Sau
cuộc gặp lịch sử giữa Mao Trạch Đông với Nixon vào đầu năm 1972, và sự
kiện Mỹ rút ra khỏi Việt Nam sau Hiệp định Paris đầu năm 1973, Bắc Kinh
đã thấy trước một khả năng mới: Họ có thể loại trừ khả năng can thiệp
của Hải quân Mỹ nếu cưỡng chiếm các hòn đảo do Việt Nam Cộng hòa quản
lý.
Những bước chuẩn bị dài lâu
Cách đây vừa tròn 45 năm, ngày
19/1/1974, Hải quân Trung Quốc đã có trận đấu súng chóng vánh với Hải
quân Việt Nam Cộng hòa để rồi sau đó chính thức chiếm đóng hoàn toàn
quần đảo Hoàng Sa một cách phi pháp. Tuy nhiên, cho đến nay, Trung Quốc
vẫn không nhận được bất kỳ sự công nhận nào của cộng đồng quốc tế đối
với vấn đề chủ quyền của quần đảo này. Như vậy, Hoàng Sa vẫn là vùng
lãnh thổ đang tranh chấp.
Cơ sở hành chính trên đảo Hoàng Sa. Ảnh: tư liệu |
Là quốc gia cùng ký hiệp định Geneve năm
1954, Trung Quốc hiểu hơn ai hết Hoàng Sa và Trường Sa hoàn toàn thuộc
về Việt Nam, được thế giới công nhận và được giao cho chính quyền miền
Nam Việt Nam quản lý.
Khi thành lập 1949, Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa kiểm soát rất ít trong số 4 quần đảo, bãi ngầm tại biển Đông,
cũng như không kiểm soát được khu vực đảo Đài Loan. Trung Quốc lúc này
đã phải đối đầu với các thách thức, chẳng hạn từ chính quyền Quốc Dân
Đảng với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, cũng như trên các đảo ngoài khơi khác tại
khu vực biển Đông và biển Hoa Đông.
Quần đảo Hoàng Sa gồm hai nhóm đảo
chính, nhóm Nguyệt Thiềm (Crescen) nằm ở phía Tây Nam quần đảo, nhóm An
Vĩnh (Amphitrite) nằm ở phía Đông Bắc. Trước đó, quân đội Pháp đã chiếm
đảo Hoàng Sa (Pattle) thuộc nhóm Nguyệt Thiềm (Crescen).
Năm 1951, Trung Quốc đã chính thức đưa
ra yêu sách về chủ quyền của họ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa, nhưng bị nhiều quốc gia khác phản đối.
Ngày 1/6/1956, ngoại trưởng chính quyền
Việt Nam Cộng hòa (VNCH) Vũ Văn Mẫu tuyên bố tái khẳng định chủ quyền
của Việt Nam với Hoàng Sa và Trường Sa. Vài ngày sau, nhà nước Cộng hòa
Pháp cũng lên tiếng xác nhận.
Ngày 22/8/1956, hải lục quân VNCH đổ bộ
lên đảo chính của Hoàng Sa, dựng bia, kéo cờ. Trong cùng ngày, lực lượng
hải quân tỏa ra đổ bộ lên các hòn đảo chính thuộc Trường Sa, dựng các
cột đá chủ quyền.
Tháng 10/1956, hải quân Đài Loan chiếm
đảo Ba Bình (Itu Aba). Tranh thủ cơ hội, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa lập
tức nhảy vào chiếm đảo Phú Lâm.
Hoàn cảnh lịch sử phức tạp lúc này tạo
ra những thách thức vô cùng lớn với chủ quyền của Việt Nam trên hai quần
đảo. Cuộc chiến tranh Lạnh đang bước vào thời kỳ gay cấn, căng thẳng đã
ít nhiều chi phối đến thực thi chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo.
Trung Quốc đã triệt để tận dụng thời khắc đó để trục lợi và lên kế
hoạch xâm chiếm.
Chính quyền VNCH đã liên tục khẳng định
chủ quyền, phản đối các hành động chiếm đóng trái phép của nước ngoài
trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tuy nhiên, Trung Quốc ngày càng táo
bạo và bất chấp lẽ phải, luật pháp quốc tế để sử dụng vũ lực nhằm xâm
chiếm và kiểm soát hoàn toàn quần đảo này.
Trung Quốc đã thực hiện việc sử dụng vũ
lực vào một bối cảnh khiến vị trí của họ trong tranh chấp đã bị suy
giảm khi: i) Quân đội Việt Nam Cộng hòa đã tích cực mở rộng sự có mặt
trên Hoàng Sa; ii) và các lợi ích ngày càng thấy rõ của biển khơi, đặc
biệt là tài nguyên dầu mỏ, khi thế giới đang bước vào cuộc khủng hoảng
dầu mỏ những năm 1970.
Trung Quốc, khi nhìn thấy những lợi ích
của các vùng biển này, đã quyết định phải kiểm soát được tất cả các đảo
thuộc Hoàng Sa, vì trước đó, khoảng giữa những năm 1950, các đoàn tàu
thương mại của Trung Quốc đã buộc phải đi qua vùng biển cạnh khu vực
nhóm đảo Nguyệt Thiềm (Crescen).
Tuy Việt Nam Cộng hòa không tỏ ra có
hành động đe dọa nào đối với Trung Quốc tại nhóm đảo An Vĩnh
(Amphitrite), với ý định mỗi bên sẽ kiểm soát các khu vực biển thuộc
xung quanh nhóm đảo mà họ đang kiểm soát, nhưng các hành động này của
Việt Nam Cộng hòa đã làm suy giảm lợi thế của Trung Quốc. Và, vì thế,
Trung Quốc đã sử dụng sức mạnh quân sự như một biện pháp để phục hồi lại
vị thế lợi ích của mình tại đây.
Vào đầu những năm 1970, các lợi ích từ
tài nguyên biển trên biển Đông trở nên rất quan trọng, đặc biệt tại các
khu vực mà các bên tranh chấp.
Năm 1970, Philippines hoàn thành việc
khảo sát địa chấn tại các vùng nước xung quanh Trường Sa, và năm 1971
bắt đầu tiến hành khoan thăm dò. Trong khi đó, Việt Nam Cộng hòa cũng
bắt đầu việc khai thác nguồn dầu khí ngoài khơi, và tháng 7/1973 Sài Gòn
đã ký kết 8 hợp đồng khoan thăm dò tại những nơi được cho là có nhiều
dầu mỏ trên biển Đông. Tháng 1 và tháng 3/1973, Việt Nam Cộng hòa cũng
đã cho tiến hành khảo sát địa chấn tại khu vực xung quanh nhóm đảo
Nguyệt Thiềm.
Còn tháng 12/1973, Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa cũng công bố cho thấy triển vọng của các giếng dầu ở ngoài khơi
Vịnh Bắc Bộ, phía bắc của quần đảo Hoàng Sa.
Với những giá trị kinh tế của các nhóm
đảo ngoài khơi ngày càng gia tăng, các quốc gia khác cũng bắt đầu giành
lấy những cấu trúc tại Hoàng Sa, Trường Sa, ở những nơi mà Trung Quốc
hoàn toàn không có sự hiện diện nào. Để củng cố cho các yêu sách của
mình, Philippines đã chiếm 5 đảo và đá tại Trường Sa trong khoảng thời
gian từ năm 1970 đến năm 1971. Đây là lần đầu tiên Philippines có sự
hiện diện tại vùng lãnh thổ tranh chấp này.
Tháng
9/1973, Việt Nam Cộng hòa tuyên bố sáp nhập quần đảo Trường Sa vào địa
bàn tỉnh Phước Tuy. Các hành động của các quốc gia này chỉ trong chưa
đầy 3 năm đã đẩy Trung Quốc vào thế bất lợi trong tranh chấp này.
Để đáp lại những hành động đó, Trung
Quốc quyết định mở rộng sự hiện diện của mình trên những hòn đảo ngoài
khơi biển Đông, nơi có ít sự trợ giúp của các lực lượng hải quân của các
quốc gia khác.
Đặc biệt, sau cuộc gặp lịch sử giữa Mao
Trạch Đông với Nixon vào đầu năm 1972, và sự kiện Mỹ rút ra khỏi Việt
Nam sau Hiệp định Paris đầu năm 1973, Bắc Kinh đã thấy trước một khả
năng mới: Họ có thể loại trừ khả năng can thiệp của Hải quân Mỹ nếu
cưỡng chiếm các hòn đảo thuộc do Việt Nam Cộng hòa quản lý.
Ảnh tư liệu. |
Trung Quốc đã sử dụng các ngư dân để gia
tăng sự hiện diện của họ trên vùng biển nhóm Nguyệt Thiềm (Crescen) từ
năm 1973. Ngày 9/1/1974, các ngư dân Trung Quốc từ đảo Hữu Nhật (Robert)
áp sát tới gần đảo Hoàng Sa (Pattle) - nơi mà Việt Nam Cộng hòa đang
đóng quân trên đó. Ngày 11/1, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc công khai
thách thức Tuyên bố tháng 9/1973 của Việt Nam Cộng hòa.
Giữa tháng 1/1974, các tình huống đối
đầu trở nên căng thẳng hơn. Tiếp theo các tuyên bố của Bắc Kinh, Sài Gòn
gửi thêm một số tàu chiến tới khu vực nhóm đảo Nguyệt Thiềm (Crescen),
trục xuất các ngư dân Trung Quốc ra khỏi khu vực này. Từ đó đã dẫn tới
sự kiện ngày 19-20/1/1974, mà sau đó Trung Quốc đã giành được quyền kiểm
soát trên toàn bộ quần đảo Hoàng Sa bằng sức mạnh quân sự của mình.
Hải chiến Hoàng Sa ngày 19/1/1974
Trước khi tiếng súng bắt đầu nổ ra tại
Hoàng Sa vào lúc 10h25', ngày 19/1/1975, ngày 16/1/1974, Chính phủ VNCH
đã tuyên cáo rộng rãi với thế giới bác bỏ những luận cứ vô lý của Trung
Quốc và đưa ra những bằng chứng lịch sử, pháp lý được thế giới công nhận
của Việt Nam với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Sau khi phát hiện sự có mặt của quân đội
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại vùng Hoàng Sa với cờ dựng trên các đảo
Quang Anh (Money), Hữu Nhật (Robert), lực lượng quân đội VNCH được tăng
cường với khu trục hạm Trần Khánh Dư, tuần dương hạm Trần Bình Trọng, hộ
tống hạm Nhật Tảo. Lực lượng tăng cường của VNCH có các toán biệt hải
được lệnh đổ bộ đến các đảo hạ cờ của quân đội Trung Quốc. Vài vụ xô xát
đã xảy ra, súng đã nổ trên đảo Quang Hòa (Duncan) và một đảo khác.
Lực lượng hai bên bắt đầu chuẩn bị, các
chiến hạm cách nhau chừng 200m. Cuộc hải chiến bắt đầu diễn ra vào lúc
10h25' ngày 19/1/1974. Một chiến hạm của TQ bị bốc cháy. Các chiến hạm
của TQ mang số 281, 182 dồn sức đánh trả khiến chiến hạm Nhật Tảo bị
trúng đạn trên đài chỉ huy và hầm máy chính, hạm trưởng Ngụy Văn Thà hy
sinh.
Sau hơn 1 giờ giao tranh, hai chiến hạm
của TQ chìm, 2 chiếc khác bị bắn cháy. Bên lực lượng VNCH ngoài hộ tống
hạm Nhật Tảo bị chìm, còn có một số chiến hạm bị thương tổn, trong đó có
một số binh sĩ bị bắt và mất tích.
Lầu Năm Góc khi đó được chính quyền Sài
Gòn yêu cầu can thiệp, nhưng quyết định đứng ngoài cuộc xung đột. Trợ lý
Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, Arthur Hummel cho chính quyền Sài Gòn biết Mỹ
không quan tâm đến vấn đề Hoàng Sa.
Ngày 20/1/1974, Chính phủ Cách mạng Lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (CHMNVN) đã ra bản Tuyên bố phản đối
hành động này của phía Trung Quốc. Ngày 26/1/1974, Chính phủ Cách mạng
lâm thời CHMNVN tuyên bố lập trường 3 điểm về việc giải quyết các vấn đề
tranh chấp lãnh thổ. Ngày 14/2/1974, Chính phủ Cách mạng lâm thời
CHMNVN tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là
một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam.
Nếu như Mỹ là đồng minh của Chính phủ
VNCH đã làm ngơ cho Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa thì Liên Xô lại phản
đối. Ngày 27/1/1974, Báo Pravda (Sự thật) của Đảng Cộng sản Liên Xô đã
có bài xã luận lên án gay gắt hành vi xâm lược bằng vũ lực của Trung
Quốc và cảnh báo âm mưu bành trướng của Trung Quốc trên biển Đông và
Đông Nam Á. Bài xã luận khẳng định: "Hành động quân sự của Trung
Quốc tại Hoàng Sa như một chủ trương bành trướng lãnh thổ là đe dọa cho
các quốc gia châu Á. Việc sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp đất
đai, lãnh thổ là không thể nào tha thứ".
Một số nước Nam Á đã lên tiếng phản đối hành vi dùng vũ lực của Trung Quốc.
Tàu HQ4 của hải quân Việt Nam Cộng hòa. |
Ngày 30/3/1974, đại biểu chính quyền
VNCH khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa tại Hội đồng Kinh tài Viễn Đông họp tại Colombia. Ngày
14/2/1975, Bộ Ngoại giao chính quyền VNCH công bố Sách Trắng về Hoàng Sa
và Trường Sa.
Mặc cho những sự phản đối này, Trung
Quốc vẫn chiếm giữ trái phép toàn bộ Hoàng Sa và tiếp tục phát triển cơ
sở hạ tầng trên quần đảo cho đến nay. Nước Việt Nam thống nhất sau năm
1975 luôn tuyên bố khẳng định rõ ràng chủ quyền đối với quần đảo Hoàng
Sa.
L.G
Túm lại là bài này chả khách quan.
Trả lờiXóaLực lượng HQ VNCH đánh đấm chả ra hồn ,thua sấp mặt .Kế hoạch tác chiến tệ lậu nên thua sấp mặt .
Chửi Mỹ âm mưu với T.Quốc là não trạng đổ lỗi cho kẻ khác nhưng chả xem lại mình. Nói theo kiểu DT .Quốc xảo trá , Mỹ nó ký HĐ Paris rồi thì chính phủ nó ra lệnh ko can thiệp thì HQ Mỹ ngu làm trái lệnh hả ? HS của VN chứ của nó đâu mà HQ Mỹ chống lệnh ?
Nói CP CH MN VN phản đối là xảo trá , báo Pháp còn ghi lại từ chối của CPLTCHMNVN cùng VNCH lên án Tàu .
Chính LX là kẻ mà năm 1950 phủ quyết tuyên bố của đs Quốc Gia VN về chủ quyền HD & TS tại HN San Fransisco 1950 và đòi giao chủ quyền HS & TS cho Tàu đại lục .
VNDC CH thì sao ? Khà khà quán triệt là Tàu chiếm HS là chiếm cho VNDC CH .Cái này bà 7 Vân vợ sau LD khẳng định
Nặng giai cấp, ý thức hệ đều sai lầm và THẤT BẠI. Liệu có thất bại nào lớn hơn mất đất, mất biển? Liệu có tội nào lớn hơn để mất đất, mất biển?
Trả lờiXóaNếu Việt nam dân chủ cộng hòa không kéo quân vào đánh Việt nam cộng hòa thì bọn Tầu không thể có cơ hội đánh chiếm Hoàng sa dễ dàng thế được . Ngay sau khi Hoàng sa thân yêu bị mất vào tay giặc , Chính phủ Hà nội chẳng có 1 lời tố cáo với thế giới . Đến 19/01/2019 , kỉ niệm 45 năm ngày giặc chiếm Hoàng sa mà báo Nhân dân và đài truyền hình VTV1 còn không dám nhắc tới thì dân còn tin vào ai bây giờ ? Các ngài hờ en hen huyền hèn quá .
Trả lờiXóa