Thứ Bảy, 26 tháng 5, 2018

Phan Đắc Lữ: TƯỞNG NIỆM 1 NĂM NGÀY MẤT THI SĨ PHẠM NGỌC LƯ


CHỈ CÒN BÚT MỰC ĐAN THANH TƯƠI MÀU

Nhà thơ Phan Đắc Lữ


Kỷ niệm một năm ngày mất của nhà thơ Phạm Ngọc Lư
(26 tháng 5 năm 2017 – 26 tháng 5 năm 2018)

     Tôi với Phạm Ngọc Lư quen nhau biết từ năm 2000 qua duyên thơ và đã nhanh chóng kết nhau làm tri âm.

     Tết Giáp Thân (2004) anh có gửi tặng tôi tập thơ Đan Tâm dưới dạng bản thảo,được in theo lối thủ công nhưng khá trang nhã, gồm 48 bài thơ vừa là hành (trường thiên độc vận ), vừa là thơ 5 chữ,thơ 7 chữ nhưng nhiều nhất lại là thơ lục bát. Trong lá thư gửi kèm, Phạm Ngọc Lư có dặn dò: ” Theo tôi, cả tập thơ , bài Biên cương hành là tâm điểm , nên mong anh (hoặc sau này những độc giả nào đó) cố gắng đọc cho một bài đó thôi là tôi vui lắm rồi, còn những bài khác chẳng cần đọc cũng được”. Tôi đã đọc rất kỹ, đọc đi đọc lại cả tập thơ nhiều lần và tôi nhận ra rằng lời dặn dò của anh là quá khiêm tốn, bởi cái đã làm nên diện mạo, hình hài và linh hồn thơ Phạm Ngọc Lư chính là những bài lục bát, chứ không phải chỉ riêng một Biên cương hành , Cố lý hành.

   Bằng một bút pháp vững vàng, bằng sự miêu tả sinh động đầy chất bi tráng, Biên cương hành gieo vào lòng người đọc cảm giác hãi hùng về chiến tranh. Bài thơ được anh sáng tác lúc mới ngoài hai mươi tuổi, trong một giai đoạn lịch sử đầy đau thương của dân tộc: Đó là cuộc chiến tranh ” huynh đệ tương tàn ” như lời ca của Trịnh Công Sơn ”hai mươi năm nội chiến từng ngày”, bởi trên chiến trường xác người ngoại bang thì ít còn xác của anh em ruột thịt, của cha con, của đồng bào thì quá nhiều để sau nầy ” mộ bia dầy như nấm ” :

                                                    Mùa khô tới theo chân thù địch
                                                    Ta về theo cho rậm chiến trường
                                                    Chiến trường ném binh như vãi đậu
                                                    Đoàn quân ma bay khắp bốn phương
                                                    Lớp lớp chồm lên đè bẹp núi
                                                    Núi mang cao điểm ngút oan hồn

     Một  Sông Đông êm đềm của Sholokhov, một Mặt trận miền Tây vẫn yên tĩnh của Remarque, một Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh và với Phạm Ngọc Lư một Biên cương hành đã cho ta thấy chiến tranh là thế nào . Chiến tranh bùng nổ từ tham vọng của các nhà chính trị, các tướng soái chóp bu bất đồng chính kiến, tranh chấp quyền lực, nhân danh chủ nghĩa này chủ nghĩa nọ….để rồi xô đẩy những mái đầu xanh tuổi trẻ ra chiến trường chém giết nhau không có ngày về.

                                                   Thôi em, yêu chi ta thêm tội
                                                   Vô duyên xui rơi lược vỡ gương
                                                   Ngày về không hẹn ngày hôn lễ
                                                   Hoặc ngày ta nhắm mắt tay buông
                                                  Thôi em, chớ liều thân cô phụ
                                                  Chiến trường nay lắm nỗi đoạn trường

     Còn bài Cố lý hành thì chất ngất nỗi đau khôn cùng của một người con sau mười năm tha hương trở về, đứng nhìn cố hương đổ nát hoang tàn vì binh lửa:

                                                Ai chết quanh đây mà cú rúc
                                               Mà cơn gió lạnh réo hồn oan
                                               Ai trong muôn dặm không về nữa
                                              Cố lý mười năm mộng bẽ bàng
                                              Cố lý mười năm ngày trở lại
                                             Như ngày Lưu Nguyễn xuống trần gian!

     Có lẽ đây là mối đồng cảm sâu sắc nhất giữa tôi và Phạm Ngọc Lư về một cố hương chăng(?) cho dù một người ở tận Phá Tam Giang( Thừa Thiên)còn một người thì quê quán ở làng Bảo An,  bên triền sông Thu Bồn(Quãng Nam)nổi tiếng xa xưa.

      Có người bảo thơ Phạm Ngọc Lư không ảnh hưởng Thiền. Tôi không nghĩ như thế. Thơ anh ít nhiều có ảnh hưởng Thiền, đôi khi lại nhuốm chút hiên sinh. Đau nỗi đau của đời, lại đau nỗi đau của kiếp người hữu hạn trước cái vô cùng vô tận của  vũ trụ và thời gian là đã ”chạm” đến Thiền.Chống lại cái Ác, hướng đến cái Thiện cái Mỹ là tâm đã hướng về Thiền. Chẳng hạn, đoạn cuối bài Ngập ngừng trông núi tôi thấy đậm nét phong vị Thiền :

                                             Năm năm ba nổi bảy chìm
                                            Ta mơ làm núi đứng im yên hàn
                                            Trầm ngâm vòi või hiên ngang
                                           Núi ơi… hồn núi miên man nghĩ gì?

       Bài Lưu biệt, bài Phù dung và một số bài khác cũng  phảng phất chất Thiền. Cũng từ ảnh hưởngThiền mà thơ Phạm Ngọc Lư có chiều sâu triết lý, chiều sâu của tâm hồn, gây nhiều ấn tượng cho người đọc, Ngay cả trong bài Gởi kiều nữ vô danh, tấm lòng thương cảm của Phạm Ngọc Lư đối với người con gái buôn phấn bán hương nơi tửu điếm ( như ngày xưa Bạch Cư Dị đã cảm thương người ca nữ trên bến Tầm Dương )chính là Thiền nhập thế:

                                          Hương phấn mấy mùa thôi góp lại
                                          Dọn mình đi ta gởi đóa hồng
                                          Đêm nay tương kiến là tương biệt
                                          Mai em về…một bến nước trong?

        Trong một lá thư viết cho tôi , Phạm Ngọc Lư đã đưa ra nhận định nầy : «  Cùng một tứ thơ, cùng một cảm xúc, nếu diễn đạt bằng thể thơ lục bát mà thành công thì vẫn hay hơn những thể thơ khác ». Tôi đồng ý với anh về nhận định đó. Nhắc lại như vậy để khẳng định rằng trong Đan Tâm, thơ lục bát của Pham Ngọc Lư tài hoa hơn, thành công hơn những thể thơ khác. Bằng ngôn ngữ chắt lọc, bằng những suy tưởng phong phú , những cảm xúc tinh tế và một kỹ thuật tu từ vững vàng, Phạm Ngọc Lư đã trãi hết nỗi lòng mình qua những bài lục bát mà tứ thơ rất rõ nét, lúc huyền ảo lúc hiện thực, thực và hư đan xen nhau suốt cả tập thơ như hình với bóng. Bốn câu đầu của bài Phù dung thì hư ảo mộng mị Liêu trai :

                                         Phải em là khách chiêm bao ?
                                        Từ đêm thiên cổ lạc vào đêm nay
                                        Xiêm vàng áo giấy lay bay
                                        Mơn man nét khói đường mây đa tình.

         Nhưng bốn câu đầu trong bài Qúa giang tự vịnh lại rất thực, rất đời:

                                       Sông Hàn, mệt lắm, song Hàn!
                                       Mai qua chiều lại trưa sang tối về
                                       Đời mòn lăn chậm bánh xe
                                       Áo cơm bải hoải nặng nề lăn theo.

          Cái buồn , cái đau trong thơ anh chính là nỗi đau buồn của nhân sinh trong cõi trần ai nầy.

           Bao năm nay trên thi đàn xuất hiện không biết bao nhiêu « nhà thơ ». Các nhà xuất bản cũng cho in hằng hà sa số các tập thơ, từ vàng thau cho đến « đồng chì nhôm nhựa… ». Có những tập in chung dày hàng nghìn trang với hàng trăm tác giả hữu danh có, vô danh có. Ấy thế mà tập thơ Đan Tâm của Phạm Ngọc Lư thì mãi vẫn còn là bản thảo !

          Tháng 8 năm 2004, được sự đồng ý của Pham Ngọc Lư, tôi photocopy bản thảo tập Đan Tâm và đem đến nhà xuất bản Thanh Niên(cơ sở phía Nam ở đường Nguyễn Đình Chiểu) để xin giấy phép và bảo vợ tôi chuẩn bị một số tiền để rồi đây in tập thơ nầy giúp bạn. Tôi còn nhớ câu dặn dò của Lư : «  bất cứ bài thơ nào bị xóa bỏ thì có thể tạm chấp nhận, nhưng nếu Biên cương hành bị sửa hay xóa bỏ thì thôi, anh rút bản thảo về, không in ». Là chỗ quen biết ( tôi đã in tập thơ Buồn của mình với giấy phép của NXB nầy) nên ban đầu họ rất vồn vã và hứa trong vòng hơn nửa tháng giấy tờ sẽ xong xuôi. Nào ngờ, hơn hai tháng trời trôi qua họ vẫn im hơi lặng tiếng, điều này có nghĩa tập thơ « có vấn đề » rồi. Tôi mang một bản photo Đan Tâm khác đến nhà xuất bản Văn Nghệ TP HCM ở đường Lý Chính Thắng, hy vọng nhà XB nầy « thoáng » hơn. Qủa vậy, ở đây họ làm việc khá nhanh và rất kỹ. Khi mời tôi đến để trao đổi và nhận lại bản thảo tập Đan Tâm có chữ ký của ông giám đốc ký duyệt lần cuối ngày 27/11/2004, mở ra, tôi rất thất vọng vì Biên cương hành bị « gác lại » toàn bài, lời bạt của Nguyễn Lệ Uyên cũng chung số phận, bài Cố lý hành thì may mắn còn nguyên vẹn nhưng có chữ ký của ông giám đốc phê cuối bài : «  Đề nghị ghi rõ địa danh khi làm bài thơ này để thấy rõ tội ác chiến tranh của Mỹ ngụy». Ngoài những bài « trọng điểm » ấy ra thì Bên sông, Rụng tim người, Ngồi chợ, Túy hoài, Nhớ Làng, Sóng vỗ,Trường dạ khúc, Huế ngày về, Chỉ Còn Đan Tâm và nhiều bài khác nữa bị gạch bỏ nhiều khổ, nhiều đoạn. Gạch bỏ cấm đoán là quyền lực của nhà xuất bản, nhưng điều làm cho tôi không dằn được sự phẫn nộ là người biên tập muốn phô trương cái « tài năng uyên bác » của mình bằng cách đã ngang nhiên sửa thơ một cách tùy tiện, làm sai ý câu thơ, làm ngôn ngữ thơ nhiều chổ trở thành vụng về, lố bịch, kệch cỡm… Chẳng hạn, bài Bên sông chỉ là bài thơ tình bình thường, chẳng « đụng chạm » ai cả, vậy mà các câu

                                       Đời có như không
                                      Tiếc gì tay trắng
                                     Thôi thà rêu rong 

        Bị gạch bỏ, còn các câu tiếp theo

                                          Ta gieo xuống sông
                                          Vỡ dòng nước chết
                                          Nước đứng tim đêm
                                         Ta còn thở hết ?

          Thì được sửa như thế này

                                      …Vỡ dòng nước lạnh
                                          Nước đứng im nghe
                                         Ta còn thở dốc

         Và hai câu cuối «  Người như phong vũ/ lạnh màu thê thê…không biết bị tội gì cũng bị gạch thẳng thừng !»

Chảng hạn bài Giã từ thế kỷ, hai câu kết Phạm Ngọc Lư viết :

                                     Trăm năm….thôi chẳng còn gì
                                     Ngàn năm sau…biết lấy chi vui buồn ?

Đã được « biên tập » lại một cách ngô nghê thế nầy :

                                    Trăm năm một kiếp- cũng là
                                    Ngàn năm sau vẫn mặn mà buồn vui !

    Còn nhiều và nhiều nữa… thậm chí tựa đề của một số bài thơ cũng bị chỉnh sửa, ví dụ Rụng tim người bị đổi thành « Tình tan tim người », Đất trích thì bị đánh ? nghi hoặc, Hoa tầm thường thì từ « tầm thường » chắc nghe chướng tai nên được vòng lại và ghi : « nên đổi từ nầy ». Riêng bài Biên cương hành thì người biên tập có đọc mươi câu đầu, sửa câu thứ hai Chào núi cao rừng thẳm nhiễu nhương thành :…rừng thẳm thân thương », câu thứ tư Núi chập chùng như dãy mồ chôn biến thành «…như dãy Trường Sơn »,nhiều từ khác của các câu tiếp theo bị underline(tức không ổn ), rồi không cần đọc tiếp nữa họ ghi ngay lên đầu bài 2 chữ « gác lại »một cách dứt khoát.

   Quay lại NXB Thanh Niên khi được cho biết một số bài trong Đan Tâm « có vấn đề » tôi đã tìm cách giải thích và biện hộ. cuối cùng Ban biên tập đồng ý cho in nhưng với điều kiện : tác giả phải viết một bài tựa giải thích tại sao đã viết Biên cương hànhCố lý hành, viết ở đâu ? thời điểm nào ? phải nói rõ nỗi chán chường căm ghét chiến tranh của những người lính bị ném ra chiến trường trong Biên cương hành là lính miền Nam, lính chế độ Sài gòn chứ hoàn toàn không phải là bộ đội Giải phóng quân. Với Cố lý hành thì cũng phải nói rõ : chính bom đạn của bọn Mỹ ngụy đã gây ra cảnh đổ nát hoang tàn cho làng xóm quê hương ta….

   Thuyết phục không được, cuối cùng tôi đã cãi vã với trưởng ban biên tập và gọi điện ra miền Trung trao đổi với Phạm Ngọc Lư. Chúng tôi nhất trí với nhau : thôi, thà không in còn hơn in mà phải chiều theo những đòi hỏi lố bịch của nhà xuất bản !

     Phạm Ngọc Lư ơi ! Đan Tâm không in được nơi nầy thì ta in nơi khác, không lúc nầy thì lúc khác. « Thiệt vàng không sợ chi lửa » ! Mà thơ thì « quý hồ tinh, bất quý hồ đa ». Chỉ với 48 bài trong Đan Tâm, Lư đã nói lên nỗi lòng của mình với muôn thuở. Mai nầy, tôi tin rằng Biên cương hành và một số bài thơ khác của Phạm Ngọc Lư sẽ có chỗ đứng xứng đáng trên thi đàn của đất nước. Chắc chắn là vậỵ! 

Saigon, Tháng 6/2005 
Phan Đắc Lữ


                                          PHỤ BẢN

                                                                  Thơ Phạm Ngọc Lư

                                                            BIÊN CƯƠNG HÀNH 

                                            Biên cương biên cương chào biên cương
                                            Chào núi cao rừng thẳm nhiễu nhương
                                            Máu đã nuôi rừng xanh xanh ngắt

                                           Núi chập chùng như dãy mồ chôn
                                           Gớm , gió Lào tanh mùi đất chết
                                           Thổi lấp rừng già bạt núi non
                                           Mùa khô tới theo chân thù địch
                                           Ta về theo cho rậm chiến trường
                                           Chiến trường ném binh như vãi đậu
                                            Đoàn quân ma bay khắp bốn phương
                                            Lớp lớp chồm lên đè bẹp núi
                                            Núi mang cao điểm ngút oan hồn
                                            Đá mang dáng dấp hình chinh phụ
                                            Chơ vơ chóp núi đứng bồng con .

                                            Khu chiến ngày tràn lan lửa dậy
                                            Đá Vọng phu mọc khắp biên cương
                                            cương biên cương đi biền biệt
                                            Chưa hết thanh xuân đã cùng đường
                                            Trông núi có khi lầm bóng vợ
                                            Ôm đá mà mơ chuyện yêu đương
                                            Thôi em , sá chi ta mà đợi
                                            Sá chi hạt cát giữa sa trường
                                            Sa trường anh hùng còn vùi dập
                                            Há rằng ta biết hen gì hơn ?

                                          Đây biên cương , ghê thay biên cương !
                                          Núi tiếp rừng , rừng tiếp khe truông
                                          Hải hùng chưa trời hoang mây rậm
                                          Mùa mưa về báo hiệu tai ương
                                          Quân len lỏi dưới tàn lá dữ
                                          Là xôn xao xanh mặt hoàng hôn
                                        
                                          Sát khí đằng đằng rừng dựng tốc
                                          Ma thiêng còn ngán bọn cô hồn .


                                          Cô hồn một lũ nơi quan tái
                                          Có khi đã hóa thành thú muông
                                         Cô hồn một lũ nơi đất trích
                                         Vỗ đá mà ca ngông hát cuồng
                                          Chém cây cho đở thèm giết chóc
                                         Đở thèm môi mắt gái buôn hương

                                         Đây biên cương , ghê thay biên cương !
                                         Tử khí bốc lên dày như sương
                                         Đã chảy mồ hôi rừng ứa máu
                                         Rừng núi ơi ta đến chia buồn
                                         Buồn quá giả làm con vượn hú
                                         Nào ngờ ta con thú bị thương
                                         Chiều hôm bắt tay làm loa gọi
                                        Gọi ai nơi viễn xứ tha phương ?
                                        Gọi ai giữa sơn cùng thủy tận ?
                                        Ai người thiên cổ tiếc máu xương ?
                                        Em đâu quê nhà chong mắt đợi
                                        Hồn theo mây trắng ra biên cương

                                        Thôi em , yêu chi ta thêm tội
                                        Vô duyên xuôi rơi lược vỡ gương
                                        Ngày về không hẹn ngày hôn lễ
                                        Hoăc ngày ta mắt nhắm tay buông
                                       Thôi em, chớ liều thân cô phụ
                                        Chiến trường nay lắm nỗi đoạn trường
                                        Nơi nơi lạnh trăm dòng sông Dịch
                                        Kinh kha đời nay cá vạn muôn
                                       Há một mình ta xuôi biên tái
                                       « nhất khứ bất phục phản «  là thường !

                                       Thôi em, còn chi ta mà đợi
                                       Ngày về thân cạn máu khô xương
                                       Ngày về hôn lễ hay tang lễ
                                       Hề chi ! buổi chinh chiến tang thương
                                       Hề chi ! kiếp cây rừng đá núi
                                       Ngàn năm hồn quanh quẩn biên cương .

                                                                    Tháng 5 năm 1972

                                                        CỐ LÝ HÀNH

                                    Chiều chết đuối trên sông ngờm ngợp
                                    Nước đua chen đớp bọt nắng tàn
                                    Đò qua sông dìu hiu bến đợi
                                    Buồn rút lên bờ cây khai quang
                                    Mây đổ xù lông như chó ốm
                                    Trời bôi nhòe mặt ngóng đêm sang
                                   Thôn ổ tiêu sơ gầy khói bếp
                                    Đồng không mốc thếch lạnh tro tàn

                                   Có biết ta về không cố lý ?
                                   Mười năm chưa lạ mặt xóm làng
                                   Sao phên dậu nghiêng đầu câm nín
                                   Rơm rạ làm thinh chẳng hỏi han
                                   Cổng khép rào vây vườn cỏ dại
                                  Tường xiêu mái rách bóng nhà hoang
                                  Ngõ vắng bàn chân như hụt đất
                                  Tre già đang kể chuyện chon măng
                                  Nương rẫy đang phơi lòng dâu bể
                                  Nói làm sao hết nỗi bàng hoàng ?
                                  Khóc làm sao vừa lòng cố lý ?
                                  Phải đây là cố lý ta chăng?
                                  Đâu bóng mẹ già sau khung cửa
                                  Và những người em mặt trái xoan
                                  Đâu bóng chị hiền như hoa cỏ
                                  Bên luống cà xanh liếp cải vàng

                                 Đất đá thở ra mùi u uât
                                 Bốn bề hun hút rợn màu tang
                                 Ai chết quanh đây mà cú rúc
                                 Mà cơn gió lạnh réo hồn oan
                                 Ai trong muôn dặm không về nữa
                                 Cố lý mười năm mộng bẽ bang
                                 Cố lý mười năm ngày trở lại
                                 Như ngày Lưu Nguyễn xuống trần gian !

                                                                          1972

                                             QUÁ GIANG TỰ VỊNH

                              Sông Hàn , mệt lắm , sông Hàn !
                              Mai qua chiều lại trưa sang tối về
                              Đời mòn lăn chậm bánh xe
                              Áo cơm bải hoải nặng nề lăn theo
                              Dài chi nhịp nhịp giang kiều
                              Tha hồ gió ngạo mưa kiêu rách lòng
                              Đành như hàn sỹ qua sông
                              Đành như khuê nữ chậm chồng quá giang
                              Trông ra trời nước mơ màng
                              Giật mình trẩy khúc  gian nan qua cầu
                              Đoạn trường lăn bánh xe đau
                              Sông Hàn lạnh , sông Hàn sâu …im lìm
                              Sông nào nước xoáy trong tim ?

                                                                        Tháng 2 năm 1997

                                          THUYỀN QUYÊN
                                                                         Gửi Hiệp

                            Em từ tình sử bước ra
                            Y trang yểu điệu đôi tà mộng bay

                           Chào nhau gác gió lầu mây
                           Nghìn đêm giọt nến rơi đầy trang thơ
                           Nghìn đêm song lạnh trăng mờ
                           Trương Chi bạc tóc bên bờ Tương Giang

                           Chiều nao nhất kiến hồng nhan
                           Chiều nay xác bướm rơi đầy mộ hoa

                           Áo xưa mộng mị đôi tà
                           Đành thôi xép lại Nam Kha gối đầu
                           Mơ gí phong các vân lâu
                           Mà theo chim mộng tìm nhau cuối trời

                           Đêm nay nước chở thuyền trôi
                          Thuyền quyên em chở tình tôi xuôi dòng
                          Ngày mai lặng lẽ hư không
                          Còn chăng…đôi hạt bụi hồng thơ bay
 
                                                           Tháng 4 năm 1996


                                                VỀ …

                           Về !
                           Thôi một lần về !
                           Bóng chiều thiêm thiép sau xe
                             Khói lam chở giọt nắng về hoàng hôn
                          Chở theo màu nước sắc son
                          Chậm thôi ly biệt nắng còn thiết tha
                           Đường về lả tả xác hoa
                           Xe lăn bánh chậm thôi mà xe đau
                           Niềm vui giục giã đi mau
                           Nỗi buồn đứng lại cúi đầu không đi
                           Dùng dằng thêm nặn chia ly
                          Trăm năm cười khóc lạ gì buồn vui
                          Về !
                         Thôi một lần thôi
                          Coi như hạt bụi rong chơi lui về …

                                                        12-1999    

                                               
                                   GỞI KIỀU NỮ VÔ DANH

                            Em mấy mùa vung vãi phấn hương ?
                            Mà đêm nay rũ rượi y thường
                            Nhìn ta đôi mắt như ngâm rượu
                            Xanh lét bàn tay rót tang thương

                           Quán tù mù như một âm cung
                           Rượu phù hoa rót chén phù dung
                            Một ly thâm tạ tình nhan sắc
                            Hai ly bái kiến nợ đào hồng

                            Em khuấy tiếng cười pha giọt lệ
                            Rót mời ta cạn một biển lòng
                            Sao mắt chua như màu rượu bạc
                            Cứ cụng đầu như cụng thinh không

                           Gặp nhau như thể trong thơ truyện
                           Cũng lệ Tầm Dương ương ướt tình
                           Chỉ tiếc đời bặt tăm Từ Hải
                           Em đành vương víu nợ Thúc Sinh

                          Hương phân mấy mùa thôi góp lại
                          Dọn mình đi ta gửi đóa hồng
                          Đêm nay tương kiến là tương biệt
                          Mai em về một bến nước trong ?                          
                                                                                                                     


1 nhận xét :