khó chọn được hình ảnh nào hay hơn nữa. Nhưng tôi vẫn mạo muội liên tưởng đến hình ảnh của một ánh Sao Kim. Vì Sao Kim rất “đa diện”. Lúc bình minh thì lung linh với tên gọi Sao Mai. Khi hoàng hôn lại rực rỡ trong tư cách Sao Hôm. Và lúc nào cũng đẹp nên còn được mệnh danh là Venus (tên thần Vệ Nữ). Với mắt trần thì Sao Kim là thiên thể sáng thứ ba trên bầu trời, chỉ kém Mặt Trời và Mặt Trăng. Vậy mà mỗi khi tỉnh dậy, hối hả bước vào ngày mới, thì chẳng mấy ai để ý. Để rồi đến lúc màn đêm buông xuống, lại ngỡ ngàng trước ánh hào quang. Hoàng Tụy mà mọi người dễ nhận ra và hay ca ngợi trên báo chí mới chỉ như một ánh Sao Hôm – một người yêu nước, yêu dân thiết tha, luôn trăn trở bàn cách chống lại cái nghèo, cái dốt. Hoàng Tụy mà mọi người còn ít biết đến như một ánh Sao Mai – một nhà khoa học xuất sắc, rất sáng trên bầu trời khoa học nước nhà.
Thời gian trôi qua không chỉ bào mòn vật chất, mà còn làm thay đổi cả những giá trị tinh thần. Nhiều bạn bè cũ bỗng trở nên xa lạ, kẻ thù năm xưa nay lại thành đối tác làm ăn. Ký ức về những năm tháng hào hùng lùi dần vào dĩ vãng. Vị thế của những chiến thắng quân sự được đổi bằng bao xương máu cũng có đổi thay. Nhưng nhiều giá trị văn hóa thì vẫn ở lại mãi với thời gian, trong đó chắc phải kể đến những thành tựu nghiên cứu khoa học mà GS Hoàng Tụy đã đóng góp cho đời.
Xin chúc mừng Cụ và kính chúc Cụ thật sung sức để tỏa sáng dài lâu!
Leipzig, ngày 12/7/2007
An Authentic Scientist
Hoang Xuan Phu
Institute of Mathematics, Vietnamese Academy of Science and Technology
18 Hoang Quoc Viet Road, Hanoi, Vietnam
hxhu@math.ac.vn, phu@iwr.uni-heidelberg.de
http://hpsc.iwr.uni-heidelberg.de/hxphu/
(Dedicated to Professor Dr. Dr. h.c. mult. Hoang Tuy on the occation of his 80th birthday)
Tác giả là Giáo sư, Tiến sĩ, công tác tại
Viện Toán học, 18 Đường Hoàng Quốc Việt, Hà Nội
hxphu@math.ac.vn, phu@ iwr.uni-heidelberg.de
http://hpsc.iwr.uni-heidelberg.de/hxphu/
[2] “... he became the leader of our emerging field ‘Global Optimization’... His activities never diminished and even accelerated in recent years. He always inspired us with new ideas. We very much hope that he will continue to be the leader of our field in many more years to come.”
[3] “... and Professor Tuy himself came to visit Japan more frequently. Every time he brings us wonderful presents of research ideas. Yes, he is just Santa Claus coming from a southern country for us, the researchers in Japan.”
[4] “The reason I call him Santa Claus is not only it. He is ageless! Although he was already a white-haired man when I first met him, he is still the same as him at that time.”
[5] Ở Cộng hòa Liên bang Đức (với khoảng 82 triệu dân, ít hơn dân số Việt Nam) có rất nhiều viện nghiên cứu hoàn toàn nằm ngoài hệ thống các trường đại học. Hiệp hội Max Planck (Max Planck Society) có 80 viện nghiên cứu, với 12.000 cán bộ trong biên chế và 9.000 nghiên cứu sinh cùng các nhà khoa học đến từ khắp mọi nơi trên thế giới, trong đó có Viện Max Planck về Toán học (Max-Planck-Institute for Mathematics, thành lập 1981) ở Bonn và Viện Max Planck về Toán học trong Khoa học tự nhiên (Max-Planck-Institute for Mathematics in the Sciences, thành lập 1996) ở Leipzig. Hiệp hội Fraunhofer (Fraunhofer Society) có 56 viện nghiên cứu với 12.500 cán bộ nhân viên, trong đó có Viện Fraunhofer về Thuật toán và Tính toán khoa học (Fraunhofer-Institute for Algorithms and Scientific Computing, thành lập 1992) ở Sankt Augustin và Viện Fraunhofer về Toán Công nghiệp (Fraunhofer-Institute for Industrial Mathematics, thành lập 1995) ở Kaiserslautern. Hiệp hội Leibniz (Leibniz Association) có 84 viện nghiên cứu với 13.000 cán bộ nhân viên, trong đó có Viện Weierstrass về Giải tích và Xác suất Ứng dụng (Weierstrass Institute for Applied Analysis and Stochastics, thành lập 1991) ở Berlin. Chỉ riêng Viện Weierstrass ở Berlin có đã 102 nhân viên, tức là tương đương với quân số của Viện Toán học ở Hà Nội. Đặc biệt, “già nhất” trong 5 viện nghiên cứu toán học đang tồn tại ở CHLB Đức là Viện Max Planck về Toán học ở Bonn, được thành lập 1981 (12 năm sau khi Viện Toán học ở Hà Nội ra đời), còn 4 viện kia đều mới được thành lập trong những năm 1990. Điều đó cho thấy việc xây dựng các viện nghiên cứu ở ngoài hệ thống các trường đại học không phải là một xu hướng lỗi thời. Hơn nữa, Viện Max Planck về Toán học ở Bonn được tách ra từ trường Đại học Tổng hợp Bonn và Viện Fraunhofer về Toán Công nghiệp ở Kaiserslautern được tách ra từ trường Đại học Tổng hợp Kaiserslautern, tức là họ không đem một viện nghiên cứu độc lập nhập vào trường đại học mà làm ngược lại.
Tác giả là Giáo sư, Tiến sĩ, công tác tại
Viện Toán học, 18 Đường Hoàng Quốc Việt, Hà Nội
hxphu@math.ac.vn, phu@ iwr.uni-heidelberg.de
http://hpsc.iwr.uni-heidelberg.de/hxphu/
[2] “... he became the leader of our emerging field ‘Global Optimization’... His activities never diminished and even accelerated in recent years. He always inspired us with new ideas. We very much hope that he will continue to be the leader of our field in many more years to come.”
[3] “... and Professor Tuy himself came to visit Japan more frequently. Every time he brings us wonderful presents of research ideas. Yes, he is just Santa Claus coming from a southern country for us, the researchers in Japan.”
[4] “The reason I call him Santa Claus is not only it. He is ageless! Although he was already a white-haired man when I first met him, he is still the same as him at that time.”
[5] Ở Cộng hòa Liên bang Đức (với khoảng 82 triệu dân, ít hơn dân số Việt Nam) có rất nhiều viện nghiên cứu hoàn toàn nằm ngoài hệ thống các trường đại học. Hiệp hội Max Planck (Max Planck Society) có 80 viện nghiên cứu, với 12.000 cán bộ trong biên chế và 9.000 nghiên cứu sinh cùng các nhà khoa học đến từ khắp mọi nơi trên thế giới, trong đó có Viện Max Planck về Toán học (Max-Planck-Institute for Mathematics, thành lập 1981) ở Bonn và Viện Max Planck về Toán học trong Khoa học tự nhiên (Max-Planck-Institute for Mathematics in the Sciences, thành lập 1996) ở Leipzig. Hiệp hội Fraunhofer (Fraunhofer Society) có 56 viện nghiên cứu với 12.500 cán bộ nhân viên, trong đó có Viện Fraunhofer về Thuật toán và Tính toán khoa học (Fraunhofer-Institute for Algorithms and Scientific Computing, thành lập 1992) ở Sankt Augustin và Viện Fraunhofer về Toán Công nghiệp (Fraunhofer-Institute for Industrial Mathematics, thành lập 1995) ở Kaiserslautern. Hiệp hội Leibniz (Leibniz Association) có 84 viện nghiên cứu với 13.000 cán bộ nhân viên, trong đó có Viện Weierstrass về Giải tích và Xác suất Ứng dụng (Weierstrass Institute for Applied Analysis and Stochastics, thành lập 1991) ở Berlin. Chỉ riêng Viện Weierstrass ở Berlin có đã 102 nhân viên, tức là tương đương với quân số của Viện Toán học ở Hà Nội. Đặc biệt, “già nhất” trong 5 viện nghiên cứu toán học đang tồn tại ở CHLB Đức là Viện Max Planck về Toán học ở Bonn, được thành lập 1981 (12 năm sau khi Viện Toán học ở Hà Nội ra đời), còn 4 viện kia đều mới được thành lập trong những năm 1990. Điều đó cho thấy việc xây dựng các viện nghiên cứu ở ngoài hệ thống các trường đại học không phải là một xu hướng lỗi thời. Hơn nữa, Viện Max Planck về Toán học ở Bonn được tách ra từ trường Đại học Tổng hợp Bonn và Viện Fraunhofer về Toán Công nghiệp ở Kaiserslautern được tách ra từ trường Đại học Tổng hợp Kaiserslautern, tức là họ không đem một viện nghiên cứu độc lập nhập vào trường đại học mà làm ngược lại.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét